HỘI ĐỒng phối hợp phổ biếN, giáo dục pháp luật trung ưƠng đẶc san tuyên truyền pháp luật số: 06/2013 chủ ĐỀ quyền con ngưỜI


III. CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TẠI VIỆT NAM



tải về 0.65 Mb.
trang4/7
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích0.65 Mb.
#13343
1   2   3   4   5   6   7

III. CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TẠI VIỆT NAM


1. Bảo đảm quyền con người về dân sự và chính trị

Theo Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (tiếng Anh: Universal Declaration of Human Rights, viết tắt là “UDHR”), chính phủ một quốc gia cần đảm bảo các quyền con người cơ bản (như các quyền dân sự và chính trị bao gồm quyền sống, quyền tự do tư tưởng, quyền tự do phát ngôn, quyền lập hội, quyền được bảo vệ, các quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội...). Sự phát triển văn minh của con người là một sự đảm bảo để các quyền đó được tôn trọng và thực hiện. Trong quá trình phát triển chung của nhân loại, Việt Nam không thể nằm ngoài xu hướng đó. Việt Nam luôn luôn khẳng định mình tuân thủ đầy đủ các thỏa thuận đã ký kết, đồng thời dân chủ của Việt Nam có bản sắc riêng, là dân chủ xã hội chủ nghĩa, lấy tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng chỉ đạo.

Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam công nhận UDHR là giá trị phổ dụng, và đã ký cam kết tuân thủ Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (tiếng Anh: International Covenant on Civil and Political Rights, viết tắt là “ICCPR”)35. Chính phủ Việt Nam luôn khẳng định thực thi đầy đủ các công ước đã ký. Và với những kết quả tích cực trong lĩnh vực nhân quyền, Trong năm 2011, Chính phủ Việt Nam đã ứng cử vào Hội đồng nhân quyền của LHQ.

1.1. Sơ lược về ICCPR


Trên bình diện quốc tế, các quyền con người về dân sự và chính trị được cụ thể hóa trong ICCPR. Đây là một công ước do Đại hội đồng LHQ thông qua ngày 16 tháng 12 năm 1966. ICCPR gồm 6 phần, 53 điều có hiệu lực ngày 23 tháng 03 năm 1976. Lời mở đầu khẳng định chân lý bất di bất dịch rằng việc công nhận những phẩm giá vốn có và quyền bình đẳng của mọi thành viên trong cộng đồng nhân loại là nền tảng cho tự do, công lý và hòa bình trên thế giới. Do đó, về các quyền dân sự và chính trị, Công ước quy định như sau:

Phần I công nhận quyền tự quyết của mọi dân tộc, bao gồm quyền được "tự do định đoạt thể chế chính trị và theo đuổi đường hướng phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá" trong điều kiện thực tế của mình. Công nhận rằng quyền sinh kế của một dân tộc không bao giờ bị tước bỏ. Để đạt được mục tiêu này, các dân tộc có quyền tự do sử dụng các nguồn lợi thiên nhiên của mình, miễn là không vi phạm những nghĩa vụ phát sinh từ sự hợp tác quốc tế về kinh tế, cũng như không được vi phạm luật pháp quốc tế. Các quốc gia hội viên ký kết ICCPR, kể cả những quốc gia có trách nhiệm bảo hộ hay giám hộ các lãnh thổ khác, phải tôn trọng và xúc tiến việc thực thi quyền dân tộc tự quyết chiếu theo các điều khoản của Hiến chương LHQ.

Phần II (Điều 2 - 5) yêu cầu các bên thực hiện các bước cần thiết để hiện thực hóa các quyền được công nhận trong Công ước, đồng thời trừng phạt và sửa chữa bất kỳ vi phạm nào trong quá khứ và hiện tại. Phần II yêu cầu các bên tham gia cam kết tôn trọng và bảo đảm thực thi những quyền được thừa nhận trong Công ước cho "tất cả mọi người sống trong lãnh thổ và thuộc thẩm quyền quốc gia, không phân biệt chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm, nguồn gốc quốc gia hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ thân trạng nào khác" và nhấn mạnh nam nữ được hưởng các quyền về dân sự và chính trị nêu trong Công ước một cách bình đẳng. Những quyền này "chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp khẩn cấp đe dọa đến sự tồn vong của một quốc gia," và ngay cả trong trường hợp đó cũng không tha thứ bất kỳ hành vi nào xâm phạm các quyền được sống, quyền không bị tra tấn và bị bắt làm nô lệ, quyền miễn trừ hồi tố, quyền được giữ nguyên chính kiến, quyền tự do tư tưởng - lương tâm và tôn giáo.

Phần III (Điều 6 - 27) liệt kê các quyền được Công ước bảo hộ, bao gồm các quyền sau:

Quyền toàn vẹn thân thể, quyền được sống, không bị tra tấn và bị bắt làm nô lệ (Điều 6, 7, và 8);

Quyền tự do và an toàn nhân thân, tức là quyền không bị bắt và bỏ tù vì các lý do không chính đáng (Điều 9 – 11);

Quyền bình đẳng trước luật, và mọi cáo trạng phải đúng trình tự pháp luật. Công ước cũng đưa ra nguyên tắc “suy luận vô tội” áp dụng cho một người bị kết tội hình sự cho đến người này bị chứng minh là có tội theo luật (Điều 14, 15, và 16);

Quyền tự do cá nhân được hiểu theo nghĩa tự do di chuyển, tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo, tự do phát biểu và giữ quan điểm mà không bị ai can thiệp, tự do lập hội và hội họp, tự do lập gia đình, quyền khai sinh và quyền bí mật đời tư (Điều 12, 13, 17 – 24);

Ngăn cấm bất kỳ hình thức tuyên truyền cổ vũ chiến tranh hay gieo giắc kỳ thị chủng tộc, tôn giáo (Điều 20);

Quyền tham gia chính trị bao gồm quyền tự do thành lập, theo hoặc không theo một đảng chính trị và quyền bầu cử (Điều 25);

Quyền được đối xử bình đẳng của các cộng đồng thiểu số trước pháp luật (Điều 26 và 27).

Nhiều trong số các quyền trên yêu cầu một số điều cụ thể mà các quốc gia hội viên phải thực hiện.

Phần IV (Điều 28 - 45) quy định các nguyên tắc thành lập và hoạt động của Ủy ban nhân quyền cùng các công việc giám sát và báo cáo. Đồng thời, Công ước cũng yêu cầu các quốc gia thừa nhận năng lực của Ủy ban trong giải quyết mâu thuẫn giữa các nước liên quan đến việc thực thi Công ước (Điều 41 và 42).

Phần V (Điều 46 - 47) giải thích rằng Công ước sẽ không bị diễn giải theo cách can thiệp vào hoạt động của LHQ hoặc "quyền của mọi dân tộc được thụ hưởng và sử dụng một cách tự do và đầy đủ các nguồn tài nguyên của họ."

Phần 6 (Điều 48 - 53) quy định cách thức phê chuẩn, thời gian có hiệu lực và cách sửa đổi bổ sung sau này.

1.2. Bảo đảm các quyền con người về dân sự và chính trị


Ngay sau khi giành được độc lập năm 1945, quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1946 của nước VNDCCH và sau đó tiếp tục được khẳng định, mở rộng trong các Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận một cách trang trọng, rõ ràng khẳng định của Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người thông qua việc bảo đảm các quyền công dân (tại Điều 50). Nội dung các quyền con người đã được thể hiện xuyên suốt trong Hiến pháp năm 1992 nhưng đặc biệt được nêu tập trung tại Chương 5 (về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân) đồng thời được cụ thể hóa trong hàng ngàn văn bản pháp luật khác của Nhà nước. Pháp luật cũng khẳng định rõ Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, có trách nhiệm bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân36.

Quyền con người trong lĩnh vực dân sự, chính trị thực ra rất rộng lớn và ngày càng được mở rộng do sự phát triển các điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước. Mặc dù vậy, việc đảm bảo thực hiện các quyền con người trong lĩnh vực dân sự, chính trị đòi hỏi Nhà nước phải xây dựng được một hành lang pháp lý đầy đủ và toàn diện đồng thời không ngừng cập nhật và sửa đổi các chính sách hiện hành theo diễn biến của tình hình mới, kể cả trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, ở góc độ tổng quát nhất, quyền con người về dân sự, chính trị được bảo đảm theo quy định của pháp luật Việt Nam37 bao gồm:

(i) quyền được sống,

(ii) quyền bình đẳng trước pháp luật,

(iii) quyền tự do và an ninh cá nhân,

(iv) quyền tự do về lao động;

(v) quyền tự do ngôn luận, báo chí và thông tin;

(vi) quyền tự do tư tưởng, tôn giáo và tín ngưỡng,

(vii) quyền tự do đi lại và lựa chọn nơi ở,

(viii) quyền lập hội, biểu tình,

và (ix) quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội.

a) Quyền được sống

Quyền sống là một trong các quyền cơ bản nhất của con người, ở bất cứ đâu, ở bất cứ quốc gia nào và dưới bất kỳ chế độ chính trị nào. Ở bình diện quốc tế, quyền sống được ghi nhận tại Điều 6 của ICCPR, theo đó “mọi người đều có quyền sống. Đây là một quyền bẩm sinh được luật pháp bảo vệ. Không ai có thể tước đoạt quyền sống một cách độc đoán.” Ở Việt Nam, quyền sống được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992, cụ thể như sau: “công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm” (Điều 71). Song song với việc quy định quyền sống của công dân trong hiến pháp, Việt Nam còn cụ thể hóa các quy định về quyền sống trong các văn bản pháp luật khác. Cụ thể, Điều 32 Bộ luật Dân sự năm 2005 (“BLDS”) quy định: “Cá nhân có quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể. Không ai được xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, thân thể của người khác.”

Bộ luật Hình sự của Việt Nam năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (“BLHS”) cũng có một chương quy định về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự của con người. Theo hướng mở rộng và đảm bảo tốt hơn nữa quyền sống của con người, BLHS đã ngày càng thu hẹp phạm vi áp dụng biện pháp tử hình đối với một số loại tội phạm, đặc biệt là với các tội phạm về kinh tế. Nếu như BLHS năm 1985 quy định về 44 điều luật có khung hình phạt tử hình thì số điều luật quy định cho tử hình trong BLHS năm 1999 giảm xuống còn 29 và giảm tiếp xuống sau đợt sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2009 xuống còn 25 điều38. Ngoài ra, BLHS cũng có quy định không áp dụng hình phạt tử hình đối với một số đối tượng phạm tội, chẳng hạn, đối với người chưa thành niên, đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Người bị kết án tử hình, theo BLHS, cũng có thể được xem xét ân giảm xuống hình phạt tù chung thân nếu có đủ các điều kiện mà pháp luật quy định. Đối với những người bị truy tố theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 (“BLTTHS”) yêu cầu cơ quan tố tụng phải mời luật sư bào chữa bắt buộc nếu như gia đình bị can, bị cáo không thể mời luật sư tham gia (Điều 57). Trong việc xét xử người phạm tội (đối với bị cáo bị áp dụng mức hình phạt tử hình), BLTTHS cũng quy định thành phần cơ quan xét xử gồm 02 Thẩm phán và 03 Hội thẩm và tòa án xét xử buộc phải là tòa án cấp tỉnh.

Như vậy, ngoài việc quy định rõ ràng trong hiến pháp, pháp luật về dân sự và hình sự của Việt Nam cùng các văn bản pháp lý khác có liên quan đều có các quy định điều chỉnh và tác động trực tiếp lên quyền sống của con người. Hòa vào xu hướng chung của thế giới, quyền sống của con người ngày một được tôn trọng và bảo đảm. Không chỉ có vậy, Nhà nước còn không ngừng đổi mới và hoàn thiện các chế định về quyền con người để đảm bảo một cách tốt nhất quyền lợi của công dân theo hướng mở rộng quyền được sống, hạn chế các quy định có ảnh hưởng bất lợi tới quyền sống của con người.



b) Quyền bình đẳng trước pháp luật

Quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân là quyền hiến định được ghi nhận đầu tiên trong Hiến pháp năm 1946 của nước VNDCCH. Cụ thể, Điều 7 Hiến pháp năm 1946 quy định “Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia vào công cuộc kiến quốc tùy theo đức hạnh của mình.” Tiếp theo đó, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 đều ghi nhận quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật.

Thực tế thì quy định của Hiến pháp năm 1992 về quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật là sự tiếp thu khá chọn lọc và là sự cải tiến đối với quy định tương ứng của ICCPR. Điều 16 của ICCPR quy định “Ai cũng có quyền được công nhận là con người trước pháp luật bất cứ tại đâu.” Nội dung quyền này khẳng định, tất cả mọi người sinh ra đều như nhau về quyền lợi, không ai có đặc quyền, đặc lợi hoặc được pháp luật xếp trên người khác về quyền lợi.

Trong quan hệ dân sự, Điều 5 BLDS năm 2005 quy định, các bên trong quan hệ dân sự đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau. Điều 2 Luật Quốc tịch năm 2008 khẳng định, mọi cá nhân và thành viên của mọi dân tộc sinh sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền có quốc tịch Việt Nam.

Các quyền bình đẳng của mọi công dân trong hoạt động bầu cử, ứng cử, tham gia vào quản lý Nhà nước và xã hội cũng được thừa nhận rộng rãi trong hàng loạt các văn bản luật như Luật bầu cử đại biểu Quốc Hội năm 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2002), Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (“HĐND”) năm 2003.

Trong các quan hệ hôn nhân gia đình, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 cũng thể hiện rõ quan điểm bình đẳng trong các mối quan hệ giữa vợ - chồng về tài sản, quyền nuôi con, cũng như quyền bình đẳng giữa con trai – con gái, con trong giá thú – con ngoài giá thú.

Trong quan hệ kinh doanh, Luật Doanh nghiệp năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2011 và 2013, sau đây gọi tắt là “LDN”), Luật Đầu tư năm 2005, Luật Thương mại năm 2005 đều đồng loạt thể hiện quan điểm bình đẳng khi không còn phân biệt các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác nhau, cùng áp dụng chung với nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, xóa bỏ mọi phân biệt đối xử với cộng đồng doanh nghiệp.

Liên quan đến hoạt động tố tụng, Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2002 đưa ra một số nguyên tắc cơ bản trong hoạt động xét xử trong đó có nguyên tắc tòa án xét xử mọi công dân trên cơ sở bình đẳng, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần hay địa vị xã hội (Điều 8). Điều 4 BLTTHS cũng có quy định tương tự, đó là “tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật.” Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật cũng được cụ thể hóa trong Điều 8 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004 (“BLTTDS”), trong đó làm rõ việc “các đương sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự.”



c) Quyền tự do và an ninh của con người

Điều 9 của ICCPR quy định: “ai cũng có quyền tự do thân thể và an ninh thân thể. Không ai có thể bị bắt giữ hay giam cầm độc đoán. Không ai có thể bị tước đoạt tự do thân thể ngoại trừ những trường hợp và theo những thủ tục luật định. Khi bị bắt giữ, bị cáo phải được tức thì thông báo về lý do bắt giữ, và phải được thông báo không chậm trễ về tội trạng bị cáo buộc.”

Tiếp thu tinh thần của ICCPR về quyền tự do và an ninh thân thể, Hiến pháp năm 1992 quy định tại Điều 71 như sau: “công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân.” Như vậy, nội dung của Điều 71 Hiến pháp năm 1992 gồm: (i) công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, đây là quyền tối thượng khẳng định vị thế và giá trị của con người trong xã hội; (ii) công dân không có nghĩa vụ chứng minh tội phạm và được tự do thân thể, không bị bắt giữ chừng nào chưa có chứng cứ buộc tội rõ ràng, đây là quy định thể hiện nguyên tắc “suy đoán vô tội”, theo đó, Nhà nước mặc nhiên công nhận sự vô tội của một người trừ khi có bằng chứng rõ ràng về việc phạm tội của người đó; và (3) các hành vi gây tổn hại đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân bị nghiêm cấm áp dụng.

Theo ICCPR, con người được tự do về thân thể và không thể bị bắt vô cớ, tra tấn, đối xử tàn ác, vô nhân đạo hay bị làm nhục. Điều 7 ICCPR quy định: “không ai có thể bị tra tấn, hoặc phải chịu những hình phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo, làm hạ thấp phẩm giá con người…” Phù hợp với ICCPR, pháp luật Việt Nam cũng có quy định tương tự tại Điều 6 BLTTHS, theo đó Nhà nước “nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình.”

Trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, yêu cầu đương sự phải giao kết hợp đồng, ICCPR quy định “không ai có thể bị giam giữ chỉ vì không hoàn thành một nghĩa vụ khế ước” (Điều 11). Nghĩa vụ khế ước là nghĩa vụ phát sinh hoặc có liên quan đến quan hệ hợp đồng mà cá nhân công dân là một bên tham gia. Xác định việc tham gia của công dân thông qua quan hệ hợp đồng, trong nhiều trường hợp, không quá gây hại cho xã hội, pháp luật đã có các chế định loại trừ trường hợp công dân “bị giam giữ” chỉ bởi không thể thực hiện được nghĩa vụ thỏa thuận theo hợp đồng. Các loại hợp đồng cơ bản mà một cá nhân công dân có thể tham gia là hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế và hợp đồng lao động. Các hợp đồng này thật khó lòng ràng buộc trách nhiệm hình sự của cá nhân công dân tham gia chỉ vì đơn thuần người này không hoàn thành nghĩa vụ được quy định trong hợp đồng. Trái lại, các chế tài về phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại có thể được thay thế cho các trách nhiệm hình sự để đảm bảo một cách tốt nhất quyền lợi của người có liên quan.

Trong lĩnh vực tư pháp và xét xử, quyền tự do và an ninh thân thể của công dân còn được thể hiện khá rõ nét qua quyền được thông báo lời buộc tội (Điều 49.2 BLTTHS), quyền được sử dụng ngôn ngữ thích hợp trong tố tụng (Điều 133 Hiến pháp năm 1992). Khi tham gia tố tụng, công dân là bị cáo có quyền mời luật sư tham gia bào chữa ngay khi bị bắt và bị giam giữ. Cụ thể, Điều 132 của Hiến pháp, Điều 11 BLTTHS quy định: “người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này.” Bên cạnh đó, mọi công dân sẽ đều được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án có thẩm quyền. được lập ra theo quy định của pháp luật.

Theo Điều 8 Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2002: “toà án xét xử theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội; cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân và các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật.”

Về nguyên tắc “suy đoán vô tội”, ngay cả Hiến pháp năm 1992 cũng khẳng định rõ “không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực.” Theo tinh thần này, công dân được quyền suy đoán vô tội một cách đương nhiên và chừng nào chưa có chứng cớ buộc tội rõ ràng và chưa có phán quyết của tòa án đã có hiệu lực, công dân không có trách nhiệm chứng minh mình vô tội mà nghiễm nhiên. Việc chứng minh công dân có tội hay không có tội thuộc trách nhiệm của các cơ quan công tố và xét xử. Nguyên tắc suy đoán vô tội được lần nữa khẳng định trong BLTTHS khi Điều 9 của luật này cũng có chế định tương tự “không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật.”

Một trong các quyền quan trọng khác về an ninh thân thể của con người là quyền được “xét xử công bằng và công khai.” Việc xét xử phải được thực hiện bởi một tòa án có thẩm quyền, độc lập và không thiên vị, được lập ra theo các quy định của pháp luật. Như vậy, ngay cả khi công dân vi phạm pháp luật, họ cũng có quyền được hưởng một phiên tòa công bằng, pháp luật còn có quy định cho phép họ được hưởng quyền xét xử công khai và minh bạch. Điều 16 BLTTHS quy định “khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập, chỉ tuân theo pháp luật.” Không chỉ có vậy, công dân còn có quyền yêu cầu thay đổi người tham gia tố tụng nếu có cơ sở để tin rằng những người nào không vô tư khi thực thi nhiệm vụ. Điều 18 BLTTHS năm 2003 quy định về việc tòa án xét xử công khai, cụ thể: “việc xét xử của Toà án được tiến hành công khai, mọi người đều có quyền tham dự, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì Toà án xét xử kín, nhưng phải tuyên án công khai.”

Quyền tự do an ninh cá nhân là quyền dân sự khá rộng và được đảm bảo thực hiện bởi rất nhiều đạo luật có liên quan như BLDS, BLHS, BLTTHS và một số văn bản khác. Chẳng hạn, BLHS dành hẳn một chương (Chương XII) để quy định về các tội danh xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người để khẳng định rằng các quyền tự do và an ninh thân thể không chỉ là quyền hiến định mà Nhà nước còn có cơ chế đảm bảo để các quyền đó không bị vi phạm. Một số quy định tại BLHS cũng có ý nghĩa nhất định trong việc đảm bảo quyền con người trong tự do, an ninh cá nhân, ví dụ: tội dùng nhục hình (Điều 298), tội bức cung (Điều 299)…Các nguyên tắc “suy đoán vô tội”, “xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, “nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động xét xử” cho thấy cơ chế đảm bảo các quyền tự do và an ninh thân thể đối với con người đã Nhà nước xây dựng khá đầy đủ và hoàn chỉnh, tạo thành một hệ thống các quy phạm pháp luật áp dụng trên diện rộng để hướng tới mục tiêu bảo vệ các giá trị con người.



d) Quyền tự do về lao động

Theo Điều 8 ICCPR, “không ai có thể bị bắt làm nô lệ; chế độ nô lệ và mọi hình thức buôn bán nô lệ đều bị cấm chỉ. Không ai có thể bị bắt làm nô dịch. Không ai có thể bị cưỡng bách lao động.” Phù hợp với quy định về tự do lao động trong ICCPR, Hiến pháp năm 1992 đã quy định công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự và nhân phẩm tại Điều 71. Tuy nhiên, để làm rõ hơn quyền tự do về lao động của công dân, Bộ luật Lao động năm 2012 của Việt Nam (“BLLĐ”), tại Điều 4, có quy định “bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của người lao động; khuyến khích những thỏa thuận bảo đảm cho người lao động có những điều kiện thuận lợi hơn so với quy định của pháp luật về lao động; có chính sách để người lao động mua cổ phần, góp vốn phát triển sản xuất, kinh doanh.” Pháp luật về lao động hiện hành của Việt Nam có rất nhiều quy định đảm bảo cho người lao động được hưởng quyền tự do về lao động. Chẳng hạn theo Điều 5, “người lao động được làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, học nghề, nâng cao trình độ nghề nghiệp và không bị phân biệt đối xử; hưởng lương phù hợp với trình độ kỹ năng nghề trên cơ sở thỏa thuận với người sử dụng lao động; được bảo hộ lao động, làm việc trong điều kiện bảo đảm về an toàn lao động; nghỉ phép theo chế độ; nghỉ hàng năm có lương và được hưởng phúc lợi tập thể; được thành lập, gia nhập, hoạt động công đoàn, tổ chức nghề nghiệp và tổ chức khác theo quy định của pháp luật; yêu cầu và tham gia đối thoại với người sử dụng lao động, thực hiện quy chế dân chủ và được tham vấn tại nơi làm việc để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tham gia quản lý theo nội quy của người sử dụng lao động; được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật.” Ngoài ra, người lao động được quyền đình công để yêu cầu chủ sử dụng lao động đảm bảo các quyền lợi về lao động của mình như quyền được nghỉ ngơi, nghỉ phép, nghỉ thai sản, làm việc có hưởng lương và các chế độ phúc lợi lao động khác…

Các công dân nước ngoài đến học tập và làm việc tại Việt Nam đều được Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi trong việc xin cấp thị thực và thẻ cư trú nếu đáp ứng được các điều kiện theo luật định. Theo Luật Nhà ở năm 2005 (được sửa đổi và bổ sung năm 2009), cá nhân là người Việt Nam định cư ở nước ngoài được mua và sở hữu nhà ở hợp pháp tại Việt Nam. Trong quá khứ, Nhà nước cũng có quy định tạo điều kiện thuận lợi cho Việt kiều hồi hương, thực hiện lao động, đầu tư, kinh doanh với mục đích đóng góp xây dựng và phát triển đất nước. Các quy định và thủ tục hành chính trong lĩnh vực đăng ký hộ khẩu, đăng ký cư trú và miễn thị thực ngày càng được cải thiện cũng góp phần thúc đẩy phát triển hơn nữa quyền tự do về lao động của công dân.

d) Quyền tự do ngôn luận, báo chí và thông tin

Các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin là nhu cầu cơ bản của con người. Thực tế cho thấy, xã hội càng phát triển bao nhiêu thì các nhu cầu về tự do ngôn luận, báo chí và thông tin lại phát triển bấy nhiêu. Điều 19 ICCPR quy định “mọi người đều có quyền giữ vững quan niệm mà không bị ai can thiệp. Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm, quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia.”

Về quyền tự do ngôn luận, Hiến pháp năm 1992 của Việt Nam cũng có quy định liên quan, tuy ngắn gọn nhưng lại hết sức đầy đủ: “công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin” (Điều 69). Trong vòng hơn 20 năm trở lại đây, đặc biệt là kể từ khi Việt Nam thay đổi cơ cấu quản lý kinh tế từ tập trung, quan liêu, bao cấp sang kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần, đất nước đã có sự phát triển hết sức rõ rệt trên các mặt kinh tế, văn hóa và xã hội. Việc đời sống và nhận thức của người dân được nâng cao do điều kiện kinh tế thay đổi tất yếu sẽ kéo theo nhu cầu phát triển các quyền tự do ngôn luận, báo chí và thông tin. Nhu cầu phát biểu của công dân là nhu cầu rất cần thiết mà qua đó công dân thể hiện quan điểm với Nhà nước đồng thời Nhà nước có điều kiện để lắng nghe các tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Một Nhà nước tốt chắc chắn là một Nhà nước luôn biết lắng nghe nhân dân.

Về báo chí, Việt Nam đã ban hành Luật báo chí từ năm 1990 và sửa đổi, bổ sung năm 1999, trong đó quy định, cá nhân công dân có quyền đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng những ý kiến cá nhân của mình không trái với chính sách, pháp luật của nhà nước. Cụ thể, Điều 2 Luật báo chí quy định về việc đảm bảo quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của công dân, theo đó: nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình. Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ; không một tổ chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt động. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân. Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, phát sóng.” Đây có thể coi là các quy định hết sức cởi mở, thông thoáng, đảm bảo quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của công dân. Không chỉ có vậy, Điều 4 Luật báo chí còn cụ thể hóa các quyền tự do báo chí của công dân, gồm quyền: 1- Được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới; 2- Tiếp xúc, cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà báo; gửi tin, bài, ảnh và tác phẩm khác cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, cá nhân nào và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin; 3- Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; 4- Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; 5- Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và thành viên của các tổ chức đó. Các quy định về hướng dẫn thi hành Luật báo chí cũng quy định về quyền tự do báo chí, về trách nhiệm của báo chí trong việc làm cầu nói thông tin liên lạc, giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Về xuất bản, năm 2004 Việt Nam cho ra đời Luật xuất bản và sau đó sửa đổi, bổ sung năm 2008 và thay thế bằng luật mới năm 2012. Luật này và Luật báo chí đều có quy định: báo chí và các ấn phẩm trước khi xuất bản đều không bị kiểm duyệt.

e) Quyền tự do tư tưởng, tôn giáo và tín ngưỡng

Quyền tự do về tư tưởng, tôn giáo và tín ngưỡng đã xuất hiện và có chỗ đứng khá vững chắc tại Việt Nam sau một quá trình lịch sử đấu tranh quyết liệt và dai dẳng. Sau khi giành được độc lập năm 1945, thành lập nước VNDCCH, trong bản hiến pháp đầu tiên năm 1946, Nhà nước đã khẳng định công dân có quyền “tự do về tín ngưỡng” (Điều 10). Các bản hiến pháp tiếp theo đều phát triển và nâng cao giá trị con người, bổ sung các chế định về tự do tư tưởng và về tôn giáo bên cạnh tự do về tín ngưỡng. Điều 26 Hiến pháp năm 1959 quy định: “công dân nước VNDCCH có các quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.” Điều 68 Hiến pháp năm 1980 lại một lần nữa khẳng định công dân có quyền theo hoặc không theo bất cứ tôn giáo nào mà họ thấy phù hợp hay không phù hợp. Điều 70 Hiến pháp năm 1992 mở rộng hơn nữa quyền tự do tư tưởng, tôn giáo và tín ngưỡng của công dân khi, ngoài tôn trọng việc “theo hay không theo một tôn giáo nào của công dân”, còn quy định: “các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.”

Điều 47 của BLDS là một khẳng định lại những gì được quy định tại Hiến pháp năm 1992 về quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng, cụ thể “cá nhân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.” Các văn bản dưới luật như một số nghị định của Chính phủ cũng đề cập đến vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, đặc biệt, Quốc hội Việt Nam còn ban hành Pháp lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 để đảm bảo cơ chế thực hiện các quyền này một cách có hiệu quả. Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo là văn bản pháp luật quy định chi tiết về hoạt động tín ngưỡng của người có tín ngưỡng và hoạt động tôn giáo của tín đồ, nhà tu hành, chức sắc, quy định về việc thành lập và hoạt động của các tổ chức tôn giáo…Để đảm bảo sự tuân thủ các quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng, BLHS quy định về một số tội xâm phạm quyền hội họp, quyền lập hội, các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.

g) Quyền tự do đi lại và tự do về chỗ ở

Theo quy định tại Điều 12 ICCPR “những người cư trú hợp pháp trong lãnh thổ một quốc gia đều có quyền tự do đi lại và tự do lựa chọn nơi cư trú.” Điều 13 của ICCPR cũng quy định “ngoại kiều cư trú hợp pháp trong lãnh thổ các quốc gia hội viên ký kết công ước này chỉ có thể bị trục xuất do một quyết định hợp pháp…” Phù hợp với ICCPR, Hiến pháp năm 1992 của Việt Nam cũng có các chế định bảo đảm quyền tự do đi lại và tự do về chỗ ở của công dân mình, đặc biệt Điều 68 quy định “công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật.”



Tiếp theo quy định tại Hiến pháp năm 1992, năm 1997 Chính phủ đã ra văn bản (Quyết định số 957/1997/QĐ-TTg) về việc bãi bỏ thủ tục xin thị thực xuất cảnh của công dân khi ra nước ngoài. Ngoài ra, Chính phủ cũng ban hành nhiều văn bản quy định về vấn đề hộ tịch, trong đó bãi bỏ nhiều yêu cầu về điều kiện nhà ở, chỉ tiêu… khi công dân đăng ký hộ khẩu nơi ở mới. Ngoài ra, Chính phủ cũng ban hành nhiều nghị định hướng dẫn thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh vào Việt Nam để tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện các quyền tự do đi lại, kể cả với người nước ngoài muốn nhập cảnh vào Việt Nam. Đối với quyền tự do về chỗ ở, mọi công dân trong nước đều có quyền tự do về chỗ ở, đều được tạo điều kiện tối đa trong việc tạo lập nơi ở, mua bán và cư trú hợp pháp trên các bất động sản thuộc sở hữu của mình.

Liên quan đến việc sở hữu nhà ở, Luật nhà ở năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã mở rộng quyền sở hữu nhà cho một số đối tượng trong đó có người Việt Nam định cư tại nước ngoài, đồng thời tạo hành lang pháp lý thông thoáng, thuận lợi cho người nước ngoài đến sinh sống, học tập, làm việc và du lịch tại Việt Nam.



g) Quyền lập hội và hội họp

Cũng giống như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin, quyền lập hội và hội họp của công dân chỉ xuất hiện và phát triển khi đời sống vật chất của con người đạt đến một mức độ nhất định. Điều 69 Hiến pháp năm 1992 quy định “công dân có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.” Để đảm bảo các quyền này, BLHS cũng quy định một số tội danh liên quan đến xâm phạm quyền hội họp, lập hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.

Liên quan đến quyền lập hội, hiện nay, Sắc lệnh số 102/SL/L004 ngày 20 tháng 5 năm 1957 ban hành Luật quy định quyền lập hội tiếp tục còn hiệu lực. Gần đây, Chính phủ ban hành Nghị định số 45/2010/NĐ-CP và Nghị định số 33/2012/NĐ-CP quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội, thay thế cho Nghị định số 88/2003/NĐ-CP quy định về cùng lĩnh vực. Hiện Quốc Hội đang có ý kiến về xây dựng dự thảo Luật về hội và Luật biểu tình. Hi vọng trong thời gian không xa, các văn bản này sẽ được thông qua để trên cơ sở đó công dân thực hiện đầy đủ các quyền của mình một cách hợp pháp và theo đúng tinh thần của pháp luật.

i) Quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội

Tương ứng với nội dung Điều 25 ICCPR, Điều 53 Hiến pháp năm 1992 quy định: “công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với các cơ quan nhà nước...”. Điều 54 Hiến pháp năm 1992 nêu rõ: “công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc Hội, HĐND theo quy định của pháp luật”.

Theo Điều 2 Luật bầu cử đại biểu Quốc Hội năm 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2002) và Điều 3 Luật bầu cử đại biểu HĐND năm 2003, việc bầu cử đại biểu Quốc Hội và đại biểu HĐND được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.

Ngoài những quy định kể trên, Hiến pháp, pháp luật Việt Nam còn có một số quy định khác cho phép công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội thông qua giám sát hoạt động của các cơ quan, cán bộ công chức nhà nước và các đại biểu dân cử. Cụ thể, Điều 112 Hiến pháp năm 1992 quy định, Chính phủ có trách nhiệm bảo đảm thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của nhân dân; Điều 8 quy định các cơ quan, cán bộ và viên chức nhà nước phải tôn trọng, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của dân; Điều 97 quy định nghĩa vụ của các đại biểu Quốc Hội phải thu thập và phản ánh trung thực ý kiến của cử tri với Quốc Hội và các cơ quan nhà nước hữu quan. Theo Điều 43 Luật Tổ chức Quốc Hội năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007), đại biểu Quốc Hội chịu sự giám sát của cử tri, mỗi năm một lần đại biểu phải báo cáo trước cử tri về việc thực hiện nhiệm vụ của mình; cử tri có thể trực tiếp hoặc thông qua Mặt trận tổ quốc Việt Nam yêu cầu đại biểu báo cáo công tác và có thể nhận xét về việc thực hiện nhiệm vụ của đại biểu. Điều 2 Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 (sửa đổi, bổ sung các năm 2000, 2003) và Điều 8 Luật cán bộ, công chức năm 2008 cũng quy định, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình, cán bộ, công chức nhà nước chịu sự giám sát của nhân dân. Theo Điều 1 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sửa đổi, bổ sung một các năm 2004, 2005) và Điều 6 Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2007), trong trường hợp phát hiện có hành vi trái pháp luật của các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước, công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Liên quan đến quyền tham gia của người dân, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 đã quy định những nội dung phải công khai để nhân dân biết; những nội dung nhân dân bàn và quyết định; những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; những nội dung nhân dân giám sát; trách nhiệm của chính quyền, cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã), của cán bộ thôn, làng, ấp, bản, phum, sóc (gọi chung là thôn), tổ dân phố, khu phố, khối phố (gọi chung là tổ dân phố), của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và của nhân dân trong việc thực hiện dân chủ ở cấp xã.

2. Bảo đảm các quyền con người về kinh thế, văn hóa và xã hội

Ngoài việc tham gia vào vào ICCPR, Việt Nam cũng tham gia vào Công ước quốc tế về các quyền Kinh tế, Văn hóa và Xã hội39 (tiếng Anh: International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights, viết tắt: “ICESCR”). Từ khi tham gia ICESCR, Nhà nước Việt Nam đã có những nỗ lực lớn trong việc hiện thực hóa và thúc đẩy các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội của người dân. Những nỗ lực đó thể hiện ở việc Việt Nam đã thiết lập và ngày càng hoàn thiện một hành lang pháp lý khá hoàn chỉnh bao trùm nhiều mặt của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội để đảm bảo các quyền này được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ và trọn vẹn.


2.1. Sơ lược về ICESCR


ICESCR gồm có Lời nói đầu và 31 Điều, được chia làm năm phần, tóm lược như sau:

Lời nói đầu của Công ước gồm 7 đoạn và có nội dung tương tự Lời nói đầu của ICCPR. Phần này nêu rõ sự đồng thuận của các nước tham gia công ước trên cơ sở nguyên tắc của Hiến chương LHQ công nhận phẩm giá của con người, nêu lại nguồn gốc các quyền của con người bắt nguồn từ phẩm giá vốn có, công nhận rằng lý tưởng về con người tự do chỉ có thể đạt được nếu được hưởng các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cũng như các quyền dân sự và chính trị, đề cập đến nghĩa vụ của các quốc gia thành viên LHQ trong việc tôn trọng và tuân thủ các quyền và tự do của con người cũng như nghĩa vụ của mỗi cá nhân tuân thủ và thúc đẩy những quyền ấy.

Phần thứ nhất của ICESCR đề cập đến quyền tự quyết của các dân tộc. Điều 1 Công ước ghi nhận quyền tự quyết của các dân tộc trong việc quyết định thể chế chính trị, đường lối phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và việc sử dụng của cải, tài nguyên thiên nhiên của dân tộc mình. Ngoài ra, Điều này còn ghi nhận quyền của các dân tộc không bị tước đoạt phương tiện sinh tồn của mình, cũng như nghĩa vụ của các quốc gia thành viên phải tôn trọng và thúc đẩy việc thực hiện quyền tự quyết của các dân tộc.

Phần thứ hai của Công ước bao gồm các Điều 2, 3, 4 và 5. Các điều này quy định về nghĩa vụ chung của các quốc gia thành viên công ước, cụ thể: Điều 2 yêu cầu các quốc gia thành viên tiến hành các biện pháp, với tối đa các nguồn lực sẵn có, tự mình hoặc thông qua hỗ trợ và hợp tác quốc tế trong đó đặc biệt là hỗ trợ và hợp tác về kinh tế và kỹ thuật, để liên tục tiến bộ phấn đấu đạt tới đảm bảo hoàn toàn các quyền được ghi nhận trong Công ước. Điều này cũng quy định nghĩa vụ của các quốc gia thành viên không được phân biệt đối xử trong việc bảo đảm thực hiện các quyền được ghi nhận trong Công ước, cụ thể như về các yếu tố chủng tộc, màu da, giới tính, tôn giáo, quan điểm chính trị hay các quan điểm khác, nguồn gốc quốc gia hay xã hội, vị thế tài sản, nguồn gốc sinh thành hay vị thế khác. Tuy nhiên, Điều 2 cho phép các nước đang phát triển có thể lựa chọn mức độ đảm bảo các quyền kinh tế được ghi nhận trong Công ước với công dân nước ngoài. Điều 3 quy định quyền bình đẳng giữa nam và nữ trong thụ hưởng các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa được ghi nhận trong Công ước. Điều 4 quy định về việc hạn chế và các điều kiện phải tuân thủ khi hạn chế các quyền trong Công ước. Điều 5 quy định về việc áp dụng các tiêu chuẩn cao hơn trong luật pháp quốc gia so với các quyền được ghi nhận trong Công ước.

Phần thứ ba của Công ước bao gồm các Điều từ 6 đến 15, quy định về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cụ thể, trong đó: Các Điều 6, 7 và 8 đề cập đến quyền làm việc; trong đó Điều 6 quy định về cơ hội kiếm sống công bằng và nghĩa vụ của các quốc gia trong việc bảo đảm quyền kiếm sống công bằng. Điều 7 quy định về quyền được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi, bao gồm thù lao công bằng, điều kiện làm việc an toàn và lành mạnh, cơ hội công bằng và việc nghỉ ngơi thích đáng. Điều 8 ghi nhận quyền về công đoàn, trong đó bao gồm quyền được thành lập và gia nhập công đoàn do mình lựa chọn, quyền của các tổ chức công đoàn trong việc thành lập liên đoàn công đoàn quốc gia và gia nhập liên đoàn quốc tế, quyền của các công đoàn được hoạt động tự do và quyền đình công. Điều 9 quy định về an sinh xã hội và bảo hiểm xã hội. Điều 10 ghi nhận quyền về gia đình, hôn nhân tự do, chăm sóc bà mẹ và trẻ em. Điều 11 quy định về quyền có mức sống thích đáng và liên tục được cải thiện, bao gồm quyền không bị đói, quyền có lương thực thích đáng và quyền có nơi cư trú thích đáng. Điều 12 quy định về quyền được hưởng tiêu chuẩn sức khỏe về thể chất và tinh thần ở mức cao nhất có thể. Các Điều 13 và 14 ghi nhận quyền về giáo dục, trong đó Điều 13 công nhận quyền được học tập và quy định phổ cập giáo dục tiểu học miễn phí và bắt buộc; Điều 14 quy định lộ trình của các quốc gia thành viên đảm bảo nghĩa vụ thực thi phổ cập giáo dục tiểu học miễn phí và bắt buộc nêu ở Điều 13 trong vòng hai năm sau khi gia nhập công ước. Điều 15 quy định về quyền tham gia vào đời sống văn hóa, được hưởng các lợi ích của tiến bộ khoa học và các ứng dụng của nó cũng như được bảo hộ các quyền lợi vật chất và tinh thần phát sinh từ các sáng tạo khoa học, văn học nghệ thuật của cá nhân.

Phần thứ tư của Công ước bao gồm các Điều từ 16 đến 25. Phần này tập trung quy định về cơ chế bảo đảm thực thi ICESCR. Cơ chế này bao gồm việc báo cáo của quốc gia thành viên, vai trò của ECOSOC, CHR và các tổ chức chuyên môn của LHQ cũng như mối quan hệ điều phối trong bộ máy LHQ có liên quan đến Công ước.

Phần thứ năm của Công ước bao gồm các Điều từ 26 đến 31, quy định các vấn đề về thủ tục, cụ thể như việc ký kết, tham gia, thời điểm có hiệu lực, việc áp dụng trong các nước liên bang, việc sửa đổi, ngôn ngữ thể hiện của Công ước.

2.2. Bảo đảm các quyền con người về kinh tế


Xác định các quyền lợi của con người về kinh tế là tối quan trọng, đặc biệt là trong giai đoạn Việt Nam mở cửa thị trường, thúc đẩy phát triển kinh tế toàn diện vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Nhà nước đã không ngừng xây dựng và hoàn thiện các thiết chế bảo vệ quyền con người trong các lĩnh vực kinh tế. Ở góc độ khái quát, các quyền con người về kinh tế được Nhà nước đảm bảo thực hiện bao gồm:

(i) quyền được hưởng mức sống khả quan,

(ii) quyền tự do kinh doanh và được đối xử bình đẳng trong kinh doanh

và (iii) quyền sở hữu tài sản và hưởng lợi từ tài sản mà mình sở hữu.



a) Quyền được hưởng mức sống khả quan

Theo Điều 11 ICESCR, “các quốc gia hội viên kí kết Công ước này thừa nhận cho mọi người quyền được hưởng một mức sống khả quan cho bản thân và gia đình, đủ cơm ăn, áo mặc và nhà ở. Mức sống này phải được nâng cao liên tục. Các quốc gia hội viên kết ước sẽ ban hành những biện pháp thích nghi để quyền này được thực hiện.” Điều 25 của UDHR cũng quy định: “ai cũng có quyền được hưởng một mức sống khả quan về phương diện sức khỏe và an lạc cho bản thân và gia đình kể cả thức ăn, quần áo, nhà ở, y tế và những dịch vụ cần thiết; ai cũng có quyền được hưởng an sinh xã hội trong trường hợp thất nghiệp, đau ốm, tật nguyền, góa bụa, già yếu, hay thiếu phương kế sinh nhai do những hoàn cảnh ngoài ý muốn.”



Hướng tới mục tiêu “dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc” theo chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn mà một trong các mục tiêu mà các nhà cách mạng của Việt Nam đầu thế kỷ đã tích cực vận động. Sau khi đất nước được thành lập năm 1945, cùng với việc thiết lập một bộ máy hành chính để quản lý các hoạt động kinh tế, Việt Nam đã bắt đầu coi trọng việc nâng cao đời sống của người dân và từng bước ổn định nền kinh tế. Tuy nhiên, phải sau khi chiến tranh chấm dứt, hòa bình được lập lại thì Việt Nam mới thực sự chú trọng đến việc phát triển kinh tế, xã hội để trước mắt ổn định đời sống nhân dân sau chiến tranh và tiếp tục cải thiện, nâng cao hơn nữa chất lượng cuộc sống, đảm bảo các vấn đề an sinh và phúc lợi xã hội, giáo dục, y tế và văn hóa.

Cụm từ “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” lần đầu tiên xuất hiện trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX là một sự khẳng định chắc chắn về quyết tâm của Việt Nam trong việc phát triển kinh tế, xã hội để đảm bảo quyền lợi cho người dân. Đảm bảo quyền được hưởng mức sống khả quan, Việt Nam đã ban hành hàng loạt các quy định pháp luật liên quan đến nhiều lĩnh vực đời sống, kinh tế và xã hội, tạo ra các hành lang pháp lý thuận lợi để người dân được hưởng các quyền lợi này.

Ví dụ, ở lĩnh vực y tế và phúc lợi xã hội, Việt Nam ban hành Luật bảo vệ sức khỏe của người dân năm từ 1989, Luật bảo hiểm y tế năm 2008, Luật bảo hiểm xã hội năm 2006 để quy định về việc tham gia và hưởng các chế độ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội cho người dân.

Trên lĩnh vực thông tin, Việt Nam thực hiện kết nối internet với thế giới từ năm 1997 và nhanh chóng trở thành một trong 20 quốc gia hàng đầu thế giới có số lượng người sử dụng internet nhiều nhất. Các Luật báo chí, Luật xuất bản được ban hành nhằm cụ thể hóa các hoạt động cung cấp thông tin để đảm bảo cho người dân được tự do thông tin.

Trong lĩnh vực giáo dục, Việt Nam ban hành Luật giáo dục năm 2005 và rất nhiều quy định về phát triển giáo dục để đảm bảo nhu cầu học tập của nhân dân. Xác định gia đình là tế bào của xã hội, Việt Nam cũng ban hành hàng loạt các quy định về đảm bảo sự phát triển ổn định của gia đình, xóa bỏ ranh giới phân biệt giữa nam và nữ, nâng cao giá trị của con người, ví dụ: Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật phòng, chống bạo lực trong gia đình năm 2007, Luật bình đẳng giới năm 2006…

Như vậy, quyền được hưởng mức sống khả quan là quyền con người xứng đáng được hưởng ở bất kỳ quốc gia nào. Mức độ “khả quan” trong đời sống kinh tế của một người phụ thuộc vào tính ưu việt của chế độ mà anh ta đang sống. Mỗi con người ở mỗi quốc gia có mức sống khác biệt là do các điều kiện kinh tế - xã hội và chế độ chính trị của mỗi nước quy định, các nước Châu Âu và Hoa Kỳ có mức sống “khả quan” hơn so với các nước Châu Á, đến lượt mình, mức sống của công dân các nước “Châu Á” có thể còn “khả quan” hơn tại các nước Châu Phi. Tuy nhiên, ở bình diện chung, tất cả các quốc gia đều đang cố gắng hết sức để đảm bảo và phát triển hơn nữa mức sống khả quan của công dân mình và Việt Nam đương nhiên không phải là một ngoại lệ.



b) Quyền tự do kinh doanh và được đối xử bình đẳng trong kinh doanh

Ngay sau khi Việt Nam thực hiện công cuộc “Đổi mới” năm 1986, Nhà nước đã thực hiện một loạt chính sách để phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, có sự tham gia của nhiều thực thể khác nhau. Trong bối cảnh đó, quyền tự do kinh doanh được chú trọng để đảm bảo sự ổn định và phát triển kinh tế. Điều 57 Hiến pháp năm 1992 khẳng định ngắn gọn: “công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật.” Điều 16 Hiến pháp năm 1992 làm rõ hơn nữa mục đích của Nhà nước trong chính sách phát triển kinh tế để đảm bảo đời sống của người dân, cụ thể “mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu với thị trường thế giới. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế được sản xuất, kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm; cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật.”

Nguyên tắc tự do kinh doanh còn được cụ thể hóa tại Điều 50 BLDS, theo đó “quyền tự do kinh doanh của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Cá nhân có quyền lựa chọn hình thức, lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh, lập doanh nghiệp, tự do giao kết hợp đồng, thuê lao động và các quyền khác phù hợp với quy định của pháp luật.”

Phù hợp với mục tiêu tự do hóa và thúc đẩy kinh doanh hàng hóa nhiều thành phần ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992, Quốc Hội Việt Nam đã ban hành Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 (sửa đổi, bổ sung năm 1987, 1990, 1992), Luật đầu tư nước ngoài năm 1996 (sửa đổi, bổ sung năm 2000) để thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, mở rộng các quyền tự do kinh doanh cho nhiều chủ thể. Năm 1998, Việt Nam cũng ban hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi, bổ sung năm 2000, nay đã được thay thế bằng Luật đầu tư năm 2005) để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đầu tư trong nước.

Đối với tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp, Việt Nam đã ban hành Luật công ty năm 1992, Luật doanh nghiệp năm 1999 và Luật doanh nghiệp năm 2005 (sửa đổi bổ sung năm 2009, 2011 và 2013). Điều 8 LDN cho phép doanh nghiệp được “tự chủ kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh, đầu tư; chủ động mở rộng quy mô và ngành, nghề kinh doanh…” Không chỉ có vậy, doanh nghiệp cũng có quyền “lựa chọn hình thức, phương thức huy động vốn, phân bổ và sử dụng vốn”, “tự chủ quyết định các công việc kinh doanh và quan hệ nội bộ” (Điều 8 LDN) cũng một số quyền khác trong kinh doanh.

Cũng năm 2005, Việt Nam thông qua Luật thương mại và ghi nhận quyền tự do của các thương nhân trong hoạt động thương mại. Điều 11 của luật này ghi nhận: “Các bên có quyền tự do thoả thuận không trái với các quy định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ các quyền đó. Trong hoạt động thương mại, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được thực hiện hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào.”

Về quyền bình đẳng trong kinh doanh, có thể thấy được rằng trong hầu hết các bộ luật liên quan đến đầu tư, kinh doanh, thương mại và doanh nghiệp, Nhà nước đều có gắng tạo lập một sân chơi bình đẳng cho cộng đồng doanh nghiệp, dần dần xóa bỏ mọi rào cản kỹ thuật bảo hộ đầu tư trong nước, hướng tới một nền kinh tế cạnh tranh lành mạnh, trên cơ sở đó, phát huy tối đa quyền bình đẳng trong hoạt động kinh doanh. Chẳng hạn, Điều 1 Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 2000 quy định: “nhà nước bảo hộ, khuyến khích, đối xử bình đẳng và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội trên lãnh thổ Việt Nam theo pháp luật Việt Nam.” Điều 10 Luật thương mại năm 2005 cũng quy định về quyền bình đẳng trong hoạt động thương mại, cụ thể “thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động thương mại.”

Nếu như trước đây Việt Nam chia ra hai trường hợp đầu tư căn cứ vào nguồn gốc vốn đầu tư để ban hành hai đạo luật là Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài (áp dụng cho nhà đầu tư nước ngoài đầu tư dự án tại Việt Nam) và Luật khuyến khích đầu tư trong nước (áp dụng cho nhà đầu tư trong nước) thì kể từ năm 2005, để tạo ra một sân chơi bình đẳng không phân biệt thành phần kinh tế, Việt Nam đã ban hành Luật đầu tư năm 2005 để thay thế cho Luật khuyến khích đầu tư trong nước và Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây có thể nói là một nỗ lực rất lớn của Việt Nam trong việc chuẩn bị gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế WTO nhưng cũng là cơ sở để khẳng định việc Nhà nước chú trọng đến việc phát huy quyền bình đẳng trong kinh doanh của doanh nghiệp. Kể từ khi Luật đầu tư năm 2005 ra đời, các thành phần kinh tế (bất kể trong nước hay có vốn đầu tư nước ngoài) đều được đối xử bình đẳng mà không có sự phân biệt nào. Chính vì vậy, về chính sách đầu tư, Điều 4 Luật đầu tư năm 2005 quy định: “nhà nước đối xử bình đẳng trước pháp luật đối với các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư.”



c) Quyền sở hữu tài sản và hưởng lợi từ tài sản được sở hữu

Theo UDHR, “mọi người đều có quyền sở hữu tài sản của riêng mình hoặc tài sản sở hữu chung với người khác. Không ai bị tước đoạt tài sản một cách tùy tiện” (Điều 17). Quyền sở hữu tài sản được thể hiện lần đầu tiên trong Hiến pháp 1946, tại Điều 12, trong đó quy định: “quyền sở hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm.” Quy định này được nhắc lại trong Hiến pháp 1992: “Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế; bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hoá.

Các quy định tại Luật đầu tư năm 2005 cũng khẳng định việc nhà nước đảm bảo về tài sản của nhà đầu tư, của doanh nghiệp và không thực hiện quốc hữu hóa các tài sản cá nhân. Điều 4 Luật đầu tư năm 2005 quy định: “nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu tư; thừa nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài của các hoạt động đầu tư.” BLDS cũng dành hẳn một Phần để quy định về tài sản và quyền sở hữu tài sản, cụ thể tại các Chương X (những quy định chung về tài sản), Chương XI (các loại tài sản), Chương XII (nội dung quyền sở hữu), Chương XIII (các hình thức sở hữu), Chương XIV (xác lập, chấm dứt quyền sở hữu) và Chương XV (những quy định khác về quyền sở hữu). Theo quy định tại BLDS thì về nguyên tắc “chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản” (Điều 165) và “quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân và chủ thể khác được pháp luật công nhận và bảo vệ. Không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt quyền sở hữu đối với tài sản của mình” (Điều 169).

Ở góc độ khái quát, có thể thấy quyền sở hữu đối với tài sản của công dân bao gồm:

(i) quyền chiếm hữu,

(ii) quyền sử dụng

và (iii) quyền định đoạt đối với tài sản.

Theo đó, quyền chiếm hữu: là quyền nắm giữ, quản lý tài sản (Điều 182 BLDS). Việc nắm giữ và quản lý ở đây bao hàm cả việc thực hiện quyền sử dụng (dùng và khai thác tài sản) hoặc quyền không sử dụng tài sản (quyền cất giữ tài sản). Quyền sử dụng tài sản: là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản (Điều 192 BLDS). Như vậy, với tư cách là một trong những nội dung của quyền sở hữu, quyền sử dụng bao gồm quyền khai thác công dụng của tài sản và quyền thu nhận hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Theo đó, “khai thác công dụng” nghĩa là chủ sở hữu tự mình thụ hưởng các lợi ích vật chất từ một tài sản. “Hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản” là việc chủ sở hữu được thụ hưởng những kết quả từ việc khai thác sự sinh lợi của tài sản. Chủ sở hữu có quyền quyết định phương thức sử dụng tài sản cũng như cách thức thu hoa lợi, lợi tức (trực tiếp khai thác hoặc để cho người khác khai thác thông qua hợp đồng cho thuê hoặc cho mượn). Tài sản có thể được khai thác trực tiếp bằng chính chủ sở hữu hoặc bởi một người khác không phải là chủ sở hữu. Bên cạnh đó, Điều 193 BLDS có quy định “trong trường hợp chủ sở hữu thực hiện quyền sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình thì chủ sở hữu được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản theo ý chí của mình nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”. Quyền định đoạt tài sản: là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó (Điều 195 BLDS). Chủ sở hữu có quyền quyết định số phận của tài sản về phương diện vật chất (tiêu dùng, tiêu hủy, chuyển hóa thành một hình thức tồn tại khác...) hoặc về phương diện pháp lý (chuyển nhượng, tặng cho, trao đổi, góp vốn kinh doanh...). Cũng giống như quyền sử dụng, quyền định đoạt của chủ sở hữu tài sản có thể do chính chủ sở hữu hoặc người khác thực hiện (Điều 198 BLDS). Mọi trường hợp định đoạt tài sản ngoài khuôn khổ giới hạn của quyền tự định đoạt của chủ sở hữu cũng như định đoạt tài sản thuộc sở hữu của người khác đều bị xem là giao dịch vô hiệu.


2.3. Bảo đảm các quyền con người về văn hóa, xã hội


Bên cạnh việc quy định các quyền con người về kinh tế, các chế định về quyền con người trong lĩnh vực văn hóa, xã hội là một phần chính của ICESCR. Phù hợp với các quy định của ICESCR, pháp luật Việt Nam cũng cụ thể hóa các chế định pháp lý để đảm bảo quyền con người về văn hóa, xã hội qua hàng loạt bộ luật như Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, Luật giáo dục năm 2005, Luật thanh niên năm 2005, Luật dạy nghề năm 2005, Luật trợ giúp pháp lý năm 2006, BLLĐ năm 2012, Luật bình đẳng giới năm 2006… Ở góc độ khái quát, bảo đảm quyền con người về văn hóa xã hội bao gồm việc bảo đảm quyền tự do về việc làm, quyền được học tập và trau dồi văn hóa, chuyên môn, quyền được chăm sóc sức khỏe vì lợi ích của người dân và các quyền được bảo trợ xã hội.

a) Quyền tự do về việc làm

Theo quy định tại Điều 6 ICESCR, “các quốc gia hội viên ký kết Công ước này thừa nhận cho mọi người quyền làm việc và cam kết sẽ ban hành những biện pháp để bảo đảm quyền này. Quyền làm việc bao gồm quyền có cơ hội sinh sống nhờ công việc, quyền tự do nhận việc hay lựa chọn việc làm. Các quốc gia hội viên ký kết Công ước này sẽ ban hành những biện pháp để thực thi đầy đủ quyền làm việc, như những chương trình huấn luyện, hướng dẫn kỹ thuật và hướng nghiệp, những chính sách và kỹ thuật để phát triển đều đặn về kinh tế, xã hội và văn hoá, cùng sự toàn dụng nhân công vào việc sản xuất trong điều kiện những quyền tự do chính trị và kinh tế căn bản của con người được bảo đảm.Tương ứng với quy định của ICESCR, Điều 62 Hiến pháp năm 1992 của Việt Nam quy định: “lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân.”



Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 1992, Điều 49 BLDS quy định: “cá nhân có quyền lao động. Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử…” Các quy định liên quan đến quyền tự do về việc tại Hiến pháp năm 1992 và BLDS tiếp tục được khẳng định tại BLLĐ năm 2012. Theo Điều 10 của BLLĐ thì người lao động “được làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và ở bất kỳ nơi nào mà pháp luật không cấm” và được “trực tiếp liên hệ với người sử dụng lao động hoặc thông qua tổ chức dịch vụ việc làm để tìm việc làm theo nguyện vọng, khả năng, trình độ nghề nghiệp và sức khỏe của mình.”

Liên quan đến các quyền cụ thể của người lao động trong tự do lựa chọn việc làm, Điều 5 BLLĐ năm 2012 quy định người lao động được tự do lựa chọn việc làm, hưởng lương phù hợp với công việc, được bảo hộ lao động, được đảm bảo vệ sinh, an toàn lao động, nghỉ phép, nghỉ lễ, tết, nghỉ việc riêng có hưởng lương, thỏa thuận nghỉ không lương với chủ sử dụng lao động. Cũng theo quy định tại BLLĐ thì việc giải quyết việc làm là trách nhiệm chung của Nhà nước; công dân được đảm bảo về việc làm. Cụ thể Điều 9 BLLĐ quy định: “Nhà nước, người sử dụng lao động và xã hội có trách nhiệm tham gia giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm.” Nhà nước cũng xác định chỉ tiêu việc làm trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong khoảng thời gian 05 một lần để đảm bảo quyền làm việc của nhân dân.

Ngoài các quy định về trách nhiệm đảm bảo việc làm của Nhà nước và xã hội, BLLĐ còn có quy định về việc khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh để tạo thêm việc làm cho người lao động, hỗ trợ người lao động tìm kiếm và mở rộng thị trường lao động ra nước ngoài, thành lập quỹ quốc gia về việc làm, hỗ trợ cho vay ưu đãi tạo việc làm và thực hiện các hoạt động phụ trợ khác để đảm bảo tốt nhất quyền làm việc của người lao động. Không chỉ ban hành BLLĐ để đảm bảo quyền tự do về việc làm, Quốc Hội còn ban hành một số luật liên quan để cụ thể hóa cơ chế đảm bảo các quyền này như Luật dạy nghề năm 2006, Luật đưa người Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài theo hợp đồng lao động năm 2006…



b) Quyền học tập

Học tập là nhu cầu căn bản và thiết yếu của công dân ở mỗi quốc gia. Do vậy, vấn đề này được tất cả các quốc gia quan tâm và có cơ chế đảm bảo thực hiện một cách đầy đủ và hiệu quả. Theo Điều 13 của ICESCR, các quốc gia hội viên ký kết Công ước này thừa nhận cho mọi người quyền được hưởng giáo dục. Giáo dục phải nhằm phát huy đầy đủ nhân cách và nhân phẩm, tăng cường sự tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản; cho mọi người được thực sự tham gia sinh hoạt trong một xã hội tự do, đề cao sự thông cảm, bao dung và hữu nghị giữa các quốc gia, các cộng đồng sắc tộc, chủng tộc hay tôn giáo, và yểm trợ các hoạt động của LHQ trong việc duy trì hoà bình Giáo dục tiểu học phải có tính cách cưỡng bách và miễn phí cho tất cả mọi người. Giáo dục trung học kể cả các ngành phổ thông, kỹ thuật và hướng nghiệp phải được phổ cập cho tất cả mọi người bằng những phương pháp thích nghi và đặc biệt phải tiến dần đến miễn phí. Giáo dục đại học phải được phổ cập bình đẳng cho mọi sinh viên bằng những phương pháp thích nghi, căn cứ vào khả năng, và đặc biệt phải tiến dần đến miễn phí. Phù hợp với ICESCR, tại Việt Nam, Điều 59 Hiến pháp năm 1992 quy định: “học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân. Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí. Công dân có quyền học văn hoá và học nghề bằng nhiều hình thức. Học sinh có năng khiếu được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập để phát triển tài năng. Nhà nước có chính sách học phí, học bổng. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyến tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt kho khăn khác được học văn hoá và học nghề phù hợp.”

Quy định kể trên của Hiến pháp 1992 được cụ thể hóa trong Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991, Luật giáo dục năm 2005 và Luật dạy nghề năm 2006. Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991 xác định, giáo dục tiểu học ở Việt Nam là phổ cập, bắt buộc và miễn phí. Luật này cũng bao gồm nhiều quy định cụ thể nhằm bảo đảm quyền được giáo dục tiểu học miễn phí cho tất cả mọi trẻ em ở Việt Nam. Theo Điều 10 Luật giáo dục năm 2005, mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nam nữ, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ hội học tập. Điều này cũng quy định trách nhiệm của nhà nước và cộng đồng trong các vấn đề như: thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện để ai cũng được học hành; giúp đỡ để người nghèo được học tập, tạo điều kiện để những người có năng khiếu phát triển tài năng; ưu tiên, tạo điều kiện cho con em dân tộc thiểu số, con em gia đình ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi, người tàn tật, khuyết tật và đối tượng được hưởng chính sách xã hội khác thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập của mình. Điều 11 Luật này quy định, cùng với giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở là cấp học phổ cập; nhà nước quyết định kế hoạch phổ cập giáo dục, bảo đảm các điều kiện để thực hiện phổ cập giáo dục trong cả nước.

Để thực hiện các quy định của Luật giáo dục năm 2005, các cơ quan nhà nước đã ban hành một số văn bản hướng dẫn trong đó quan trọng nhất là: các Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật giáo dục; các Nghị định của Chính phủ về về chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục công tác ở trường chuyên biệt, ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; Nghị định của Chính phủ về thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở... Xuất phát từ quan điểm coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 và Kế hoạch hành động quốc gia giáo dục cho mọi người giai đoạn 2003-2015,v.v.., nhằm mục tiêu tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và tạo cơ hội học tập ngày càng tốt hơn cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là ở các vùng còn nhiều khó khăn.



c) Quyền được chăm sóc sức khỏe

Tương ứng với nội dung của Điều 12 ICESCR, Điều 61 Hiến pháp năm 1992 quy định: “công dân có quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khoẻ. Nhà nước quy định chế độ viện phí, chế độ miễn, giảm viện phí.” Quy định kể trên của Hiến pháp 1992 được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp luật, trong đó có Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989. Điều 1 Luật này nêu rõ, công dân có quyền được bảo vệ sức khoẻ, nghỉ ngơi, giải trí, rèn luyện thân thể; được bảo đảm vệ sinh trong lao động, vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh môi trường sống và được phục vụ về chuyên môn y tế. Theo Điều 23 Luật này, mọi người khi ốm đau, bệnh tật, bị tai nạn được khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh ở nơi công dân cư trú, lao động, học tập. Người bệnh được chọn thầy thuốc hoặc lương y, chọn cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và ra nước ngoài để khám bệnh, chữa bệnh. Trong trường hợp cấp cứu, người bệnh được cấp cứu tại bất kỳ cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nào.

Cũng liên quan đến hoạt động chăm sóc sức khỏe và quyền được chăm sóc sức khỏe, Quốc Hội đã thông qua Luật bảo hiểm y tế năm 2008, Luật hoạt động chữ thập đỏ năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt các Chiến lược quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản, dinh dưỡng, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân trong từng giai đoạn; Chiến lược dân số và mục tiêu quốc gia dân số và kế hoạch hóa gia đình, Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đều được Chính phủ quan tâm xây dựng và đề ra trong từng giai đoạn. Không chỉ có vậy, Chính phủ cũng ban hành một số quyết định về việc khám, chữa bệnh cho người nghèo, tạo điều kiện cho mọi công dân đều có quyền được chăm sóc sức khỏe, v.v…

d) Quyền được bảo trợ xã hội

Theo Điều 9 ICESCR, “các quốc gia hội viên ký kết Công ước này thừa nhận quyền của mọi người được hưởng an sinh xã hội và bảo hiểm xã hội.” Ở góc độ pháp luật trong nước, BLLĐ năm 2012 của Việt Nam đề cập vấn đề bảo hiểm xã hội trong một chương riêng (Chương XII). Năm 2006, Quốc Hội thông qua Luật bảo hiểm nhằm từng bước mở rộng và nâng cao việc bảo đảm vật chất, góp phần ổn định đời sống cho người lao động và gia đình trong các trường hợp người lao động ốm đau, thai sản, hết tuổi lao động, chết, bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, gặp rủi ro hoặc các khó khăn khác. Có hai loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc hoặc tự nguyện, được áp dụng đối với từng loại đối tượng và từng loại doanh nghiệp để bảo đảm cho người lao động được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội thích hợp. Theo Điều 2 của Luật bảo hiểm xã hội, loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc được áp dụng đối với những doanh nghiệp sử dụng từ 10 người lao động trở lên. Tại những doanh nghiệp này, người sử dụng lao động, người lao động phải đóng bảo hiểm xã hội để từ đó người lao động được hưởng các chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hưu trí và tử tuất.

Người lao động làm việc ở những nơi sử dụng dưới 10 người lao động, hoặc làm những công việc thời hạn dưới ba tháng, theo mùa vụ, hoặc làm các công việc có tính chất tạm thời khác thì các khoản bảo hiểm xã hội được tính vào tiền lương do người sử dụng lao động trả để người lao động tham gia bảo hiểm xã hội theo loại hình tự nguyện hoặc tự lo liệu về bảo hiểm. Theo quy định hiện hành, quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành từ các nguồn đóng góp của:

(a) Người sử dụng lao động đóng;

(b) Người lao động;

(c) Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm

và (d) Các nguồn khác. Hiện tại ở Việt Nam, chế độ bảo hiểm xã hội bao gồm bảo hiểm xã hội bắt buộc (áp dụng cho người làm công ăn lương khu vực Nhà nước, khu vực tư nhân), bảo hiểm xã hội tự nguyện (áp dụng cho mọi tầng lớp nhân dân ngoài đối tượng của bảo hiểm bắt buộc) và bảo hiểm thất nghiệp.

Song song với việc quy định về các chế độ bảo hiểm xã hội cho người dân, Luật bảo hiểm xã hội năm 2006 còn có các chế định về bảo hiểm thất nghiệp để đảm bảo rằng ngay cả khi người lao động bị mất việc hoặc không còn việc làm, vẫn có thể được hưởng một số quyền lợi và trợ giúp cần thiết trong thời gian tìm công việc mới. Quy định về bảo hiểm thất nghiệp cũng tương tự như quy định về bảo hiểm xã hội, theo đó, các doanh nghiệp có trên 10 người lao động phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp bắt buộc. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp được hình thành từ nguồn đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động với sự bù đắp một phần từ ngân sách nhà nước. Khi người lao động bị thất nghiệp, tùy vào khoảng thời gian mà người này tham gia bảo hiểm thất nghiệp, cơ quan nhà nước sẽ chi trả một phần tiền trợ cấp để đảm bảo người lao động được trợ giúp trong lúc khó khăn. Ngoài ra, Điều 83 Luật bảo hiểm xã hội còn quy định “người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp được hỗ trợ học nghề với thời gian không quá sáu tháng. Mức hỗ trợ bằng mức chi phí học nghề ngắn hạn theo quy định của pháp luật về dạy nghề”.




tải về 0.65 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương