Khoa luật kỷ YẾu hội nghị TỔng kết công tác sinh viên nghiên cứu khoa học năm họC 2015 -2016


NHỮNG VƯỚNG MẮC VÀ HẠN CHẾ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN TRONG GIAI ĐOẠN 2010-2014



tải về 1.61 Mb.
trang10/12
Chuyển đổi dữ liệu31.12.2017
Kích1.61 Mb.
#35147
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   12

NHỮNG VƯỚNG MẮC VÀ HẠN CHẾ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN TRONG GIAI ĐOẠN 2010-2014


Nhóm tác giả: Trương Thị Huyền

ĐặngThị Như Quỳnh

Nguyễn Thị Hồng

Nguyễn Thị Thu Hằng

Lớp: K54B7-LH, K54B3-LH

GVHD: ThS. Nguyễn Thị Mai Trang


  1. Lý do chọn đề tài

Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn quan trọng quá trình Tố tụng hình sự nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý kịp thời, công minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm không làm oan người vô tội. Kết quả của hoạt động điều tra vụ án hình sự phải đem đến kết luận chính xác khách quan, kịp thời giúp cho việc giải quyết vụ án một cách đúng đắn đảm bảo các yêu cầu nghiệp vụ, chính trị và pháp luật.

Do tính chất quan trọng của giai đoạn điều tra, và tầm ảnh hưởng của nó tới xã hội và để hiểu sâu hơn về những khó khăn mà tại Thành phố Vinh đang gặp phải nhóm chúng tôi đã chọn đề tài : “Những vướng mắc và hạn chế trong hoạt động điều tra vụ án hình sự trên địa bàn Thành phố Vinh tỉnh Nghệ An giai đoạn 2010-2014”.



  1. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật Tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật Tố tụng hình sự của cơ quan điều tra.

Bài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận Chủ nghĩa Mác-Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và quy định của các cơ quan về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

Quá trình nghiên cứu còn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu;

- Phương pháp khảo sát, tổng kết thực tiễn;

- Phương pháp thống kê hình sự;

- Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh;

- Phương pháp chuyên gia.



  1. Kết cấu đề tài

Chương 1: Những vấn đề chung

Chương 2: Những vướng mắc và hạn chế trong hoạt động điều tra hình sự trên địa bàn Thành phố Vinh tỉnh Nghệ An giai đoạn từ 2010-2014

Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hoạt động điều tra trên địa bàn Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

1.1. Nhận thức chung về hoạt động điều tra vụ án hình sự

Điều tra theo Tố tụng hình sự là hoạt động của cơ quan điều tra và những cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ đề nghị truy tố, tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục ngăn ngừa. Hoạt động điều tra phải tôn trọng sự thật, tiến hành một cách khách quan toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và những chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can. Mọi hoạt động điều tra phải tuân thủ theo pháp luật, chấp hành nguyên tắc và thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định”. Đây là khái niệm phản ánh đầy đủ nhất bản chất của hoạt động điều tra vụ án hình sự theo luật Tố tụng hình sự.



1.2. Quy định của pháp luật về hoạt động điều tra

1.2.1. Quy định về điều tra trong Bộ luật tố tụng hình sự

Điều tra vụ án hình sự nằm trong Phần thứ hai: Khởi tố, Điều tra vụ án hình và quyết định việc truy tố của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

Được quy định trong 6 chương từ chương IX đến chương XIV với 55 Điều khoản từ Điều 110 đến Điều 165 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003

1.2.2. Quy định trong các văn bản pháp luật khác

Thông tư Số: 28/2014/TT-BCA - thông tư Quy định về công tác điều tra hình sự trong Công an nhân dân.

Pháp lệnh Số: 23/2004/PL-UBTVQH11 - pháp lệnh của ủy ban thường vụ Quốc hội Về tổ chức điều tra hình sự
CHƯƠNG 2

NHỮNG VƯỚNG MẮC VÀ HẠN CHẾ TRONG HOẠT ĐỘNG

ĐIỀU TRA TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

GIAI ĐOẠN 2010 - 2014
Đại diện Phòng cảnh sát điều tra hình sự PC44 Công an tỉnh Nghệ An - Thượng tá Hoàng Trọng Đống cho biết: “ Theo thống kê của văn phòng cơ quan điều tra công an tỉnh Nghệ An, từ năm 2010 đến nay văn phòng cơ quan điều tra công an tỉnh Nghệ An đã xảy ra 14.260 vụ phạm pháp hình sự (trung bình mỗi năm xảy ra 2.376 vụ), làm chết 1.705 người, bị thương 2.240 người, thiệt hại tài sản ước tính hơn 500 tỷ đồngTrong đó, số vụ án xảy ra trên địa bàn Thành phố Vinh chiếm 20% số vụ án hình sự đã xảy ra trên địa bàn tỉnh, ước tính thiệt hại khoảng 100 tỷ đồng ...”. Những con số trên chỉ là phần nổi của tảng băng chìm nhiều vụ án tiến độ điều tra còn chậm, kéo dài vi phạm thời hạn luật định, chưa đảm bảo tính đầy đủ khách quan toàn diện của hoạt động điều tra

2.1. Thực tiễn chung

Trên địa bàn Thành phố Vinh tỉnh Nghệ An trong những năm vừa qua những cán bộ chiến sĩ cơ quan điều tra công an Thành phố Vinh đã tiếp nhận điều tra và làm rõ 722 vụ án, trong đó:

- Các vụ án về trật tự xã hội là 554 vụ chiếm 78%, các loại án chủ yếu bao gồm các nhóm tội: giết người, cướp tài sản, hiếp dâm, cố ý gây thương tích, lừa đảo chiếm doạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản .

- Các loại tội phạm về kinh tế tham nhũng chủ yếu là: cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, Tham ô tài sản, Kinh doanh trái phép, đưa hối lộ, nhận hối lô, lợi dụng chức vụ quyền hạn và lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ.

- Các loại án về ma túy tập trung đến các tội phạm quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy; Điều 197: Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.

- Tội phạm về môi trường tập trung là các hành vi vận chuyển lâm sản trái phép, buôn bán động vật hoang dã quý hiếm.



2.2. Những vướng mắc, hạn chế và nguyên nhân

2.2.1. Những vướng mắc và hạn chế



  1. Hạn chế trong việc khởi tố bị can

Thông thường, việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can được giao cho các cơ quan có khả năng điều tra thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội. Những cơ quan không có chức năng này thì không thể ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can.

Trong những năm vừa qua trên địa bàn Thành phố Vinh quá trình thực thi pháp luật trong khởi tố vụ án, khởi tố bị can còn nhiều hạn chế, bất cập dẫn đến việc để lọt tội phạm và người phạm tội, kể cả việc làm oan người vô tội.

Tại Điều 126 của Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định, khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can. Trong thực tế sau khi có quyết định khởi tố bị can thì họ mới bị khám xét nơi ở, nơi làm việc, xem xét dấu vết trên thân thể, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra.v.v... Thế thì làm sao Cơ quan điều tra đã có đủ các chứng cứ xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội để có thể ra quyết định khởi tố bị can. Đây là điều bất hợp lý;

Tại Điều 127 của Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định, khi tiến hành điều tra, nếu có căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố hoặc còn hành vi phạm tội khác thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can. Việc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can đã dẫn đến sự tùy tiện của Cơ quan điều tra trong việc truy đến cùng, người có quyết định khởi tố bị can phải phạm vào một tội nào đó (bằng việc chuyển hết tội danh này sang tội danh khác);

- Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 quy định, bị can có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra có nhiệm vụ bảo đảm cho bị can thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự, người bào chữa do bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa chọn. Tuy nhiên, trong thực tế, việc cấp giấy chứng nhận bào chữa cho Luật sư tại giai đoạn điều tra không phải là điều đơn giản ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can, nhất là trường hợp bị can bị tạm giam.


  1. Hạn chế trong việc hỏi cung bị can

Hiện nay, hoạt động hỏi cung bị can còn có những bất cập dẫn tới oan sai gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực cho xã hội, đồng thời vô tình tiếp tay cho những phần tử trục lợi.

Một số ít điều tra viên còn chưa tuân thủ đúng những nguyên tắc hỏi cung bị can và nguyên tắc thận trọng khách quan theo đúng quy định của pháp luật.

Bị can ngoan cố chưa có thái độ ăn năn hối lỗi, chưa thành khẩn khai báo, thậm chí có nhiều bị can còn khai man, cố ý đổ trách nhiệm cho người khác làm sai lệch kết quả điều tra.


  1. Hạn chế trong việc xác định tội danh

Định tội danh sai sẽ dẫn đến một loạt các hậu quả tiêu cực như: không đảm bảo được tính công minh có căn cứ đúng pháp luật, truy cứu trách nhiệm hình sự người vô tội, bỏ lọt người phạm tội, xâm phạm thô bạo danh dự nhân phẩm các quyền tự do dân chủ của công dân là giá trị xã hội cao quý nhất. Bên cạnh đó còn làm giảm uy tín của cơ quan tư pháp, vi phạm pháp chế XHCN, ảnh hưởng đến hiệu quả của đấu tranh phòng chống tội phạm.

Trong bộ luật hình sự còn có nhiều tội danh quy định ghép các hành vi có tính chất và mức độ nguy hiểm khác nhau vào cùng một điều luật (tội ghép), điều này gây rất nhiều khó khăn trong quá trình áp dụng xử lý tội phạm trong việc định tội và định khung hình phạt cũng như xác định các tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Đề nghị tách thành các tội độc lập.



  1. Hạn chế trong lấy lời khai

Thực tiễn trên địa bàn Thành phố Vinh hoạt động tiến hành lấy lời khai còn có nhiều vướng mắc do ý chí chủ quan, thiếu sự hiểu biết pháp luật, hiểu sai lệch quy định pháp luật của cả điều tra viên lẫn người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Theo Bộ luật tố tụng hình sự mới có hiệu lực vào tháng 07 năm 2016 tới đây đã có quy định về quyền im lặng hay cho lắp camera vào quá trình hỏi cung lấy lời khai, nhưng xét về thực tế không khả thi.

Lấy lời khai là một khâu vô cùng quan trọng, là cốt cán của quá trình điều tra. Vì thế chúng tôi hi vọng pháp luật cần có những biện pháp cụ thể, thiết thực hơn để khi tiến hành hoạt động lấy lời khai được công bằng minh bạch, không làm oan người vô tội cũng như đưa tội phạm ra ánh sáng pháp luật.


  1. Hạn chế trong thu thập, đánh giá chứng cứ

Thực tế, trên địa bàn thành phố Vinh cho thấy quy định về chứng cứ chưa phù hợp với diễn biến tình hình tội phạm, chưa thể hiện được yêu cầu tranh tụng đã trở thành nguyên tắc hiến định và chưa theo kịp sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, các dữ liệu điện tử được thu thập từ mạng internet, từ các thiết bị điện tử chưa được công nhận là chứng cứ. Kết luận của Hội đồng định giá tài sản, các bản tự khai, ghi lời khai ở cấp xã, phường… chưa được quy định rõ là nguồn chứng cứ.

Quy định về phạm vi và thời điểm thu thập chứng cứ chưa thực sự phù hợp. Việc chuyển giao vật chứng trong các giai đoạn tố tụng quy định chưa cụ thể nên thực hiện không thống nhất; trường hợp chuyển giao vật chứng là vũ khí quân dụng gặp nhiều khó khăn. Các quy định về xử lý vật chứng ở giai đoạn điều tra, truy tố chưa đầy đủ (Điều 76), chưa dự liệu hết đặc thù của các loại vật chứng để xử lý cho phù hợp, tránh thất thoát, hư hỏng, gây thiệt hại cho chủ sở hữu (như: vật chứng không liên quan đến vụ án, vật thừa sau khi giám định, các động vật quý hiếm, bom mìn, tiền, tài sản do phạm tội mà có để đầu tư kinh doanh, sinh lời hoặc trúng xổ số…).

2.2.2. Nguyên nhân


  1. Do thiếu sót trong quy định của pháp luật

Các quy định trong Bộ luật hình sự, bộ luật Tố tụng hình sự cũng như các văn bản quy phạm dưới luật chưa mô tả chi tiết, cụ thể các tình huống pháp lí tương ứng, chưa có sự thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật. Hiện nay chưa có lý luận hoàn chỉnh, đầy đủ về công tác hướng dẫn điều tra vụ án hình sự chưa có hoặc đề cập rất ít đến hoạt động hướng dẫn điều tra, không đánh giá một cách đúng đắn, đầy đủ về vị trí, vai trò cũng như nội dung, cách thức thực hiện công tác hướng dẫn điều tra vụ án hình sự. Do vậy, trong quá trình thực hiện không có sự thống nhất, mỗi đơn vị, địa phương có một cách làm, nội dung hướng dẫn, quy trình hướng dẫn điều tra khác nhau dẫn đến hiệu quả công tác chưa tương xứng với tình hình, chưa phản ánh hết những khó khăn, vướng mắc trong điều tra vụ án hình sự của các đơn vị.

  1. Từ phía cơ quan điều tra

Mô hình cơ quan điều tra khép kín như hiện nay tiềm ẩn những nguy cơ dẫn đến bỏ lọt tội phạm hoặc để xảy ra tình trạng lạm dụng , chủ quan trong hoạt động điều tra, xử lí tội phạm dẫn đến oan sai, vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra.

Ở một số đơn vị địa phương, khi điều tra, xác minh các vụ việc còn chưa đảm bảo các yêu cầu chính trị, pháp luật, nghiệp vụ; Những sai lầm, phiến diện trong hoạt động điều tra chậm được phát hiện, khắc phục mà vẫn còn tư tưởng bao che, né tránh trách nhiệm, đổ lỗi cho người tham gia tố tụng. Vẫn còn tình trạng một số công văn xin chỉ thị án hay viết báo cáo chỉ nêu chung chung, không nêu được cụ thể vấn đề khó khăn, vướng mắc gì cần giải quyết

Sự phối hợp giữa điều tra viên của cơ quan điều tra với những điều tra viên thuộc các đơn vị khác có liên quan đến công tác điều tra còn chưa chặt chẽ, chưa kịp thời làm ảnh hưởng đến tiến độ và kết quả điều tra

Không thể phủ nhận một điều là năng lực trình độ, bản lĩnh và đạo đức nghề nghiệp của một số điều tra viên, lãnh đạo cơ quan điều tra, thụ lí điều tra vụ án còn hạn chế; các điều tra viên của một số đơn vị còn ngại nghiên cứu học tập, thảo luận, trao đổi kinh nghiệm để nâng cao hiệu quả công tác điều tra.


CHƯƠNG 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ

HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ VINH,

TỈNH NGHỆ AN
3.1. Giải pháp

Thứ nhất, trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và tổ chức cán bộ

Cần quan tâm quán triệt và tổ chức thực hiện đầy đủ những nhiệm vụ và quyền hạn của cán bộ, chiến sĩ trong giai đoạn điều tra, chủ động đề ra các biện pháp cụ thể và chỉ tiêu phấn đấu trong kế hoạch công tác hàng năm nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng, hiệu quả.

Tăng cường sự chỉ đạo của lãnh đạo đơn vị trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra. Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân Thành phố trực tiếp thực hành quyền công tố và chỉ đạo giải quyết án hình sự. Tổ chức các buổi hội nghị, tọa đàm, trao đổi giữa các cáp các đơn vị trong công tác điều tra qua đó xây dựng các chương trình và tiến hành tập huấn.
Thứ hai, Nâng cao tinh thần trách nhiệm, bảo đảm thực hiện đầy đủ quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trên cơ sở thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự.

Mặc dù Kiểm sát viên đều là những người được đào tạo chuyên sâu, có năng lực, tuy nhiên trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình một số Kiểm sát viên vẫn chưa thật sự làm hết trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ, dẫn đến hiệu quả công tác chưa cao. Do vậy, cần nâng cao tinh thần trách nhiệm của Kiểm sát viên, trên cơ sở thực hiện đúng các yêu cầu của quy chế nghiệp vụ. Đảm bảo hoạt động điều tra, biên bản về hoạt động điều tra và các quyết định tố tụng tuân thủ các qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự.


Thứ ba, Tăng cường quan hệ phối hợp với Cơ quan điều tra và các cơ quan hữu quan.

Cần phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra trong công tác phân loại, xử lý các tin báo, tố giác tội phạm. Chủ động cùng với Cơ quan điều tra nghiên cứu các tài liệu xác minh ban đầu về tội phạm để thống nhất quan điểm giải quyết đảm bảo các quyết định khởi tố, không khởi tố vụ án hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.




    1. Kiến nghị

Liên ngành tư pháp Trung ương cần có văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự, đặc biệt là hướng dẫn về giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, cần phát triển công tác hướng dẫn điều tra vụ án hình sự, bổ sung các kiến thức mới về công tác hướng dẫn điều tra vụ án hình sự vào hệ thống lý luận, giáo trình chuyên ngành để tạo ra cơ sở pháp lý cho kiểm sát chặt chẽ việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của Cơ quan điều tra

Sửa đổi khoản 1 Điều 168 và điểm a, khoản 1 Điều 179 BLTTHS theo hướng: chứng cứ còn thiếu phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải là chứng cứ quan trọng và chỉ liên quan đến cấu thành tội phạm, hoặc đến việc xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà không thể tự bổ sung được. Những chứng cứ liên quan đến việc giải quyết dân sự thì không cần thiết phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung mà áp dụng các biện pháp bổ sung tại phiên tòa xét xử. Nếu không bổ sung được thì nên tách phần dân sự để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự .

Các đơn vị điều tra cần chủ động nắm tình hình, phát hiện những vấn đề khó khăn, vướng mắc phát sinh từ thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm.

Tăng cường đổi mới phương pháp quản lý, chỉ đạo, tập huấn chuyên sâu về kỹ năng cho các điều tra. Cần đề xuất cơ quan có thẩm quyền, có chính sách đãi ngộ, ưu tiên, khen thưởng đối với cán bộ, chiến sĩ; Tiếp tục tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ và phương tiện làm việc trong giai đoạn điều tra trong thời gian tới. Đi đôi với khen thưởng cũng cần có những hình thức xử lí đối với đơn vị, cá nhân thiếu tinh thần trách nhiệm trong công tác

Từ thực tiễn tìm hiểu chúng tôi đưa ra những giải pháp và kiến nghị trên hi vọng có thể phần nào giúp cơ quan điều tra khắc phục được những khó khăn tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều tra được minh bạch, đúng đắn.

MÔ HÌNH VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG

GIÚP VIỆC HỘ GIA ĐÌNH

TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN


Nhóm tác giả: Trương Thị Như

Lê Khánh Dư

Nguyễn Thị Hiền

Hoàng Nhật Thành

Phan Thị Quỳnh Trang

Lớp: 55b8 LH, 55B6 LH

Giảng viên hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Thanh


  1. Lý do chọn đề tài :

Với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế. Chất lượng cuộc sống của con người ngày càng được nâng cao. Yêu cầu về đời sống tinh thần từ đó cũng được chú trọng . Ngoài giờ làm việc, họ muốn có những khoảng thời gian rảnh để giải trí, nghỉ ngơi, thư giãn. Nhưng không chỉ có công việc ở ngoài xã hội, mà còn có những công việc khác ở nhà đang chờ họ giải quyết?

Vậy thì phải làm như thế nào để có thể cân bằng được chất lượng công việc mà vẫn có thể có thời gian nghỉ ngơi?

Đó là họ cần một người làm giúp việc nhà để khoảng thời gian sau khi từ công ty, văn phòng trở về; mọi công việc đã được sắp xếp ổn thoả.

Từ đó, đã xuất hiện nhu cầu tìm người giúp việc.

Lao động giúp việc gia đình là một loại hình lao động xuất hiện từ rất lâu trong xã hội nước ta và có đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam.

Ở Việt Nam hiện nay có khá đông người lao động làm nghề giúp việc gia đình và số lượng này ngày càng tăng do nhu cầu của xã hội. Nghề giúp việc gia đình đã phần nào đáp ứng nhu cầu về việc làm của người lao động và nhu cầu sử dụng người giúp việc của một số gia đình. Trước khi bộ luật lao động 2012 được ban hành thì giúp việc gia đình vẫn chưa được coi là một nghề, cùng với nhiều định kiến sai về nghề giúp việc gia đình của một bộ phận người dân, nên người làm nghề giúp việc gia đình thường không được tôn trọng như người làm các công việc khác.

Tuy đã có những quy định pháp luật về nghề giúp việc nhưng vẫn có những hạn chế trong việc thực hiện những mô hình và giải pháp để nâng cao chất lượng người lao động trên địa bàn thành phố Vinh.

2.Bố cục đề tài

Đề tài có kết cấu gồm 3 chương:

Chương 1: Tổng quan về nghề giúp việc gia đình trong hộ gia đình

Chương 2: Mô hình và chất lượng lao động người giúp việc gia đình trên địa bàn thành phố Vinh

Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp phát triển nâng cao mô hình và chất lượng lao động thuê người giúp việc hộ gia đình trên địa bàn thành phố Vinh.

CHƯƠNG 1:

TỔNG QUAN VỀ NGHỀ GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH TRONG HỘ GIA ĐÌNH


    1. Khái quát chung

Bối cảnh lao động giúp việc gia đình tại Việt Nam Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội chất lượng cuộc sống của người dân Việt Nam trong khoảng gần 20 năm qua được nâng cao rõ rệt; trong những đóng góp cho sự phát triển đó có vai trò của lực lượng lao động giúp việc gia đình (LĐGVGĐ). Họ đã góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, giải phóng phụ nữ làm việc ngoài xã hội với cường độ cao khỏi gánh nặng công việc trong gia đình, có nhiều thời gian hơn dành cho sự nghiệp, học hành, nghỉ ngơi, giải trí..., bên cạnh đó, GVGĐ còn mang lại thu nhập tương đối ổn định cho nhiều lao động, đặc biệt là lao động nữ ở nông thôn có trình độ học vấn thấp, không có nghề nghiệp ổn định. Chính vì vậy, nhu cầu xã hội đối với loại hình lao động này ngày một gia tăng

Hợp đồng giúp việc gia đình xuất hiện từ rất lâu trong xã hội Việt Nam và hợp đồng này đã rất phát triển, nhưng ở trước thời kì bộ luật lao động năm 2012 có hiệu lực thì giúp việc gia đình vẫn chưa được xem là một nghề trong cơ cấu các ngành nghề của Việt Nam. Sự ra đời Bộ luật Lao Động năm 2012 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng về mặt pháp lý cho hợp đồng giúp việc gia đình nếu như trước đây hợp đồng giúp việc gia đình không được xem là một ngành nghề, không được thừa nhận với sự “bình đẳng” trước các ngagnh nghề khác thì giờ đây giúp việc gia đình chính thức được pháp luật Việt Nam thừa nhận là một ngành nghề nhà nước. Lao động giúp việc gia đình được pháp luật bảo vệ cho những và lợi ích hợp pháp của Bộ luật Lao động năm 2012. Tuy rằng, trong Bộ luật này không có một khái niệm định nghĩa một cách trực tiếp về nghề giúp việc gia đình nhưng nó đã nêu ra định nghĩa về lao động là người giúp việc gia đình và những công việc mà người giúp việc gia đình làm trong nhà chủ sử dụng lao động. Tại điều 179 của Bộ luật Lao động năm 2012 định nghĩa: “lao động làm giúp việc gia đình là người lao động làm thường xuyên các công việc trong gia đình của một hoặc nhiều hộ gia đình, các công việc trong gia đình bao gồm: công việc nội trợ, quản gia, chăm sóc trẻ em, chăm sóc người bệnh, người già, lái xe, làm vườn và các công việc khác cho hộ gia đình nhưng không liên quan đến hoạt động thương mại”



    1. Đặc điểm nghề giúp việc hộ gia đình

Nghề giúp việc gia đình được đánh giá tổng quan là một nghề làm các việc nhà, không liên quan đến hoạt động thương mại, bao gồm 6 nhóm đơn vị năng lực là: chế biến món ăn – đồ uống; lau dọn nhà – sân vườn; giặt – là; chăm sóc trẻ sơ sinh – trẻ nhỏ; chăm sóc người cao tuổi – người bệnh; chăm sóc vật nuôi – cây cảnh. Là công việc mà nhận tiền lương theo hợp đồng, có thêm kinh nghiệm, tay nghề trong công việc nội trợ, giúp bản thân cảm thấy thoải mái, tự nuôi sống bản thân và giúp đỡ gia đình góp phần làm cho người lao động có tinh thần trách nhiệm và kĩ năng sống tốt hơn.

Thời gian làm việc của nghề giúp việc là bao gồm:



  • Giúp việc theo giờ

  • Giúp việc lâu dài

Nghề giúp việc gia đình cũng có những yếu tố ảnh hưởng nhất định như kinh tế, xã hội, con người, môi trường, điều kiện giao thông và một số yếu tố khác….

1.3 Vị trí, vai trò nghề giúp việc trong hộ gia đình

Từ những điều đã nêu ở trên chúng ta có thể nhận ra rằng vai trò của nghề giúp việc gia đình là rất lớn và quan trọng vì nó đem lại rất nhiều giá trị về mặt kinh tế, chính trị,xã hội.

- Đối với sự phát triển kinh tế

-Đối với sự phát triển xã hội

-Góp phần thực hiện chính sách bình đẳng giới

-Đối với sự ổn định của chính trị



1.4 Chủ thể tham gia trong quan hệ hợp đồng lao động nghề giúp việc:

Người giúp việc: Độ tuổi của người giúp việc dựa trên sự nhận thức, đánh giá về công việc ta phân chia như sau:



  • Độ tuổi từ 15 đến dưới 30

  • Độ tuổi từ đủ 30 đến dưới 45

  • Độ tuổi từ đủ 45 đến 60

Những người làm nghề giúp việc thường có xuất thân từ những vùng nông thôn nghèo khó, trình độ học vấn thấp, không có việc làm ổn định.

Nghề giúp việc nhà tuy không đòi hỏi chuyên môn cao, nhưng yếu tố thái độ lại quyết định chất lượng dịch vụ.

Với yêu cầu của xã hội hiện nay người giúp việc đòi hỏi phải có phẩm chất tốt, lý lịch rõ ràng. Khi tiếp xúc với những trang thiết bị hiện đại trong quá trình làm việc họ sẽ học được kĩ năng sử dụng và bảo quản nó đồng thời cải thiện kĩ năng giao tiếp trong quá trình sống gắn bó với gia đình chủ

Chủ sử dụng lao động phần lớn là các hộ gia đình tư nhân, có điều kiện kinh tế tốt, có nhiều thế hệ chung sống với nhau trong một gia đình, thường có các đối tượng là trẻ nhỏ hoặc người già nhưng họ không đủ điều kiện thời gian để chăm sóc. Nên yêu cầu cần phải có một người giúp việc đỡ đần họ làm những công việc trên. Vì thế nên ngày càng có nhiều hộ gia đình có nhu cầu tìm người giúp việc.

Cơ sở pháp lí để điều chỉnh giữa người giúp việc và chủ sử dụng người giúp việc: Nghị định số 27/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của bộ luật lao động về lao động là người giúp việc gia đình.



CHƯƠNG 2:

MÔ HÌNH VÀ CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG NGƯỜI GIÚP VIỆC

TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ VINH

2.1 Giới thiệu địa phương:

Thành phố Vinh  đô thị loại 1 thuộc tỉnh Nghệ An, Việt Nam, là trung tâm kinh tế, chính trị của tỉnh và đã được Chính phủ Việt Nam quy hoạch để trở thành trung tâm kinh tế - văn hóa của vùng Bắc Trung Bộ. Diện tích 104,96 km². Dân số: 480.000 người (2013 Các đơn vị hành chính bao gồm 16 phườngBến ThủyCửa NamĐội CungĐông VĩnhHà Huy TậpHồng SơnHưng BìnhHưng DũngHưng PhúcLê LợiLê MaoQuán BàuQuang TrungTrung ĐôTrường ThiVinh Tân và 9 Hưng ChínhHưng ĐôngHưng HòaHưng LộcNghi ÂnNghi ĐứcNghi KimNghi LiênNghi Phú. Thành phố Vinh nằm giữa hai khu kinh tế lớn là Nghi Sơn (Thanh Hóa) và Vũng Áng (Hà Tĩnh), bên cạnh thành phố là khu kinh tế Đông Nam (Nghệ An). Năm 2010, Tốc độ tăng trưởng giá trị SX so với cùng kỳ là 18,1%, thu nhập bình quân đầu người đạt 38,1 triệu đồng, thu ngân sách đạt 2800 tỷ đồng. TP phấn đấu trong năm 2011, tốc độ tăng trưởng giá trị SX từ 18,5-19.5%, thu ngân sách đạt từ 3.200 - 3.300 tỷ đồng. Vinh cũng được biết đến là một thành phố trẻ năng động, có nhiều tòa nhà cao tầng. Hiện có rất nhiều dự án phát triển đô thị tại đây. Trong tương lai không xa, Vinh sẽ là một thành phố hiện đại xứng tầm là đô thị trung tâm vùng Bắc Trung Bộ. Về cơ cấu kinh tế, Đến 2010, ngành công nghiệp chiếm tỷ lệ 41%, dịch vụ 57,3%, nông nghiệp 1,61% Thành phố Vinh nằm trên trục giao thông huyết mạch Bắc - Nam về cả đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không, nắm giữ vị trí trọng yếu trên con đường vận chuyển trong nước từ Bắc vào Nam và ngược lại. Đồng thời rất thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế - văn hóa trong khu vực và quốc tế. Bao gồm: đường bộ, đường sắt, đường hàng không,… ngày càng được nâng cấp và hiện đại hoá.

2.2 Thống kê số liệu về tình hình giúp việc hộ gia đình ở nước ta hiện nay

Đặc trưng nhân khẩu, xã hội của lao động giúp việc gia đình Các kết quả nghiên cứu về LĐGVGĐ tại Việt Nam đều có chung nhận định: LĐGVGĐ chủ yếu là nữ giới, chiếm 98,7% (GFCD 2012), đặc điểm này là do tính chất công việc GVGĐ như nội trợ, chăm sóc các thành viên trong gia đình,... mang đặc trưng giới, chủ yếu là do người phụ nữ thực hiện. Về trình độ học vấn, nhìn chung trình độ học vấn của LĐGVGĐ không cao, đa số từ THCS trở xuống, đặc biệt có đến 22% - 31,8% NGV có trình độ tiểu học trở xuống, thậm chí còn có không ít người không biết chữ. Về độ tuổi của người LĐGVGĐ chủ yếu ở độ tuổi trung niên (36-55 tuổi) chiếm tỷ lệ cao nhất với 61,5%, và có khoảng 14,8% người lao động ở độ tuổi 56 trở lên.

Phần lớn LĐGVGĐ tại Việt Nam chưa qua đào tạo nghề.Về cơ bản, học vấn của NGV càng thấp thì hiểu biết về nghĩa vụ của người sử dụng lao động bị hạn chế hơn. Khi NGV không nắm được những nghĩa vụ của gia chủ, họ sẽ không biết để yêu cầu gia chủ đảm bảo việc thực hiện những quyền lợi cho bản thân mình. Điều 183, Bộ luật Lao động 2012 quy định người sử dụng lao động không được phép ngược đãi, quấy rối, cưỡng bức lao động đối với NGV. Người sử dụng cũng không được phép giữ giấy tờ tùy thân của NGV. Vấn đề đặt ra là liệu NGV có nắm được những quy định này để tự bảo vệ mình và báo cáo với các cơ quan có thẩm quyền trong trường hợp cần thiết? Thông tin thu được cho thấy, phần lớn (trên 70%) NGV không đồng ý với việc người sử dụng giữ một phần lương của mình hay mắng chửi NGV khi họ làm việc không đúng yêu cầu. Tuy nhiên, tỷ lệ NGV không đồng ý với việc gia chủ khám xét đồ đạc của NGV khi gia đình bị mất tài sản/tiền bạc hoặc giữ giấy tờ tùy thân của NGV khá thấp (dưới 50%).
2.3 Tình hình về chất lượng lao động giúp việc trong hộ gia đình trên địa bàn thành phố Vinh hiện nay.

Theo số liệu thống kê của trung tâm quốc gia dự báo và thông tin thị trường lao động (Bộ kế hoạch đầu tư) tính đến năm 2016, Việt Nam có khoảng 200 nghìn lao động giúp việc hộ gia đình và nhu cầu đối với loại hình lao động này đang ngày càng tăng, đặc biệt là ở các thành phố lớn nói chung và thành phố Vinh nói riêng.



2.3.1 Một số yếu tố ảnh hưởng đến giúp việc tại hộ gia đình

Trong bất cứ ngành nghề nào cũng đều chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố khác nhau nhưng mỗi yếu tố lại có tầm ảnh hưởng nhất định đối với từng ngành. Nghề giúp việc cũng vậy, có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng như: kinh tế, xã hội, con người, môi trường, điều kiện giao thông…..

Giúp việc hộ gia đình – sự lựa chọn của người lao động

Đối với công việc này, phù hợp rất nhiều đối tượng vì nó không yêu cầu cao về trình độ học vấn. Từ độ tuổi 14, 15 những người mới học xong THCS nghỉ học kiếm tiền trang trải cuộc sống đến những người 40, 50 tuổi hay có cả những lao động 60 tuổi.

*Công việc của người giúp việc

*Thái độ đối với công việc

-Đối với người thuê

-Đối với Người giúp việc

*Tình hình lao động trong các hợp đồng thuê người giúp việc trên địa bàn TP Vinh

*Quá trình hình thành nên mối quan hệ lao động

Người giúp việc được giới thiệu chủ yếu qua ba nguồn:

-Qua giới thiệu của người quen

-Qua quá trình tự tìm

-Qua công ty môi giới.



2.3.2 Mô hình chất lượng lao động trong hợp đồng thuê Người giúp việc hộ gia đình trên địa bàn thành phố Vinh

LĐGVGĐ mang đậm nét đặc trưng về giới với 98,7% lực lượng lao động là phụ nữ, xuất thân chủ yếu từ nông thôn, gia cảnh khó khăn, nghề nghiệp không ổn định, một số lớn tuổi không có chồng, bị góa hoặc ly hôn... Bên cạnh đó, môi trường làm việc của người GVGĐ thường khép kín trong không gian nhà của người sử dụng lao động (gia chủ), vì vậy quan niệm xã hội ít nhiều thiếu sự tôn trọng đối với NGV. Trên thực tế GVGĐ vẫn chưa được công nhận là một nghề, chưa được quản lý và đào tạo. Chính vì những đặc thù này, LĐGVGĐ dễ phải đối mặt các nguy cơ như bị mắng chửi, đánh đập, đe dọa, bị lạm dụng sức lao động, lạm dụng tình dục... nguy cơ không được gia chủ thực hiện đúng thỏa thuận ban đầu về công việc, thời gian, tiền lương,... hoặc các quyền lợi của họ không được đảm bảo, ví dụ như quyền được chi trả một phần bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm xã hội (BHXH), ...

Vì phần lớn người giúp việc xuất thân từ các vùng nông thôn nên khả năng sử dụng các thiết bị hiện đại vẫn còn hạn chế cho nên thời gian đầu khi đến làm giúp việc nhà họ vẫn còn bỡ ngỡ và chưa quen dẫn đến công việc không được giải quyết thuận lợi, vì vậy, họ cần có sự chỉ bảo từ phía chủ nhà và thời gian thích nghi nên có những trường hợp khi mới quen với công việc thì lại nghỉ làm. Số hộ gia đình tìm được người giúp việc lâu dài và ưng ý chiếm tỉ lệ rất ít, nhìn chung chất lượng lao động vẫn còn thấp. Số người giúp việc qua đào tạo bài bản gần như là rất ít. Độ tuổi lao động trên địa bàn thành phố dao động từ 15 đến dưới 30 tuổi (chiếm 15%),trên 30 tuổi tới 45 (chiếm 35%).trên 45 đến dưới 60 (chiếm 40%).trên 60 tuổi (chiếm 10%).

*Độ tuổi lao động

*Giới tính

*Trình độ học vấn của người giúp việc

*Yêu cầu thuê người giúp việc qua hợp đồng.

Trong cuộc sống hiện đại, con người khá bận rộn với công việc xã hội. Đặc biệt ở các thành phố lớn như thành phố Vinh thì một số gia đình gặp phải khó khăn trong việc nội trợ, chăm sóc trẻ nhỏ, người già, người ốm yếu và nhiều khi quá sức đối với họ, ảnh hưởng đến năng suất lao động ngoài xã hội. Với số lượng người giúp việc khá đông đảo trên thị trường lao động, các gia đình không quá khó khăn để tìm được người giúp việc. Nhưng trong một số trường hợp người thuê họ khá khó tính trong công việc lựa chọn người làm, thậm chí dổi người làm đến chục lần vẫn không vừa ý. Cũng giống như các ngành nghề khác yêu cầu đối với công việc cần phải đổ mồ hôi công sức, mang tính chuyên nghiệp, kĩ năng tốt. Trong nhịp sống hiện nay đối với nghề giúp việc đòi hỏi một số yêu cầu sau:

-Yêu cầu về phẩm chất

-Yêu cầu về kĩ năng

*Mức lương yêu cầu công việc

*Đăng kí qua sàn



*Mô hình người giúp việc đang được thực hiện và phát triển:

Mô hình tích hợp giữa truyền thống và công nghệ, ban đầu cung cấp dịch vụ giúp việc theo phương thức truyền thống, tư vấn và cung cấp dịch vụ trực tiếp sau đó ứng dụng công nghệ. Có rất nhiều công ty truyền thông cung cấp phần mềm ứng dụng này (VD: viecnha.vn,…) mô hình này sẽ góp phần hạn chế tình trạng “người muốn tìm thì không tìm được, người muốn đến thì không đến được.

Thực hiện đào tạo nghề giúp việc miễn phí. Tiếp tục mở rộng hình thức giúp việc theo giờ để tạo điều kiện cho những đối tượng làm việc bán thời gian như Sinh viên, và những người không có đủ thời gian nhiều để thực hiện công việc lâu dài (tức là ở luôn trong nhà chủ).

Mở rộng mô hình đào tạo người giúp việc chuyên nghiệp. Xây dựng việc đào tạo người giúp việc kiểu mẫu, trong đó dạy về văn hoá ứng xử, các kĩ năng làm việc nhà và xử lí các tình huống khẩn cấp
CHƯƠNG 3:

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG GIÚP VIỆC TRONG HỘ GIA ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ VINH

3.1.Một số kiến nghị

Phát triển GVGĐ trở thành việc làm bền vững cho người lao động là xu hướng tất yếu để ghi nhận những đóng góp về kinh tế, xã hội của loại hình lao động này trong xã hội. Để đạt được điều đó, cần có những chính sách, biện pháp phù hợp nhằm đưa LĐGVGĐ đang từ “tự phát”, không được đào tạo trở thành chuyên nghiệp và được quản lý. Vì thế, cần thiết triển khai các giải pháp:

+Xây dựng và ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết việc thực hiện các Điều của Mục 5, Bộ luật Lao động 2012

+Xây dựng và ban hành các chính sách khuyến khích và hỗ trợ phát triển nghề giúp việc gia đình

+Tăng cường công tác quản lý LĐGVGĐ

+Tạo cơ hội được tham gia vào tổ chức đại diện



3.2 MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ  GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH  TRÊN ĐỊA BÀN  TP.VINH

Định hướng phát triển nghề giúp việc gia đình ở Việt Nam

Chính phủ đã ban hành Nghị định 27/2014/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động với loại hình lao động giúp việc gia đình và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 25/05/2014

Đào tạo nghề cho lao động giúp việc gia đình trở thành mối quan tâm của không ít nhà đầu tư.

Một số Đề xuất đào tạo nghề giúp việc gia đình trên địa bàn thành phố Vinh

Cần phải thành lập các Trung tâm đào tạo chuyên nghiệp và giới thiệu việc làm cho lao động giúp việc gia đình.



Nội dung chương trình đào tạo

+ Về kiến thức và kỹ năng

Những kiến thức và kỹ năng cần thiết sẽ được phân loại theo từng loại hình lao động giúp việc phổ biến hiện nay, đặc biệt tập trung vào các kiến thức và kỹ năng bị thiếu hụt trầm trọng. Khi đăng kí tham gia vào khóa đào tạo, người lao động có thể lựa chọn học một hay nhiều loại hình giúp việc gia đình.



+ Về thái độ

Dù lao động trong lĩnh vực nào của nghề giúp việc gia đình, người giúp việc cũng cần phải đáp ứng những tiêu chuẩn chung về thái độ làm việc như có trách nhiệm, thật thà trung thực, tôn trọng chủ nhà…

Những tiêu chí về kiến thức, kỹ năng và thái độ này cũng là những tiêu chí để đánh giá cấp chứng chỉ nghề chuyên nghiệp người lao động sau khi hoàn thành khóa học.

+ Các lĩnh vực đào tạo ưu tiên theo loại hình lao động

Cách thức tuyển chọn và thu hút học viên

Đối tượng học viên: tất cả lao động nữ nông thôn và thành thị (không được có tiền án tiền sự, hoặc dính líu tới các tệ nạn xã hội) có nhu cầu muốn tham gia vào hoạt động giúp việc gia đình.

Để tuyển dụng, sàng lọc học viên, các trung tâm cần phải triển khai hai bước:

Xét duyệt hồ sơ xin việc bao gồm sơ yếu lý lịch, chứng nhận sức khỏe, có xác nhận của xã, phường nơi mình đang sinh sống

Phỏng vấn để kiểm tra thái độ, hành vi

-Để thu hút học viên, các trung tâm cần kèm theo các thông tin để học viên lựa chọn liên quan đến danh mục các việc làm, địa chỉ, loại hình lao động… cũng như các tài liệu khác như hợp đồng, cam kết của chủ nhà về việc thuê lao động…



Thời lượng đào tạo

Các khóa học nghề giúp việc thường kéo dài trong vòng hai đến bốn tuần tùy theo từng loại hình giúp việc, trong đó một phần ba thời lượng đầu tiên là dành cho lý thuyết, số thời lượng còn lại là dành cho thực hành.



Phương pháp đào tạo

Về phương pháp, các Trung tâm đào tạo chuyên nghiệp cho lao động giúp việc nên đào tạo người lao động trên cả hai phương diện là lý thuyết và thực hành, tuy nhiên chú trọng hơn vào phần thực hành

Các trung tâm này cũng cần phải xây dựng những mô hình lớp học chuyên biệt riêng về lý thuyết và thực hành, được trang bị những đồ dùng gia đình hiện đại, phù hợp với cuộc sống hiện nay.

Tổ chức đào tạo

Các Trung tâm đào tạo chuyên nghiệp và giới thiệu việc làm cho lao động giúp việc gia đình sẽ là nơi đứng ra tổ chức các khóa đào tạo cho người lao động giúp việc về cả kiến thức, kỹ năng và thái độ cần có khi tham gia hoạt động giúp việc. Những trung tâm này sẽ được đặt ở các huyện còn nhiều diện tích đất trống và gần gũi với phụ nữ nông thôn xung quanh địa bàn thành phố Vinh như huyện Nghi Lộc, huyện Nam Đàn, huyện Hưng Nguyên. Các trung tâm đào tạo này sẽ chịu sự quản lý của Bộ Lao Động, Ủy Ban Nhân Dân Thành phố Vinh kết hợp với Hội Liên Hiệp Phụ Nữ TP.Vinh. Mọi hoạt động của trung tâm đều phải thực hiện đúng theo quy định và pháp luật của Nhà nước Việt Nam.

Đội ngũ giáo viên sẽ được mời đến từ một số bệnh viện hoặc trường học trên địa bàn thành phố Vinh.

Đánh giá và cấp chứng chỉ đào tạo

Sau khi kết thúc khóa học, người lao động sẽ có một bài kiểm tra để chứng thực khả năng của mình trên cả ba phương diện kiến thức, kỹ năng và thái độ để được cấp chứng chỉ nghề chuyên nghiệp. Các trung tâm đào tạo lao động giúp việc cần phải tự đề ra một khung tiêu chí đánh giá cụ thể cho việc cấp chứng chỉ dựa trên những kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết cho từng loại hình giúp việc như đã nói ở trên. Các tiêu chí này phải đảm bảo được yêu cầu bám sát chuẩn đầu ra tay nghề cho từng loại hình giúp việc. .



Các đề xuất có liên quan khác

+ Vận động, tuyên truyền cả người sử dụng lao động lẫn người lao động giúp việc gia đình nhằm giác ngộ nhận thức cho họ, nâng cao tầm quan trọng của nghề giúp việc gia đình.

+ Khuyến khích và thúc đẩy việc xây dựng các Trung tâm đào tạo chuyên nghiệp và giới thiệu việc làm cho người lao động giúp việc gia đình

+ Các cơ quan chức năng cũng cần xem xét để ban hành một văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành Nghị định 27/2014/NĐ-CP nhằm giảm thiểu những rắc rối nảy sinh trong quá trình thi hành luật.

+ Các cơ quan chức năng như Tổng Cục Dạy Nghề, Bộ Lao Động và các cơ quan ban hành pháp luật liên quan cần phối hợp ban hành một quy định cụ thể, rõ ràng về chuẩn đào tạo và chuẩn đầu ra tay nghề cho người lao động giúp việc gia đình.


Каталог: DATA -> upload
upload -> 1. Kiến thức : hs phải làm được 1 tiêu bản tbtv ( tb vảy hành hoặc tb thịt quả cà chua chín). Kĩ năng
upload -> Thuật ngữ hàng hải quốc tế: a abatement Sự giảm giá
upload -> CÁP ĐIỆn lực hạ thế 1  4 LÕI, ruộT ĐỒNG, CÁch đIỆn xlpe, VỎ pvc low voltage 1 4 core Cable Copper conductor, xlpe insulation, pvc sheath
upload -> CÔng ty cp cung ứng và xnk lao đỘng hàng khôNG
upload -> BỘ NỘi vụ BỘ TÀi chíNH
upload -> Ubnd tỉnh hoà BÌnh sở KẾ hoạch và ĐẦu tư
upload -> Ớt cay f1 SỐ 20 Trái to, dài 14 15 cm, thẳng, cay vừa, chín tập trung, màu xanh trung bình khi non, màu đỏ đẹp khi chín, thịt dày, thích hợp ăn tươi và chế biến. Năng suất rất cao, 30 40 tấn/ ha. ỚT sừng vàng 1039

tải về 1.61 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương