Khoa luật kỷ YẾu hội nghị TỔng kết công tác sinh viên nghiên cứu khoa học năm họC 2015 -2016


PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT VÀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH VI QUẢNG CÁO NHẰM



tải về 1.61 Mb.
trang6/12
Chuyển đổi dữ liệu31.12.2017
Kích1.61 Mb.
#35147
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12

PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT VÀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH VI QUẢNG CÁO NHẰM

CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH


Nhóm sinh viên: Đinh Thị Ngọc Bích;

Lưu Đắc Dũng;

Nguyễn Thanh Hải;

Lớp: 53B9 Luật học

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Hồ Thị Duyên



  1. Lý do chọn đề tài

Hoạt động quảng cáo nhằm cạnh tranh của doanh nghiệp là hoạt động không thể thiếu khi doanh nghiệp muốn giới thiệu hàng hóa, sản phẩm dịch vụ của mình ra thị trường nhằm xúc tiến thương mại và cạnh tranh với hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác. Hoạt động này đem lại cho doanh nghiệp nhiều lợi ích lớn như giới thiệu, công bố rộng rãi thông tin sản phẩm, hàng hóa dịch vụ, định hướng người tiêu dùng, thúc đẩy doanh thu tăng nhanh... Vì vậy, đây là hoạt động phổ biến và quan trọng của doanh nghiệp trên thị trường. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp vì những lợi ích đạt được mà thực hiện hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại tới lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng trong khi pháp luật quy định về thẩm quyền giải quyết và biện pháp xử lý hành vi này còn nhiều bất cập dẫn đến việc thiệt hại mà doanh nghiệp thực hiện hành vi gây ra là không thể tránh khỏi và thiệt hại khiến cho Nhà nước, các doanh nghiệp cùng cạnh tranh và đặc biệt là người tiêu dùng phải gánh chịu.

Cục quản lý cạnh tranh Việt Nam là cơ quan chính có thẩm quyền giải quyết các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh của doanh nghiệp tuy nhiên cơ quan này lại được kiêm quá nhiều chức năng như điều tra, xử lý hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, bảo vệ người tiêu dùng, quản lý nhà nước về chống phá giá, chống trợ cấp và áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế trong khi trên thế giới không có cơ quan quản lý cạnh tranh nào được quy định nhiều chức năng như vậy. Số lượng doanh nghiệp thực hiện hành vi nhiều trong khi chỉ có một cơ quan chính có chức năng giải quyết hành vi (không kể Tòa án vì Tòa án chỉ có chức năng giải quyết khi hành vi này có dấu hiệu tội phạm) mà cơ quan đó lại kiêm quá nhiều chức năng, điều này tất yếu sẽ dẫn đến thiếu sót trong quá trình giải quyết hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.

Việc quy định về thẩm quyền giải quyết và biện pháp xử lý hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh còn nhiều bất cập, cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam thực hiện quá nhiều chức năng trong khi hành vi vi phạm ngày càng nhiều mà chỉ có một cơ quan đảm nhiệm chính dẫn đến thiệt hại đối với Nhà nước, doanh nghiệp cùng cạnh tranh và người tiêu dùng là không thể tránh khỏi. Vì vậy, nhóm tác giả quyết định nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về thẩm quyền giải quyết và biện pháp xử lý nhằm vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh” nhằm góp phần hạn chế được phần nào thiệt hại xảy ra và góp phần hoàn thiện chế định liên quan đến thẩm quyền giải quyết và biện pháp xử lý hành vi này.


  1. Mục đích nghiên cứu đề tài

Làm rõ một số vấn đề lý luận về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh và các quy định về thẩm quyền giải quyết, biện pháp xử lý các hành vi đó.

Tìm hiểu thực trạng vi phạm của các doanh nghiệp đối với hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, thực tiễn áp dụng pháp luật về thẩm quyền và biện pháp xử lí hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.

Đề xuất giải pháp nhằm khắc phục những bất cập trong quy định của pháp luật nhằm hoàn thiện chế định liên quan đến hành vi này.


  1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết và biện pháp xử lý hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh; thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết và biện pháp xử lý hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh; các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết và biện pháp xử lý hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.

Đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật có liên quan tới thẩm quyền giải quyết và biện pháp xử lý hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh từ năm 2015 trở về trước.



  1. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài, nhóm nghiên cứu đã dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trên các quan điểm của Đảng và Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện nay, và các quy định của pháp luật.

Ngoài ra, đề tài nghiên cứu dựa trên các phương pháp khoa học như: phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, thống kê số liệu, thu thập thông tin, tư duy logic và một số phương pháp khác.



  1. Bố cục đề tài

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì phần nội dung được chia thành ba chương:

  • Chương 1: Lý luận chung về thẩm quyền giải quyết và biện pháp xử lý hành vi quảng cáo nhằm CTKLM

  • Chương 2: Thực trạng áp dụng quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết và biện pháp xử lý hành vi quảng cáo nhằm CTKLM.

  • Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết và biện pháp xử lý hành vi quảng cáo nhằm CTKLM.


PHẦN NỘI DUNG

Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT VÀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH VI QUẢNG CÁO NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH


    1. Cơ sở lý luận về thẩm quyền giải quyết và biện pháp xử lý hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh

      1. Thẩm quyền giải quyết

1.1.1.1 Khái niệm

Thẩm quyền giải quyết của hành vi quảng cáo nhằm CTKLM là việc tổ chức, cá nhân thực hiện các quyền và nghĩa vụ để thực hiện chức năng giải quyết các hành vi quảng cáo nhằm CTKLM, trên cơ sở đó thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hành vi này.



1.1.1.2 Ý nghĩa việc xác định đúng thẩm quyền giải quyết hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Cần phải xác định đúng thẩm quyền giải quyết hành vi quảng cáo nhằm CTKLM bởi việc xác định đúng thẩm quyền giúp cho hiệu quả thực thi pháp luật được nâng cao, hợp lý và khoa học trong quá trình giải quyết, không gây chồng chéo về thẩm quyền, tránh được thiệt hại không đáng có về công sức cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết, thiệt hại cho ngân sách nhà nước.

Ngoài ra, việc xác định đúng thầm quyền giải quyết hành vi này tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giúp doanh nghiệp có điều kiện phát triển ổn định và bền vững.


      1. Biện pháp xử lý hành vi quảng cáo nhằm CTKLM

1.1.2.1 Khái niệm

Biện pháp xử lý hành vi quảng cáo nhằm CTKLM là việc các cơ quan chức năng, cá nhân có thẩm quyền vận dụng thẩm quyền của mình được quy định theo pháp luật để thực hiện chức trách được giao, qua đó có các hoạt động, cách làm, cách giải quyết phù hợp đối với các trường hợp được xác định là hành vi quảng cáo nhằm CTKLM vi phạm pháp luật.

1.1.2.2 Ý nghĩa của biện pháp xử lý hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Khi mà môi trường cạnh tranh ngày càng biến đổi, thì các hành vi quảng cáo nhằm CTKLM lại càng tinh vi hơn. Việc quy định về biện pháp xử lý đối với từng dạng hành vi thể hiện tính nghiêm minh , chặt chẽ của pháp luật cạnh tranh. Tạo hành lang pháp lý giúp cơ quan chức năng có căn cứ xử lý xác đáng, đúng người, đúng tội.

Mặt khác việc quy định các biện pháp xử lý một cách thực tế, và chính xác còn mang tính răn đe đối với các doanh nghiệp có ý định vi phạm hoặc đã vi phạm nhưng không bị phát hiện phải chú ý hơn đến các hành vi quảng cáo của mình. Qua đó góp phần bảo vệ môi trường cạnh tranh, bảo vệ các doanh nghiệp kinh doanh lành mạnh cũng như bảo vệ người tiêu dùng.

1.1.2.3 Các biện pháp xử lý hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Pháp luật cạnh tranh cùng các văn bản khác có liên quan nêu rõ một hành vi quảng cáo khi bị coi là nhằm CTKLM có thể bị áp dụng ba biện pháp xử lý :

Biện pháp xử phạt vi phạm hành chính : bao gồm hình thức phạt tiền, biện pháp khắc phục hậu quả khi có vi phạm xảy ra và hình thức xử phạt bổ sung.

Biện pháp xử lý khi vi phạm trong lĩnh vực dân sự: hành vi quảng cáo nhằm CTKLM có thể xâm phạm tới tài chính, tới tổ chức cá nhân có liên quan và có thể ảnh hưởng tới sức khỏe của người tiêu dùng, vì thế quy định pháp luật áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật dân sự.

Biện pháp xử lý hình sự: để tăng thêm tính răn đe, đối với tội danh này, chủ thể thực hiện sẽ có thể bị phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ ba năm tù.



    1. Cơ sở pháp lý về thẩm quyền giải quyết và biện pháp xử lý hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh

1.2.1. Thẩm quyền giải quyết hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh

1.2.1.1 Các quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết

Thẩm quyền giải quyết hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh (Sau đây viết tắt là CTKLM) được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Luật Quảng cáo 2012, Luật Cạnh tranh 2004. Theo quy định của Luật Quảng cáo 2012 và các văn bản pháp luật có liên quan quy định, các hành vi quảng cáo vi phạm sẽ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền chung xử lý vi phạm về hành chính. Tuy nhiên, hành vi quảng cáo nhằm CTKLM theo quy định của Luật Cạnh tranh lại không thuộc thẩm quyền xử lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chung mà do một cơ quan có thẩm riêng biệt xử lý.

Luật Cạnh tranh 2004 quy định, thẩm quyền giải quyết hành vi quảng cáo nhằm CTKLM thuộc về Cơ quan quản lý cạnh tranh. Cơ quan quản lý cạnh tranh là Cục Quản lý cạnh tranh trực thuộc Bộ Công Thương, do Chính phủ quyết định thành lập và quy định tổ chức, bộ máy.

Theo quy định tại Điều 49 Luật Cạnh tranh 2004, cơ quan quản lý cạnh tranh vừa là cơ quan điều tra, vừa là cơ quan xử lý vừa là cơ quan hành chính.

Thẩm quyền giải quyết vụ việc quảng cáo nhằm CTKLM được quy định cụ thể tại điểm c, d khoản 2, Điều 49, Luật Cạnh tranh 2004 và tại Điều 40 Nghị định số 71/2014/NĐ-CP.

Thứ nhất, về thẩm quyền điều tra, các hành vi quảng cáo nhằm CTKLM quy định tại điểm c khoản 2 Điều 49 Luật Cạnh tranh 2004, được giao cho Phòng điều tra và xử lý các hành vi CTKLM. Thẩm quyền điều tra vụ việc được chia thành hai trường hợp như sau:

Một là, Cục quản lý cạnh tranh sẽ tiến hành điều tra khi có đơn khiếu nại của bên liên quan về hành vi quảng cáo nhằm CTKLM theo quy định tại Điều 58, Luật Cạnh tranh 2004.

Hai là, Cục quản lý cạnh tranh sẽ tiến hành điều tra vụ việc khi trực tiếp phát hiện hành vi quảng cáo có dấu hiệu vi phạm pháp luật.

Thứ hai, về thẩm quyền xử lý, các hành vi quảng cáo nhằm cạnh CTKLM được quy định tại điểm d, khoản 2, Điều 49 Luật Cạnh tranh 2004. Cục Quản lý cạnh tranh có thẩm quyền xử lý các hành vi quảng cáo nhằm CTKLM. Thẩm quyền xử lý được quy định cụ thể đối với thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh. Tại Điều 40, Nghị định số 71/2014/NĐ - CP đã quy định về thẩm quyền xử lý hành vi quảng cáo nhằm CTKLM cụ thể thuộc về thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh. Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh là cá nhân có thẩm quyền phạt cảnh cáo, phạt tiền đến 100 triệu đồng trong trường hợp hành vi do cá nhân thực hiện, đến 200 triệu đồng trong trường hợp hành vi do tổ chức thực hiện, tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm. Bên cạnh đó, Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh có thẩm quyền quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn hành chính khi chưa chuyển hồ sơ vụ việc cạnh tranh cho Hội đồng cạnh tranh xử lý.

Thứ ba, thẩm quyền giải quyết hành vi quảng cáo nhằm CTKLM thuộc cơ quan tòa án. Các hành vi quảng cáo nhằm CTKLM thuộc thẩm quyền xử lý của tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.


        1. Đánh giá các quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết

Các nội dung ở trên đã nêu rõ quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết hành vi quảng cáo nhằm CTKLM trong đó Cục Quản lí cạnh tranh Việt Nam là cơ quan có thẩm quyền này, tuy nhiên cơ quan này còn kiêm cả các chức năng như: bảo vệ người tiêu dùng, quản lý nhà nước về chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế trong khi trên thế giới không có cơ quan quản lý cạnh tranh nào được quy định nhiều chức năng như vậy điều đó dẫn đến hiệu quả giải quyết hành vi kém và không triệt để

1.2.2 Pháp luật về biện pháp xử lý hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh

1.2.2.1 Các quy định của pháp luật về biện pháp xử lý

Căn cứ xử lý hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Thứ nhất, phải có hành vi quảng cáo nhằm CTKLM quy định tại Điều 45 Luật Cạnh tranh 2004.

Thứ hai, hành vi quảng cáo nhằm CTKLM gậy thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại cho các chủ thể khác.

Thứ ba, hành vi quảng cáo nhằm CTKLM có mối quan hệ nhân quả với thiệt hại trên thực tế và thiệt hại có thể xảy ra trong tương lai.

Thứ tư, hành vi quảng cáo đó phải là hành vi có lỗi trong CTKLM.

Các biện pháp xử lý hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Luật Cạnh tranh 2004 và Nghị định số 71/2014/NĐ-CP đã quy định về các biện pháp xử lý hành vi quảng cáo nhằm CTKLM. Cụ thể tại Điều 33, Nghị định số 71/2014/NĐ-CP quy định các biện pháp xử lý hành vi quảng cáo nhằm CTKLM gồm biện pháp xử phạt vi phạm hành chính, biện pháp xử phạt vi phạm dân sự và biện pháp xử phạt vi phạm hình sự.

Thứ nhất, biện pháp xử phạt vi phạm hành chính, theo quy định của Nghị định 71/2014/NĐ - CP trong việc áp dụng có 3 hình thức.

i) Hình thức xử phạt chính: căn cứ theo Điều 3, Nghị định 71/2014/NĐ- CP thì đối với mỗi hành vi vi phạm, các cá nhân tổ chức vi phạm phải chịu một hình thức xử phạt chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền. Mức tiền phạt đối với hành vi quảng cáo nhằm CTKLM được quy định cụ thể tại khoản 1, khoản 2 Điều 33, Nghị định 71/2014/NĐ - CP.

Mức tiền phạt tối đa đối với các hành vi quảng cáo nhằm CTKLM có sự khác nhau. Đối với hành vi quảng cáo so sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác; quảng cáo bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 45 Luật Cạnh tranh 2004 chịu mức tiền phạt tối đa là 80 triệu đồng. Đối với hành vi quảng cáo đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về các nội dung quy định tại khoản 3 Điều 45 Luật Cạnh tranh 2004 chịu mức phạt tối đa là 140 triệu đồng.

Mức tiền phạt cụ thể của mỗi hành vi quảng cáo nhằm CTKLM được quy định tại khoản 3, Điều 33, Nghị định 71/2014/NĐ - CP là mức trung bình của khung tiền phạt đối với hành vi vi phạm. Tuy nhiên, mức tiền phạt trên còn phụ thuộc vào các tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ mà cơ quan quản lý cạnh tranh xem xét áp dụng đối với hành vi quảng cáo vi phạm.

ii) Hình thức xử phạt bổ sung: hành vi quảng cáo nhằm CTKLM tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung quy định tại khoản 3, Điều 33 đẫn chiếu đến khoản 4 Điều 28, Nghị định 71/2014/NĐ - CP. Các hình thức xử phạt bổ sung gồm: tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm.

iii) Biện pháp khắc phục hậu quả: được ghi nhận tại khoản 3, Điều 33 đẫn chiếu đến khoản 4 Điều 28, Nghị định 71/2014/NĐ-CP, biện pháp khắc phục hậu quả được pháp luật quy định đối với hành vi quảng cáo nhằm CTKLM là buộc cá nhân tổ chức vi phạm cải chính công khai.

Thứ hai, biện pháp xử lý dân sự: pháp luật cạnh tranh đã quy định về chế tài bồi thường thiệt hại đối với hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Theo khoản 3 Điều 117 Luật Cạnh tranh 2004 thì “tổ chức cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân khác thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật”. Quy định này được cụ thể hóa trong khoản 2 Điều 6 Nghị định 71/2014/NĐ-CP là việc bồi thường thiệt hại đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh xâm phạm tới lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân khác thì thực hiện bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật về dân sự.

Thứ ba, biện pháp xử lý hình sự: các hành vi quảng cáo nhằm CTKLM bị cơ quan quản lý cạnh tranh điều tra theo các thủ tục tố tụng cạnh tranh. Nhưng trong quá trình điều tra vụ việc, cơ quan quản lý cạnh tranh phát hiện hành vi đó có dấu hiệu tội phạm, hành vi đó sẽ bị chuyển hồ sơ đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự để tiến hành điều tra giải quyết theo thủ tục tố tụng hình sự. Bên cạnh các hành vi bị phát hiện dấu hiệu vi phạm và chuyển sang khởi tố hình sự, hành vi quảng cáo nhằm CTKLM nếu vi phạm tội danh quảng cáo gian dối quy định tại Điều 168 bộ Luật Hình sự 1999. Đối với tội danh này, chủ thể thực hiện hành vi sẽ phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ ba năm tù. Có thể thấy, biện pháp hình sự đã tạo tính răn đe hơn đối với các hành vi quảng cáo nhằm CTKLM, biện pháp này đánh vào các chủ thể thực hiện hành vi chứ không chỉ đánh vào tài chính của chủ thể đó.



        1. Đánh giá các quy định của pháp luật về biện pháp xử lý

Mức tiền phạt đối với hành vi quảng cáo nhằm CTKLM được quy định cụ thể tại khoản 1, khoản 2 Điều 33, Nghị định 71/2014/NĐ - CP. Trong đó, mức tiền phạt tối đa đối với hành vi quảng cáo so sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác; quảng cáo bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 45 Luật Cạnh tranh 2004 chịu mức tiền phạt tối đa là 80 triệu đồng. Đối với hành vi quảng cáo đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về các nội dung quy định tại khoản 3 Điều 45 Luật Cạnh tranh 2004 chịu mức phạt tối đa là 140 triệu đồng. Tuy nhiên, theo Hệ thống bảng giá quảng cáo trên VTV thì giá một quảng cáo trên khung giờ vàng trong 30s lên tới trên 300 triệu đồng2 như vậy quy định này còn thiếu cụ thể và thiếu tính răn đe.

Khoản 3, Điều 33 đẫn chiếu đến khoản 4 Điều 28, Nghị định 71/2014/NĐ - CP. Các hình thức xử phạt bổ sung gồm: tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm. Tuy nhiên chủ thể thực hiện hoạt động quảng cáo gồm hai chủ thể là doanh nghiệp có sản phẩm, dịch vụ, hàng hoá cần quảng cáo và doanh nghiệp phát hành quảng cáo, hơn nữa việc xác định khoản lợi nhuận mà hành vi quảng cáo đó mang lại rất khó khăn nên việc quy định như vậy là thiếu tính thực tế.

Ngoài ra, pháp luật không quy định về thẩm quyền giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi này gây ra nên thẩm quyền này được giao cho Toà án. Điểm bất cập ở đây là pháp luật không quy định mối quan hệ giữa việc xử lý vi phạm của Cục Quản lí cạnh tranh và việc giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại của Toà án nên Toà án có thể giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại mà chưa cần có quyết định xử phạt hành vi quảng cáo nhằm CTKLM của Cục Quản lí cạnh tranh cụ thể: khi Toá án xử lí bồi thương thiệt hại trước, Cục Quản lí cạnh tranh xử lí hành vi quảng cáo nhằm CTKLM sau thì cả hai cơ quan đều phải đi điều tra và xác định tính không lành mạnh của hành vi quảng cáo. Việc giải quyết các yêu cầu khác nhau liên quan đến một vi phạm được trao cho nhiều cơ quan gây chồng chéo về thẩm quyền giải quyết dẫn đến mất thời gian, gây lãng phí tiền của của Nhà nước.

Chương 2
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT VÀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH VI QUẢNG CÁO NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH

2.1 Thực trạng vi phạm về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh của doanh nghiệp

Các hành vi quảng cáo CTKLM của các doanh nghiệp trên thị trường chủ yếu là quảng cáo so sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác. Quảng cáo bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng. Quảng cáo đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng.

Theo số liệu Báo cáo điều tra vụ việc CTKLM của Cục quản lý cạnh tranh theo các năm từ 2009 đến năm 20153. Hành vi quảng cáo nhằm CTKLM có số vụ việc điều tra lần lượt là năm 2009 điều tra 05 vụ, năm 2010 điều tra 20 vụ, năm 2011 điều tra 33 vụ, năm 2012 điều tra 37 vụ, năm 2013 điều tra 02 vụ, năm 2014 là 06 vụ, năm 2015 là 24 vụ. Có thể thấy, trong giai đoạn từ 2009 - 2012 số lượng vụ việc bị điều tra liên quan đến hành vi quảng cáo nhằm CTKLM tăng nhanh. Từ 5 vụ bị điều tra năm 2009 lên 37 vụ bị điều tra năm 2012 và luôn chiếm số lượng vụ bị điều tra nhiều nhất về hành vi CTKLM.

Trong năm 2013, số lượng vụ việc quảng cáo nhằm CTKLM bị điều tra có sự giảm mạnh so với các năm trước đó do gặp phải vướng mắc về cơ sở pháp lý liên quan đến thẩm quyền xử phạt hành vi quảng cáo nhằm CTKLM giữa Luật Xử lý vi phạm hành chính 2013 với Nghị định 120/2005/NĐ - CP quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.

Trong giai đoạn từ năm 2014 – 2015 số lượng vụ việc quảng cáo nhằm CTKLM bị khởi xướng điều tra có sự tăng lên so với năm 2013. Bởi trong năm 2014 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 71/2014/NĐ – CP về xử lý vi phạm pháp luật cạnh tranh thay thế Nghị định số 120/2005/NĐ – CP nhằm giải quyết những vướng mắc gặp phải.

Bên cạnh những vụ việc, bị Cục Quản lý cạnh tranh khởi xướng điều tra trong thời gian qua. Cục quản lý cạnh tranh cũng đã tiến hành xử lý một số vụ việc do khiếu nại của các bên liên quan về hành vi quảng cáo nhằm CTKLM.

Như vậy, từ thực tiễn cho thấy số lượng doanh nghiệp vi phạm hành vi quảng cáo nhằm CTKLM luôn chiếm tỉ lệ lớn trong số vụ vi phạm hành vi CTKLM.

2.2 Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết và biện pháp xử lí hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Trong chương trình Kinh doanh và Pháp luật4, tiến sĩ, luật sư Đinh Thị Mỹ Loan - nguyên cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh cho biết, bà đánh giá rất cao hiệu quả hoạt động của cục về xử lí các vụ việc liên quan đến hành vi quảng cáo nhằm CTKLM, bởi theo bà trong giai đoạn từ 2006 đến 2013, trong 97 vụ quảng cáo nhằm CTKLM đã xử lí, chiếm đến 80% trong số vụ là do bản thân cục cạnh tranh tự khởi xướng khi thấy và phát hiện các vấn đề, hành vi quảng cáo CTKLM qua báo chí, qua xã hội, các kênh thông tin chính thống cũng như không chính thống. Hệ quả này đến từ việc Luật Cạnh tranh quy định cơ quan quản lý cạnh tranh thẩm quyền điều tra vụ việc kể cả khi không có khiếu nại của doanh nghiệp. Cho thấy bản thân cục quản lý cạnh tranh đã có những cố gắng nhất định về nhiều mặt để cải thiện tình hình vi phạm cũng như bảo vệ môi trường cạnh tranh.

Tuy nhiên, Cục Quản lý cạnh tranh chỉ có 3 trụ sở chịu trách nhiệm thụ lí hồ sơ và điều tra các vụ việc liên quan đến hành vi quảng cáo nhằm CTKLM. Một là trụ sở chính đặt tại Hà Nội, và 2 văn phòng đại diện tại Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh. Với cơ cấu tổ chức như vậy, hiệu quả trong quản lý và thi hành chức năng nhiệm vụ khó có thế đáp ứng để đáp ứng. Đây là một hạn chế cơ bản trong quá trình xử lí, tiếp nhận khiếu nại của các doanh nghiệp liên quan đến hành vi vi phạm.

Theo thống kê năm 20105, Cục Quản lí cạnh tranh có hơn 90 nhân viên với độ tuổi trung bình 30 tuổi. Với số lượng nhân viên hạn chế và phải phụ trách về các hành vi hạn chế cạnh tranh, các hành vi vi phạm về CTKLM. Theo quy định của Điều 52, Luật Cạnh tranh 2004, điều tra viên phải là người có thời gian công tác thực tế ít nhất là 5 năm thuộc một trong các lĩnh vực luật, kinh tế và tài chính. Trong khi thực tế các cán bộ, nhân viên của Cục Quản lý cạnh tranh tính đến năm 2012 có hơn 80% là những cán bộ mới ra trường hoặc có ít hơn 5 năm kinh nghiệm. Cộng thêm mức độ tinh vi càng ngày càng cao của các cách thức lợi dụng những kẽ hở của pháp luật, như hành vi quảng cáo trên internet thì việc kiểm soát lại rất khó khăn

Trong số các vụ việc xử lí quảng cáo nhằm CTKLM đã nêu, 80% là do cục phát hiện và xử lý, 20% còn lại là do doanh nghiệp khiếu nại. Theo một khảo sát của Cục Quản lý cạnh tranh đầu năm 20136, trong hơn 500 doanh nghiệp được thăm dò chỉ có 1,6% doanh nghiệp hiểu rất rõ Luật Cạnh tranh, có đến 92,8% doanh nghiệp chưa hiểu rõ về Luật Cạnh tranh, chưa tính đến số lượng doanh nghiệp hiểu rõ nhưng vẫn cố tình vì phạm. Các số liệu thống kê này nói lên một vấn đề đáng lo ngại đó là, trong vấn đề quảng cáo nhằm CTKLM nói riêng, các doanh nghiệp không có hoặc chưa có, chưa ý thức tự bảo vệ mình, bảo vệ sản phẩm, công sức, ý tưởng quảng cáo của bản thân doanh nghiệp. Đây chính là khó khăn về mặt xử lý của cơ quan quản lý cạnh tranh.

2.3 Đánh giá thực tiễn áp dụng luật

Trên thực tế, quá trình áp dụng pháp luật về thẩm quyền giải quyết và biện pháp xử lí hành vi quảng cáo CTKLM đã cho thấy những ưu điểm và nhược điểm nhất định.



2.3.1 Ưu điểm

Thứ nhất, hiệu quả xử lí các vụ việc đã được nâng cao theo thời gian, cơ quan quản lí cạnh tranh đã biết vận dụng thẩm quyền được pháp luật quy định, tự mình điều tra vụ việc kể cả khi không có khiếu nại.

Thứ hai, các hình thức, biện pháp xử lí đã phát huy hiệu quả cần thiết, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.

Thứ ba, công tác tuyên truyền phổ biến, nâng cao nhận thức về pháp luật cạnh tranh cho doanh nghiệp phần nào đó đã có những hiệu quả nhất định.

Thứ tư, pháp luật đã có các quy định tạo điều kiện thuận lợi, nâng cao thẩm quyền cho cơ quan quản lí cạnh tranh khi có sự trùng hợp với quy định của các ngành luật khác, để cục có thể thực hiện tốt công tác quản lí.

2.3.2 Nhược điểm

Thứ nhất, sự am hiểu pháp luật cạnh tranh đặc biệt trong hoạt động quảng cáo của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế.

Thứ hai, là sự chồng chéo về mặt thẩm quyền của các cơ quan chức năng, sự đan xen của các quy định pháp luật có liên quan đến quảng cáo.

Thứ ba, là tình trạng quy định pháp luật chưa cụ thể tạo căn cứ pháp lí làm cơ sở cho cơ quan quản lí cạnh tranh thực thi chức năng nhiệm vụ được giao.

Thứ tư, quy mô, cơ cấu tổ chức, của cơ quan quản lý cạnh tranh chưa đáp ứng được nhu cầu quản lý hành vi CTKLM hiện nay.

Thứ năm, là vấn đề thiếu kinh phí hoạt động.

Thứ sáu, chế tài xử lí còn chưa đủ sức răn đe chưa thống nhất và chưa phù hợp với thực tế.

Thứ bảy, sự tham gia của các cơ quan truyền thông, cùng các thông tin không chính xác làm ảnh hưởng đến quá trình điều tra, xử lí hành vi quảng cáo nhằm CTKLM.

Thứ tám, về chế tài bồi thường thiệt hại chưa được quy định một cách rõ ràng gây khó khăn cho việc áp dụng quy định pháp luật.

Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ

THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT VÀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH VI QUẢNG CÁO NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH

3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật

Luật Cạnh tranh 2004 ra đời, quy định cụ thể về các hoạt động cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong đó có hoạt động quảng cáo nhằm cạnh tranh của doanh nghiệp. Nền kinh tế thay đổi, môi trường cạnh tranh thay đổi, khiến Luật Cạnh tranh 2004 có nhiều điểm hạn chế, không kịp điều chỉnh các hành vi mới phát sinh. Đặc biệt, đối với hành vi quảng cáo nhằm CTKLM đã tận dụng nhiều kẽ hở trong quy định pháp luật để thực hiện các hành vi CTKLM. Vì vậy, cần có sự điều chỉnh, thay đổi nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật.



3.2 Định hướng hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết và biện pháp xử lí hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Trên cơ sở xây dựng, bổ sung các quy định của pháp luật về quảng cáo nhằm CTKLM ở Việt Nam vừa thu hút đầu tư mà vẫn bảo vệ được quyền lợi của người tiêu dùng, và của các doanh nghiệp. Nhóm đã nêu ra một số phương hướng chung để xây dựng và hoàn thiện quy định của pháp luật về mặt thẩm quyền và biện pháp xử lí với hành vi quảng cáo nhằm CTKLM như sau:

Thứ nhất, đảm bảo cấu trúc thị trường, phù hợp với thể chế chính trị, hài hòa giữa lợi ích kinh tế và bảo vệ văn hóa, thuần phong mĩ tục, đạo đức xã hội.

Thứ hai, đảm bảo hài hòa lợi ích của các thành phần tham gia thị trường và lợi ích xã hội.

Thứ ba, quá trình hoàn thiện phải phù hợp với thông lệ quốc tế, gắn kết với quá trình hội nhập thế giới.

Thứ tư, hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh đồng thời đảm bảo tính đồng bộ giữa các quy định của pháp luật, tính răn đe đối với các trường hợp vi phạm.

Thứ năm, hoàn thiện cơ cấu tổ chức, nâng cao năng lực cán bộ, điều tra viên đi kèm với nâng cao hiểu biết cho doanh nghiệp về pháp luật cạnh tranh cũng như các vấn đề khác có liên quan.

3.3 Giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật

3.3.1 Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh

Thứ nhất, nâng cao nhận thức về quy định pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh hơn nữa.

Từ phía cơ quan quản lý cạnh tranh: cơ quan quản lý cạnh tranh cần phải phối hợp với các cơ quan nhà nước khác nhằm tuyên truyền về pháp luật cạnh tranh nhiều hơn nữa.

Từ phía các doanh nghiệp: để hoạt động kinh doanh hiệu quả, các doanh nghiệp phải tự tìm hiểu các quy định của pháp luật và cập nhật các văn bản pháp luật mới nhất của nhà nước nhằm tự bảo vệ mình trước các hành vi CTKLM, tránh vi phạm quy định pháp luật trong hoạt động kinh doanh, tạo sự phát triển bền vững cho chính doanh nghiệp đó.

Thứ hai, ban hành văn bản pháp luật quy định cụ thể về thẩm quyền giải quyết, biện pháp xử lý hành vi quảng cáo nhằm CTKLM nói riêng và hành vi CTKLM nói chung.

Thứ ba, cần quy định rõ hơn về các hình thức CTKLM, cụ thể hành vi quảng cáo bắt chước sản phẩm của doanh nghiệp khác nhằm cạnh CTKLM, hành vi quảng cáo so sánh hàng hóa, dịch vụ cần quy định rõ một số điểm cụ thể.

Đối với hành vi quảng cáo bắt chước sản phẩm quảng cáo của doanh nghiệp khác, nêu rõ các trường hợp quảng cáo được cho là hành vi bắt chước sản phẩm quảng cáo khác nhằm gây nhầm lẫn cho khách hàng, quy định rõ hơn về hình thức xử lý phù hợp với mức độ bắt chước của hành vi đó.

Đối với hành vi quảng cáo so sánh hàng hóa, dịch vụ, cần bổ sung thêm quy định cấm hành vi quảng cáo so sánh một cách gián tiếp hàng hóa dịch vụ. Quy định rõ hơn về các trường hợp vi phạm hành vi quảng cáo so sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ.

Thứ tư, Chính phủ cần xem xét và quy định giảm bớt chức năng nhiệm vụ nhằm tạo điều kiện cho Cục Quản lý cạnh tranh thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ quyền hạn của mình. Ngoài ra xây dựng thêm 2 văn phòng đại diện của Cục Quản lí cạnh tranh, 1 tại thành phố Vinh xử lý các vụ việc xảy ra trong khu vực Bắc Trung bộ, 1 tại thành phố Cần thơ xử lý các vụ việc xảy ra trong khu vực đồng bằng sông cửu long.

Thứ năm, cần phân bổ, xem xét lại các mức thu chi phù hợp và đề xuất tăng thêm ngân sách hoạt động để đảm bảo cho công tác kiểm soát hành vi CTKLM hiệu quả.

Thứ sáu, sửa đổi một số quy định về mức xử phạt đối với hành vi quảng cáo nhằm CTKLM là không áp dụng mức phạt cụ thể mà sẽ áp dụng tỉ lệ 10% trên tổng doanh thu năm liền trước của doanh nghiệp vi phạm nhằm tạo tính răn đe hơn nữa.

Thứ bảy, cần có sự tham gia một cách tích cực và có trách nhiệm của cơ quan báo chí, truyền thông.

Thứ tám, cần có sự liên kết giữa Cục Quản lý cạnh tranh và tòa án trong công tác xử lý bồi thường thiệt hại với hành vi quảng cáo nhằm CTKLM.

3.3.2 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật

Quy định quyền khởi kiện vụ việc quảng cáo nhằm CTKLM tới tòa án cho các bên có liên quan. Nhằm thúc đẩy hơn nữa việc các doanh nghiệp thực hiện khiếu nại đối với hành vi vi phạm về quảng cáo không lành mạnh đó.

Trao thẩm quyền các vụ việc quảng cáo nhằm CTKLM có dấu hiệu tội phạm cho tòa án cấp huyện tiến hành giải quyết.

Đối với biện pháp xử lý hình sự, cần bổ sung thêm hình thức phạt tù có thời hạn đối với hành vi quảng cáo nhằm CTKLM có dấu hiệu tội phạm mà gây ra hậu quả nghiêm trọng.

Tiến hành rà soát lại các quy định của pháp luật và điều chỉnh các quy định còn chưa phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế của Việt Nam.

KẾT LUẬN

Trải qua hơn 12 năm đưa vào thực thi, pháp luật cạnh tranh đã bộc lộ những bất cập, khó khăn nhất định về mặt thẩm quyền cũng như biện pháp xử lí hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Vì vậy, cần có những biện pháp, chỉnh sách cải cách nào để các cơ quan chức năng thực hiện tốt chức trách quản lí của mình đối với hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.

Đề tài nghiên cứu được tiến hành nhằm hướng tới hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Từ sự tìm hiểu của bản thân và thảo luận của các thành viên, chúng em đã xin phép được đề xuất nhưng biện pháp, cách thức dù là nhỏ nhưng mong muốn góp một phần nào đó nhằm tạo ra hiệu quả tích cực đến quá trình hoàn thiện pháp luật cạnh tranh nói chung và các quy định về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh nói riêng tại Việt Nam.


Каталог: DATA -> upload
upload -> 1. Kiến thức : hs phải làm được 1 tiêu bản tbtv ( tb vảy hành hoặc tb thịt quả cà chua chín). Kĩ năng
upload -> Thuật ngữ hàng hải quốc tế: a abatement Sự giảm giá
upload -> CÁP ĐIỆn lực hạ thế 1  4 LÕI, ruộT ĐỒNG, CÁch đIỆn xlpe, VỎ pvc low voltage 1 4 core Cable Copper conductor, xlpe insulation, pvc sheath
upload -> CÔng ty cp cung ứng và xnk lao đỘng hàng khôNG
upload -> BỘ NỘi vụ BỘ TÀi chíNH
upload -> Ubnd tỉnh hoà BÌnh sở KẾ hoạch và ĐẦu tư
upload -> Ớt cay f1 SỐ 20 Trái to, dài 14 15 cm, thẳng, cay vừa, chín tập trung, màu xanh trung bình khi non, màu đỏ đẹp khi chín, thịt dày, thích hợp ăn tươi và chế biến. Năng suất rất cao, 30 40 tấn/ ha. ỚT sừng vàng 1039

tải về 1.61 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương