HỘI ĐỒng phối hợp phổ biếN, giáo dục pháp luật trung ưƠng đẶc san tuyên truyền pháp luật số: 06/2013 chủ ĐỀ quyền con ngưỜI


II. CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT CỦA VIỆT NAM VỀ QUYỀN CON NGƯỜI THỂ HIỆN QUA CÁC BẢN HIẾN PHÁP



tải về 0.65 Mb.
trang3/7
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích0.65 Mb.
#13343
1   2   3   4   5   6   7

II. CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT CỦA VIỆT NAM VỀ QUYỀN CON NGƯỜI THỂ HIỆN QUA CÁC BẢN HIẾN PHÁP


Tư tưởng về quyền con người đã được thể hiện khá sớm tại Việt Nam, đặc biệt, thể hiện thành văn rõ rệt ngay từ khi đất nước giành được độc lập từ tay thực dân Pháp sau cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại của dân tộc. Ngày 02 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình lịch sử, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước VNDCCH. Trong bản Tuyên ngôn độc lập sâu sắc ấy, với việc nhắc lại Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Hoa Kỳ, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh “tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”

Tiếp nối tinh thần của Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Hồ Chí Minh, cha đẻ của Hiến pháp nước VNDCCH năm 1946, lại một lần nữa thể hiện tinh thần nhân văn sâu sắc qua việc ghi nhận các giá trị con người, các quyền cơ bản về dân chủ và dân sinh, các quyền tự do cá nhân, tự do tín ngưỡng ở bản hiến pháp đầu tiên của dân tộc. Xuyên suốt chiều dài lịch sử, trải qua nhiều thăng trầm và biến đổi của hoàn cảnh địa – chính trị, quyền con người vẫn luôn được thể hiện sâu sắc qua các bản hiến pháp tiếp theo của Việt Nam từ Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đến các bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 (sửa đổi và bổ sung năm 2001).


1. Quyền con người trong Hiến pháp năm 1946


Hiến pháp năm 1946 của nước VNDCCH (“Hiến pháp 1946”) là một bản hiến pháp khá ngắn gọn, súc tích nhưng được đánh giá là khá sâu sắc và toàn diện, ở cả nội dung lẫn hình thức biểu đạt. Mặc dù chỉ gồm 7 chương và 70 điều, Hiến pháp vẫn dành hẳn một chương riêng (Chương II) để nói về các quyền cơ bản của con người, xác định sự bình đẳng về mọi phương diện của tất cả công dân Việt Nam trước pháp luật.

1.1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp 1946

Trong phiên họp đầu tiên của Chính Phủ ngày ngày 03 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính Phủ mà một trong sáu nhiệm vụ cấp bách đó là xây dựng và ban hành bản Hiến pháp. Hồ Chí Minh nói: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một bản Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu.22

Ngày 20 tháng 9 năm 1945, Chính phủ lâm thời ra Sắc lệnh 34 thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm bảy người do chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Tháng 11 năm 1945, Ban dự thảo đã hoàn thành công việc và bản dự thảo được công bố cho toàn dân thảo luận và được toàn dân hăng hái tham gia đóng góp ý kiến. Ngày 06 tháng 01 năm 1946 nước ta tiến hành tổng tuyển cử bầu Quốc Hội và trên cơ sở đó Quốc Hội đã bầu Ủy ban dự thảo Hiến pháp với 11 thành viên do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Ngày 02 tháng 03 năm 1946, dự thảo Hiến pháp sau khi lấy ý kiến đóng góp toàn dân đã được Quốc Hội chuyển sang Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Quốc Hội bầu để tổng kết.

Ngày 09 tháng 11 năm 1946, trong ngày làm việc thứ 12 kỳ họp thứ 2 Quốc hội Khoá I, Quốc Hội đã thông qua bản hiến pháp đầu tiên của nước VNDCCH với 240 phiếu thuận và 02 phiếu chống. Ngày 19 tháng 12 năm 1946, mười hai ngày sau khi Quốc Hội thông qua hiến pháp, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Do hoàn cảnh chiến tranh mà Hiến pháp 1946 không được chính thức công bố, việc tổ chức tổng tuyển cử bầu Nghị viện nhân dân cũng không có điều kiện thực hiện. Tuy nhiên, việc điều hành Nhà nước vẫn được thực hiện trên tinh thần Hiến pháp 1946.



1.2. Sự ghi nhận quyền con người trong Hiến pháp 1946

Ngay ở phần Lời mở đầu, Hiến pháp 1946 đã khẳng định “cuộc Cách mạng tháng Tám đã giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hoà.” Như vậy, có thể thấy rằng, Hiến pháp 1946, ngay ở phần mở đầu, đã khẳng định đanh thép về bản chất chế độ: đó là một chế độ do nhân dân làm chủ, mà một chế độ do nhân dân làm chủ, không thể nào hơn là một chế độ tôn trọng các giá trị quyền con người. Trong ba nguyên tắc cơ bản, vốn được xác định để xây dựng Hiến pháp 1946, nguyên tắc bảo đảm các quyền tự do dân chủ, một dạng quyền con người mở rộng được thực hiện triệt để đã biến Hiến pháp 1946 thực sự là một bản Hiến pháp pháp quyền và mang tính thời đại. Ba nguyên tắc đó là: (1) Đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo; (2) Đảm bảo các quyền tự do dân chủ và (3) Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.

Tinh thần cơ bản nhất của bản Hiến pháp 1946 là “toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân.” Do đó, tinh thần nhà nước “của dân, do dân và vì dân” thể hiện đậm nét trong Hiến pháp 1946. Mặc dù là bản hiến pháp đầu tiên của một nhà nước dân chủ cộng hòa mới được hình thành nhưng Hiến pháp 1946 đã cụ thể hoá các quyền con người mà Tuyên ngôn độc lập đã long trọng xác nhận. Nội dung Hiến pháp 1946 được xuyên suốt bởi quan điểm như đã được ghi ở Điều 1: "Nước VN là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, trai gái, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo". Như vậy đặc điểm dễ nhận thấy ở đây là ngay từ khi ra đời, nhà nước cách mạng Việt Nam đã là một nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đó là nhà nước mà toàn bộ hoạt động của nó chỉ hướng tới mục đích duy nhất là xác lập, bảo vệ và không ngừng mở rộng quyền làm người cho công dân Việt Nam.
Như đã trình bày ở trên, Hiến pháp 1946 dành hẳn Chương II (cụ thể là các chế định tại Mục B và Mục C) để đề cập đến quyền lợi của công dân, trong đó các các quyền bình đẳng về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa (Điều 6); các quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật (Điều 7); các quyền bình đẳng về quyền lợi (Điều 8); bình đẳng nam – nữ (bình đẳng giới) (Điều 9); các quyền tự do cơ bản của con người như tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú đi lại và ra nước ngoài (Điều 10). Ngoài các chế định về các quyền bình đẳng và tự do của công dân, Hiến pháp 1946 cũng thể hiện rõ nét quyền dân sự của con người trong các chế định về tự do thân thể, quyền bất khả xâm phạm về thư tín và về nhà ở (Điều 11). Điều đặc biệt hơn nữa là ngay sau khi nhà nước thực hiện một số hoạt động tịch thu, quốc hữu hóa một số tài sản để phục vụ hoạt động kinh tế, Hiến pháp 1946 đã ngay lập tức tái khẳng định các quyền tư hữu về tài sản của công dân (Điều 12) và khẳng định quyền lợi của giới tri thức được đảm bảo (Điều 13).

Đối với các đối tượng có điều kiện sống và sinh hoạt khó khăn, đối tượng là trẻ em, Hiến pháp 1946 cũng thể hiện quan điểm nhân sinh rõ rệt khi có quy định cụ thể về việc giúp đỡ người già cả và bệnh tật, săn sóc và giáo dưỡng trẻ em (Điều 14). Không chỉ có vậy, Hiến pháp 1946 còn quan tâm đến cả lĩnh vực giáo dục bằng việc đảm bảo giáo dục sơ học (cấp tiểu học), giúp đỡ các học trò nghèo và mở thêm trường lớp đảm bảo việc học tập của công dân (Điều 15). Tư tưởng về quyền con người trong Hiến pháp 1946 thậm chí còn vượt xa hơn cả các chế định đơn thuần áp dụng lên các công dân trong nước để vươn tới các giá trị đạo đức toàn cầu. Cụ thể, Điều 16 Hiến pháp được dành để quy định về việc đảm bảo cư trú trên lãnh thổ Việt Nam cho những người ngoại quốc đấu tranh cho dân chủ và tự do.

Ngoài các giá trị cơ bản về quyền con người đã được long trọng khẳng định, được tạo điều kiện và được đảm bảo được thực hiện, Hiến pháp 1946 cũng có hàng loạt các quy định khá tiến bộ ở thời điểm bấy giờ về quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân (Điều 18); quyền bãi miễn đại biểu nhân dân mà mình bầu ra (Điều 20) và quyền phúc quyết về Hiến pháp và các vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia (Điều 22). Như vậy, ngoài các chế định đảm bảo quyền con người, Hiến pháp 1946 đã đi xa thêm một bước nước nữa, đó là coi công dân là ông chủ của nhà nước, tôn trọng triệt để các quyền lợi của nhân dân, đưa nhân dân vào đời sống chính trị của đất nước và quyết định các vấn đề hệ trọng của Nhà nước.

Như vậy, chỉ với hơn mười điều khoản (nằm rải rác từ Điều 6 đến Điều 22 các Mục B và C của Chương II), Hiến Pháp 1946 đã mô tả sinh động một thể chế dân chủ sơ khai của một nhà nước khao khát tự do sau hàng thế kỷ tăm tối của chiến tranh xâm lược. Các giá trị về quyền con người, vì thế, được phát huy cao độ và trở thành kim chỉ nam cho toàn bộ định hướng xây dựng nền pháp chế còn non trẻ của Việt Nam sau độc lập. Cùng với thời gian, Hiến pháp 1946 được ghi nhận như một văn bản pháp quy cao nhất của Việt Nam chính thức ghi nhận quyền con người như một phạm trù hiến định trong việc tổ chức, thực hiện và đảm bảo các hoạt động của công dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Hiến pháp năm 1946 là Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà..., dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do..., phụ nữ Việt Nam đã được ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền cá nhân của công dân... 23



1.3. Các quy định cụ thể về quyền con người trong Hiến pháp 1946

Chương II - Quyền và nghĩa vụ của công dân, Hiến pháp 1946



Điều thứ 6

Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá.

Điều thứ 7

Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình.

Điều thứ 8

Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung.

Điều thứ 9

Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện.

Điều thứ 10

Công dân Việt Nam có quyền:

- Tự do ngôn luận.

- Tự do xuất bản.

- Tự do tổ chức và hội họp.

- Tự do tín ngưỡng.

- Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài.

Điều thứ 11

Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam.

Nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật.

Điều thứ 12

Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm.

Điều thứ 13

Quyền lợi các giới cần lao trí thức và chân tay được bảo đảm.

Điều thứ 14

Những người công dân già cả hoặc tàn tật không làm được việc thì được giúp đỡ. Trẻ con được săn sóc về mặt giáo dưỡng.

Điều thứ 15

Nền sơ học cưỡng bách và không học phí. ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình.

Học trò nghèo được Chính phủ giúp.

Trường tư được mở tự do và phải dạy theo chương trình Nhà nước.

Điều thứ 16

Những người ngoại quốc tranh đấu cho dân chủ và tự do mà phải trốn tránh thì được trú ngụ trên đất Việt Nam.

Điều thứ 17

Chế độ bầu cử là phổ thông đầu phiếu. Bỏ phiếu phải tự do, trực tiếp và kín.

Điều thứ 18

Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, đều có quyền bầu cử, trừ những người mất trí và những người mất công quyền.

Người ứng cử phải là người có quyền bầu cử, phải ít ra là 21 tuổi, và phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.

Công dân tại ngũ cũng có quyền bầu cử và ứng cử.

Điều thứ 19

Cách thức tuyển cử sẽ do luật định.

Điều thứ 20

Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra, theo điều thứ 41 và 61.

Điều thứ 21

Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia, theo điều thứ 32 và 70.

2. Quyền con người trong Hiến pháp năm 1959


Tiếp theo Hiến pháp 1946, bản hiến pháp của nước VNDCCH thông qua ngày 31 tháng 12 năm 1959 (“Hiến pháp 1959”) đánh dấu sự tiếp nối việc ghi nhận các giá trị quyền con người trong đạo luật gốc của nước ta, thể hiện quan điểm của Nhà nước trong việc tiếp tục chú trọng và phát huy các giá trị con người.

2.1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp 1959

Cần nhận thấy rằng nếu như Hiến pháp 1946 thể hiện sâu sắc các giá trị dân chủ, đặc biệt là sau khi dân tộc ta giành được độc lập, thoát khỏi ách nô lệ của thực dân Pháp thì Hiến pháp 1959 ghi nhận thời điểm mới, khi miền Bắc bước vào thời kỳ cải cách ruộng đất, đẩy mạnh sản xuất, phấn đấu xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục đấu tranh chống đế quốc. Chính vì vậy, ở Phần mở đầu, Hiến pháp 1959 ghi nhận hoàn cảnh lịch sử của dân tộc và thể hiện bản chất “Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo.” Hiến pháp mới quy định chế độ chính trị, kinh tế và xã hội của nước ta, quan hệ bình đẳng giúp nhau giữa các dân tộc trong nước, bảo đảm đưa miền Bắc nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, xây dựng miền Bắc vững mạnh làm cơ sở cho cuộc đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà. Do đó, bản hiến pháp này tập trung vào huy động nguồn lực to lớn của dân tộc, bên cạnh ghi nhận các giá trị cốt lõi của quyền con người.



2.2. Sự ghi nhận quyền con người trong Hiến pháp 1959

Ngay ở Điều 3, Hiến pháp 1959 đã khẳng định “các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Nhà nước có nhiệm vụ giữ gìn và phát triển sự đoàn kết giữa các dân tộc. Mọi hành vi khinh miệt, áp bức, chia rẽ dân tộc đều bị nghiêm cấm.” Ở Điều 4, Hiến pháp 1959 ghi nhận “tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thống qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.” Như vậy, ngay ở những quy định đầu tiên, có thể nhận ra ngay rằng Hiến pháp 1959 đã thể hiện quan điểm hết sức rõ rệt về các giá trị quyền con người và ghi nhận quyền lực của nhân dân trong quản lý nhà nước và xã hội.

So với Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 không chỉ thể hiện có sự gia tăng về lượng (có tới 21 Điều nói về quyền con người so với 18 Điều trong Hiến pháp 1946) mà còn có sự gia tăng về chất (làm rõ các chế định về quyền con người một cách cụ thể). Vẫn theo mạch kế thừa và phát huy tinh thần của Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 cũng dành hẳn một chương, cụ thể là Chương III, để quy định về quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Một điều đáng tiếc, như các học giả đã nhận định, là Hiến pháp 1959 đề cập đến “quyền công dân” thay vì quy định “quyền con người”. Thực tế thì quyền công dân là một phạm trù nhỏ hẹp nếu đem so chiếu với phạm trù quyền con người, một phạm trù rộng lớn bao hàm cả quyền công dân. Bên cạnh đó, nếu như Hiến pháp 1946 khẳng định “quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm” thì Hiến pháp 1959 đã hạn chế quy định này của công dân bằng cách quy định “Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân” (Điều 19). Theo đó, quyền tư hữu về tài sản của công dân không còn là quyền đương nhiên được Nhà nước bảo đảm mà phải “chiếu theo pháp luật” để được bảo hộ.

Mặc dù vậy, vấn đề cốt lõi là việc ghi nhận các quyền cơ bản của con người thì Hiến pháp 1959 đã làm khá tốt. Ngoài việc tiếp nối và phát huy các giá trị của Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 còn nâng cao và củng cố các quyền lợi cơ bản của công dân, đồng thời bổ sung thêm một số quyền con người khá phổ biến theo các tiêu chí toàn cầu. Trước hết, Hiến pháp 1959 quy định mọi người đều bình đẳng trước pháp luật (Điều 22) và công dân có quyền bầu cử, ứng cử mà không có bất kỳ phân biệt nào (Điều 23). Đây thực tế là các quy định đã được cụ thể hóa trong hiến pháp cũ. Tuy nhiên, ở các điều tiếp theo, Hiến pháp 1959 cụ thể hóa quyền con người một cách chi tiết hơn so với bản hiến pháp cũ, chỉ quy định một cách khái quát. Cụ thể, tại Điều 24, Hiến pháp 1959 khẳng định phụ nữ Việt Nam được bình đẳng với nam giới. Đây là quy định kế thừa của Hiến pháp 1946 nhưng được sửa đổi, bổ sung một cách khá chi tiết: “Phụ nữ nước VNDCCH có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình. Cùng việc làm như nhau, phụ nữ được hưởng lương ngang với nam giới. Nhà nước bảo đảm cho phụ nữ công nhân và phụ nữ viên chức được nghỉ trước và sau khi đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương. Nhà nước bảo hộ quyền lợi của người mẹ và của trẻ em, bảo đảm phát triển các nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ và vườn trẻ. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình.” Như vậy, có thể thấy, trong cùng một chế định về quyền bình đẳng giới, Hiến pháp 1959 đã làm tốt hơn Hiến pháp 1946 khi chi tiết hóa các quyền lợi của phụ nữ trong hầu hết các lĩnh vực văn hóa, xã hội, kinh tế và chính trị, đồng thời quy định chế độ bảo hộ bà mẹ trẻ em, hôn nhân và gia đình. Nếu xét đến hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam lúc bấy giờ, khi miền Bắc đang gồng mình cho cơn bão cải cách điền địa, đang vật lộn để khôi phục và phát triển kinh tế, miền Nam còn đang đối mặt với cuộc chiến ác liệt thì việc quan tâm đến quyền lợi của phụ nữ trên tất cả các phương diện đời sống xã hội là một điểm nhấn tích cực rất đáng trân trọng.

Đối với các quyền cơ bản khác của con người mà Hiến pháp 1946 ghi nhận như tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, Hiến pháp 1959 không chỉ tiếp thu và kế thừa triệt để các quy định này mà còn ghi nhận các quyền đó, cũng theo hướng rất cụ thể và chi tiết. Điều 25 Hiến pháp 1959 quy định “công dân nước VNDCCH có các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình. Nhà nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó.” Điều đặc biệt là Hiến pháp 1959 ghi nhận thêm quyền lập hội và quyền biểu tình, các quyền căn bản nhất của con người ở một quốc gia dân chủ. Đây thực sự là điểm nổi bất rất đáng ghi nhận của Hiến pháp 1959. Song song với đó, quyền tự do tín ngưỡng của công dân được tách làm một chế định riêng tại Điều 26, cụ thể “công dân VNDCCH có các quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.” Bên cạnh đó, Hiến pháp 1959 còn quy định về quyền bất khả xâm phạm về thân thể được (Điều 27), quyền đảm bảo nhà ở, giữ bí mật về thư tín, tự do cư trú và đi lại (Điều 28); quyền được giúp đỡ về mặt vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động (Điều 32).

Ngoài việc kế thừa và phát huy các giá trị tư tưởng về quyền con người trong Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 cũng có thêm một số chế định về quyền con người ở một số lĩnh vực. Ví dụ, tại Điều 29, Hiến pháp 1959 quy định công dân có quyền khiếu nại, tố cáo và được bồi thường nếu quyền lợi bị vi phạm. Một trong các quyền quan trọng nhất của con người, bên cạnh các quyền lợi cơ bản, chính là “tố quyền” – tức là quyền tố cáo các hành vi vi phạm, các hành vi có thể xảy ra hoặc đã xảy ra làm ảnh hưởng đến quyền lợi của của người bị vi phạm. Đây có thể nói là điểm tiến bộ của Hiến pháp 1959 so với Hiến pháp 1946.

Ở các điều 31, 32 và 33, Hiến pháp 1959 quy định hàng loạt các chế định về quyền được làm việc, quyền được học tập và quyền được nghỉ ngơi của công dân. Đây là các điểm mới so với bản hiến pháp cũ. Không chỉ có vậy, quyền con người còn được mở rộng ra các lĩnh vực nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật và tiến hành các hoạt động văn hóa (Điều 34). Một điểm nữa rất đáng chú ý của Hiến pháp 1959 là ngoài việc giữ nguyên quy định của hiến pháp cũ về việc đảm bảo quyền trú ngụ của những người nước ngoài đấu tranh cho tự do, chính nghĩa, cho hòa bình và sự nghiệp khoa học mà bị bức hại (Điều 38), thì bản hiến pháp lần này còn có thêm quy định về “bảo hộ quyền lợi chính đáng của Việt kiều” (Điều 37). Quy định này phần nào làm yên lòng những người có quan điểm cho rằng hạn chế đáng tiếc của Hiến pháp 1959 là chỉ hướng tới quy định “quyền công dân”, tức là quyền áp dụng đối với công dân Việt Nam chứ không có ý nghĩa áp dụng với người nước ngoài sinh sống và làm việc tại Việt Nam, ví dụ như Việt kiều.

Nói tóm lại, ở góc độ tổng quát, có hai đặc điểm nổi bật của Hiến pháp 1959 về quyền con người. Thứ nhất, Hiến pháp 1959 đã tiếp thu trọn vẹn những giá trị cốt lõi về quyền con người trong Hiến pháp 1946 để phản ánh một cách chi tiết trong các quy định của mình, phát triển thêm một bước không chỉ về lượng mà còn về chất. Thứ hai, Hiến pháp 1959 bổ sung thêm một số quyền lợi quan trọng khác trong đời sống kinh tế xã hội của con người ở nhiều khía cạnh khác nhau. Các đặc điểm này cho thấy Hiến pháp 1959 đã có sự sửa đổi khá mạnh mẽ để thích hợp với tình hình mới của đất nước tuy vẫn cần thiết phải chỉnh sửa trong tương lai.



2.3. Các quy định về quyền con người trong Hiến pháp 1959

Chương III - Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Hiến pháp 1959



Điều 22

Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đều bình đẳng trước pháp luật.

Điều 23

Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, không phân biệt dân tộc, nòi giống, nam nữ, thành phần xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng, tình trạng tài sản, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ mưới tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử, từ hai mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử, trừ những người mất trí và những người bị Toà án hoặc pháp luật tước quyền bầu cử và ứng cử.

Công dân đang ở trong quân đội có quyền bầu cử và ứng cử.

Điều 24

Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình.

Cùng việc làm như nhau, phụ nữ được hưởng lương ngang với nam giới. Nhà nước bảo đảm cho phụ nữ công nhân và phụ nữ viên chức được nghỉ trước và sau khi đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương.

Nhà nước bảo hộ quyền lợi của người mẹ và của trẻ em, bảo đảm phát triển các nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ và vườn trẻ.

Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình.

Điều 25

Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình. Nhà nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó.

Điều 26

Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có các quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.

Điều 27

Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được bảo đảm. Không ai có thể bị bắt nếu không có sự quyết định của Toà án nhân dân hoặc sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân.

Điều 28

Pháp luật bảo đảm nhà ở của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà không bị xâm phạm, thư tín được giữ bí mật.

Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền tự do cư trú và đi lại.

Điều 29

Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ quan Nhà nước nào về những hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan Nhà nước. Những việc khiếu nại và tố cáo phải được xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại vì hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan Nhà nước có quyền được bồi thường.

Điều 30

Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền làm việc. Nhà nước dựa vào sự phát triển có kế hoạch của nền kinh tế quốc dân, dần dần mở rộng công việc làm, cải thiện điều kiện lao động và lương bổng, để bảo đảm cho công dân được hưởng quyền đó.

Điều 31

Người lao động có quyền nghỉ ngơi. Nhà nước quy định thời giờ làm việc và chế độ nghỉ ngơi của công nhân và viên chức, mở rộng dần những điều kiện vật chất về nghỉ ngơi và an dưỡng, để bảo đảm cho người lao động được hưởng quyền đó.

Điều 32

Người lao động có quyền được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật, hoặc mất sức lao động. Nhà nước mở rộng dần các tổ chức bảo hiểm xã hội, cứu tế và y tế để bảo đảm cho người lao động được hưởng quyền đó.

Điều 33

Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền học tập. Nhà nước thực hiện từng bước chế độ giáo dục cưỡng bách, phát triển dần các trường học và cơ quan văn hoá, phát triển các hình thức giáo dục bổ túc văn hoá, kỹ thuật, nghiệp vụ, tại các cơ quan, xí nghiệp và các tổ chức khác ở thành thị và nông thôn, để bảo đảm cho công dân được hưởng quyền đó.

Điều 34

Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật, và tiến hành các hoạt động văn hoá khác. Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ tính sáng tạo của những công dân theo đuổi sự nghiệp khoa học, văn học, nghệ thuật và các sự nghiệp văn hoá khác.

Điều 35

Nhà nước chú trọng đặc biệt việc giáo dục thanh niên về đức dục, trí dục, thể dục.

Điều 36

Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của Việt kiều.

Điều 37

Những người nước ngoài vì đấu tranh cho tự do, cho chính nghĩa, cho hoà bình và cho sự nghiệp khoa học mà bị bức hại đều được Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà cho phép trú ngụ.

Điều 38

Không ai được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân.

Điều 39

Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỷ luật lao động, trật tự công cộng, và những quy tắc sinh hoạt xã hội.

Điều 40

Tài sản công cộng của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là thiêng liêng không thể xâm phạm. Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng.

Điều 41

Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có nghĩa vụ đóng thuế theo pháp luật.

Điều 42

Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và cao quý nhất của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Công dân có bổn phận làm nghĩa vụ quân sự để bảo vệ Tổ quốc.

3. Quyền con người trong Hiến pháp năm 1980


Trải qua 21 năm tồn tại (1959 – 1980), Hiến pháp 1959 đã làm tốt nhiệm vụ của mình đó là duy trì sức mạnh tập thể, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân và ghi nhận các quyền lợi cơ bản của con người, tạo động lực để “toàn dân ta đoàn kết rộng rãi trong Mặt trận dân tộc thống nhất24 và dự đoán về một kết quả tất yếu xảy ra là “nhất định sẽ giành được những thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và thực hiện thống nhất nước nhà. Nhân dân ta nhất định xây dựng thành công một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào công cuộc bảo vệ hoà bình ở Đông Nam châu á và thế giới.25

3.1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp năm 1980

Tuy nhiên trong hoàn cảnh mới, Hiến pháp 1959 cho thấy không còn phù hợp nữa, đặc biệt là Việt Nam thống nhất hai miền, đưa đất nước bước vào kỉ nguyên mới của hòa bình, ổn định và phát triển, đi lên chủ nghĩa xã hội, thống nhất con đường mà Đảng và Nhà nước đã lựa chọn. Chính vì vậy, ngay ở lời mở đầu, bản hiến pháp năm 1980 được quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua ngày 18 tháng 12 năm 1980 (“Hiến pháp 1980”) đã ghi nhận việc “nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần có một bản Hiến pháp thể chế hoá đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam trong giai đoạn mới. Đó là Hiến pháp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước. Kế thừa và phát triển Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp này tổng kết và xác định những thành quả đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam trong nửa thế kỷ qua, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân Việt Nam, bảo đảm bước phát triển rực rỡ của xã hội Việt Nam trong thời gian tới.”



3.2. Sự ghi nhận quyền con người trong Hiến pháp 1980

Tiếp thu truyền thống của các bản hiến pháp trước trong việc trân trọng và phát huy các giá trị quyền con người, Hiến pháp 1980 vẫn tiếp tục thể hiện sâu sắc các giá trị nhân văn và ngày càng hoàn thiện các thể chế về quyền con người. Đặc biệt, Hiến pháp 1980 lần đầu tiên hướng tới việc “xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu.26 Đây là một trong những trọng tâm xuyên suốt trong Hiến pháp 1980 thể hiện rõ ràng quan điểm và chính sách của Nhà nước đối với vấn đề quyền con người.

Cũng giống như các bản hiến pháp trước đây, Hiến pháp 1980 vẫn dành hẳn một chương (Chương V) để nói về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Tuy nhiên, khác với các bản hiến pháp trước, quy định về quyền con nằm rải rác tại nhiều chương khác nhau trong Hiến pháp 1980. Chưa bao giờ, tư tưởng “quyền lực thuộc về nhân dân” được hình thành rõ rệt đến vậy trong một bản hiến pháp. Ngay tại Điều 2, Hiến pháp 1980 đã khẳng định đanh thép “Sứ mệnh lịch sử của Nhà nước là thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động.” Như vậy, phạm vi quyền con người không còn bị bó hẹp trong các chế định về dân quyền, dân sinh cơ bản như tự do đi lại, cư trú, học tập mà còn mở rộng ra cả các quyền lợi mang tính bản chất của chế độ: đó là quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Điều 4 Hiến pháp 1980 quy định “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, người chủ tập thể là nhân dân lao động bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể, tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa và những người lao động khác, mà nòng cốt là liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Nhà nước bảo đảm không ngừng hoàn chỉnh và củng cố chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội; làm chủ trong phạm vi cả nước, từng địa phương, từng cơ sở; làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân.” Điều 6 của Hiến pháp 1980 cũng một lần nữa khẳng định lại “ở nước CHXHCN Việt Nam, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.”

Ở góc độ số lượng, các quy định về quyền con người trong Hiến pháp 1980 có sự gia tăng so với Hiến pháp 1959 (29 so với 21 điều của Hiến pháp 1959), điều này thể hiện sự nhận thức sâu sắc của đất nước và tầm quan trọng cũng như vị thế của các chế định quyền con người trong một đạo luật gốc. Ở góc độ chất lượng, Hiến pháp 1980 không đơn thuần là bản sao của Hiến pháp 1959 với các chỉnh sửa hợp lý các chế định về quyền con người mà sự tiếp nối và phát triển có chọn lọc của các bản hiến pháp trước. Chính vì vậy, các quy định về quyền con người trong Hiến pháp 1980 có sự kế thừa và phát triển các quy định trước trong điều kiện, hoàn cảnh mới của đất nước. Mặc dù vậy, hạn chế về kỹ thuật lập pháp của Hiến pháp 1980, vẫn lặp lại vết xe của Hiến pháp 1959, là đề cập đến thuật ngữ “quyền công dân” thay vì đề cập đến thuật ngữ “quyền con người.” Như đã trình bày ở trên, khái niệm quyền con người là một khái niệm rộng lớn hơn nhiều so với khái niệm quyền công dân vốn chỉ áp dụng cho công dân mang quốc tịch của một quốc gia. So với khái niệm quyền con người, khái niệm quyền công dân mang tính xác định hơn, gắn liền với mỗi quốc gia, được pháp luật của mỗi quốc gia quy định và bảo vệ. Và do gắn với đặc thù của mỗi quốc gia mà nội dung, số lượng, chất lượng của quyền công dân ở mỗi quốc gia thường không giống nhau. Tuy nhiên, không có sự đối lập giữa quyền con người và quyền công dân trong quy định của các nước27.

Ở Hiến pháp 1980, quyền công dân lại được nâng tầm hơn nữa, được cụ thể hóa hơn nữa để rõ ràng hơn so với Hiến pháp 1959. Ví dụ, đối với chế định về bình đẳng giới, các hiến pháp trước đây đều quy định phụ nữ có được quyền bình đẳng đối với nam giới, không có sự phân biệt đối xử nào. Tuy nhiên, nếu như Hiến pháp 1946 chỉ quy định ngắn gọn “đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9 Hiến pháp 1946), thì Hiến pháp 1959 đã nâng quyền bình đẳng giới thêm một nấc mới khi ghi nhận thêm một số quyền lợi có liên quan của phụ nữ ở nhiều góc độ chính trị, văn hóa, xã hội, hôn nhân và gia đình (Điều 24 Hiến pháp 1959)… Đến lượt mình, Hiến pháp 1980 đã phát triển chế định này đến mức độ hoàn thiện, thể hiện sự đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ ở một mức độ cao hơn hẳn so với các bản hiến pháp khác28. Cụ thể, “Phụ nữ và nam giới có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình. Nhà nước và xã hội chăm lo nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, khoa học, kỹ thuật và nghề nghiệp của phụ nữ, không ngừng phát huy vai trò của phụ nữ trong xã hội. Nhà nước có chính sách lao động phù hợp với điều kiện của phụ nữ. Phụ nữ và nam giới việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau. Phụ nữ có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương nếu là công nhân, viên chức, hoặc hưởng phụ cấp sinh đẻ nếu là xã viên hợp tác xã. Nhà nước và xã hội chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, nhà trẻ, lớp mẫu giáo, nhà ăn công cộng và những cơ sở phúc lợi xã hội khác, tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập và nghỉ ngơi” (Điều 63 Hiến pháp 1980). Không chỉ có vậy, quyền của phụ nữ còn được thể hiện rải rác tại một số điều của Hiến pháp 1980, theo đó mọi công dân bao gồm cả nam lẫn nữ đều bình đẳng trước pháp luật (Điều 55) và mọi công dân không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo… đều có quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ quan quyền lực của Nhà nước (Điều 57).

Như vậy, ngoài việc tiếp thu và ghi nhận các chế định về quyền con người trong các bản hiến pháp trước như quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật (Điều 55), quyền bầu cử, ứng của (Điều 57), quyền lao động (Điều 58), quyền nghỉ ngơi (Điều 59), quyền học tập (Điều 60), Hiến pháp 1980 còn bổ sung một số chế định về quyền con người và cụ thể hóa các quyền đó một cách chi tiết. Cụ thể, Điều 56 ghi nhận một chế định mới về quyền công dân, đó là “công dân có quyền tham gia quản lý của Nhà nước và xã hội.” Việc Hiến pháp 1980 ghi nhận quyền của công dân trong tham gia quản lý Nhà nước và xã hội là một nỗ lực rất đáng trân trọng. Thực tế, quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội có nội hàm khá rộng, được thực hiện thông qua việc ứng cử, bầu cử của công dân, qua việc tham gia góp ý kiến về quản lý, điều hành và qua cả hoạt động khiếu nại, khiếu kiện các vấn đề có liên quan đến quyền lợi của công dân để từ đó thay đổi cung cách điều hành và quản lý của Nhà nước. Phù hợp với nhận thức này, Điều 73 của Hiến pháp 1980 quy định “Công dân có quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ quan nào của Nhà nước về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan, tổ chức và đơn vị đó. Các điều khiếu nại và tố cáo phải được xem xét và giải quyết nhanh chóng. Mọi hành động xâm phạm quyền lợi chính đáng của công dân phải được kịp thời sửa chữa và xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường. Nghiêm cấm việc trả thù người khiến nại, tố cáo.”

Quy định về quyền tham gia quản lý điều hành của công dân trong Hiến pháp 1980 còn thể hiện quan điểm nhất quán của Nhà nước là trân trọng sự đóng góp của công dân trong việc phát triển xã hội, phát triển đất nước, thể hiện ro hơn bản chất Nhà nước “của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.”

Cũng lần đầu tiên trong Hiến pháp, quyền được bảo vệ sức khỏe cho công dân được nhắc đến như là một trong các ưu việt của Chủ nghĩa xã hội, tại đó, các chế độ khám chữa bệnh cho nhân dân được Nhà nước thực hiện trên cơ sở không tính phí. Điều 61 của Hiến pháp 1980 quy định “công dân có quyền được bảo vệ sức khỏe. Nhà nước thực hiện chế độ khám và chữa bệnh không phải trả tiền.” Một chế định tương tự cũng có thể thấy trong Điều 74, là “những người và những gia đình có công với cách mạng được khen thưởng và chăm sóc. Người già và người tàn tật không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ. Trẻ mồ côi được Nhà nước và xã hội nuôi dạy.”

Một điểm dễ nhận thấy nữa trong quy định về quyền con người trong Hiến pháp 1980 là các nhà làm luật đã bắt đầu chú ý đến thế hệ trẻ, mầm non tương lai của đất nước. Đi ra từ khói lửa và tàn phá của chiến tranh, Việt Nam rất cần sức mạnh của thế hệ trẻ để xây dựng là đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như mong ước sinh thời của Hồ Chủ tịch. Chính vì vậy, một trong những điểm nhấn trong quá trình soạn thảo Hiến pháp 1980 là việc bổ sung và cụ thể hóa các chế định về gia đình, chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi đồng, chăm lo đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của người dân, đảm bảo công dân được hưởng đầy đủ các quyền lợi cần thiết và phổ biến nhất của con người.

Nói một cách tổng quát, các giá trị phổ biến nhất về quyền con người trong Hiến pháp 1980 vẫn cho thấy có sự tiếp thu và phát huy tinh thần của các bản Hiến pháp trước. Số lượng các chế định về quyền con người của Hiến pháp 1980 cũng có sự gia tăng (lên 29 điều so với 21 điều trong Hiến pháp 1959). Hiến pháp 1980 cũng thể hiện sâu sắc quan điểm xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, hướng tới một xã hội công bằng và văn minh, xóa bỏ chế độ người bóc lột người và thể hiện đầy đủ các giá trị thiết yếu của một nhà nước đang trên đường định hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Ngoài ra, sứ mệnh của Hiến pháp 1980 còn là sự thể hiện sâu sắc tinh thần “làm chủ của nhân dân”, sợi chỉ đỏ xuyên suốt qua tất cả các bản hiến pháp và việc đưa ra các cơ chế cần thiết mà Nhà nước dựa vào đó đảm bảo quyền công dân được thực hiện một cách đầy đủ và trọn vẹn.



3.3. Các quy định về quyền con người trong Hiến pháp 1980

Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Hiến pháp 1980



Điều 53

Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam theo luật định.

Điều 54

Quyền và nghĩa vụ của công dân thể hiện chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động, kết hợp hài hoà những yêu cầu của cuộc sống xã hội với tự do chân chính của cá nhân, bảo đảm sự nhất trí về lợi ích giữa Nhà nước, tập thể và cá nhân theo nguyên tắc mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người.

Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân.

Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội.

Điều 55

Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.

Điều 56

Công dân có quyền tham gia quản lý công việc của Nhà nước và của xã hội.

Điều 57

Công dân không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và từ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có thể được bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, trừ những người mất trí và những người bị pháp luật hoặc Toà án nhân dân tước các quyền đó.

Điều 58

Lao động là quyền, nghĩa vụ và vinh dự hàng đầu của công dân.

Công dân có quyền có việc làm. Người có sức lao động phải lao động theo quy định của pháp luật.

Nhà nước dựa vào kế hoạch phát triển kinh tế và văn hoá mà tạo thêm việc làm, sắp xếp công việc căn cứ vào năng lực, nguyện vọng cá nhân và yêu cầu của xã hội, nâng cao trình độ nghề nghiệp, bồi dưỡng sức lao động, không ngừng cải thiện điều kiện làm việc của lao động chân tay và lao động trí óc.

Nhà nước quy định và bảo đảm thực hiện các chế độ nhằm đề phòng tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.

Điều 59

Người lao động có quyền nghỉ ngơi.

Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ an dưỡng và nghỉ ngơi của công nhân, viên chức.

Công nhân, viên chức khi về hưu, già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động được hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội.

Nhà nước mở rộng dần sự nghiệp bảo hiểm xã hội theo trình độ phát triển của nền kinh tế quốc dân và bảo đảm cho người lao động được hưởng quyền lợi đó.

Nhà nước hướng dẫn các hợp tác xã thực hiện từng bước chế độ bảo hiểm xã hội đối với xã viên.

Điều 60

Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân.

Nhà nước thực hiện từng bước chế độ giáo dục phổ thông bắt buộc, thực hiện chế độ học không phải trả tiền và chính sách cấp học bổng, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân học tập.

Điều 61

Công dân có quyền được bảo vệ sức khoẻ.

Nhà nước thực hiện chế độ khám bệnh và chữa bệnh không phải trả tiền.

Điều 62

Công dân có quyền có nhà ở.

Nhà nước mở rộng việc xây dựng nhà ở, đồng thời khuyến khích, giúp đỡ tập thể và công dân xây dựng nhà ở theo quy hoạch chung, nhằm thực hiện từng bước quyền đó. Việc phân phối diện tích nhà ở do Nhà nước quản lý phải công bằng, hợp lý.

Điều 63

Phụ nữ và nam giới có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình.

Nhà nước và xã hội chăm lo nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, khoa học, kỹ thuật và nghề nghiệp của phụ nữ, không ngừng phát huy vai trò của phụ nữ trong xã hội.

Nhà nước có chính sách lao động phù hợp với điều kiện của phụ nữ. Phụ nữ và nam giới việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau. Phụ nữ có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương nếu là công nhân, viên chức, hoặc hưởng phụ cấp sinh đẻ nếu là xã viên hợp tác xã.

Nhà nước và xã hội chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, nhà trẻ, lớp mẫu giáo, nhà ăn công cộng và những cơ sở phúc lợi xã hội khác, tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập và nghỉ ngơi.

Điều 64

Gia đình là tế bào của xã hội.

Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình.

Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.

Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con cái thành những công dân có ích cho xã hội. Con cái có nghĩa vụ kính trọng và chăm sóc cha mẹ.

Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con.

Điều 65

Nhà nước và xã hội chú trọng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi đồng, mở rộng dần việc đảm nhiệm nuôi dạy trẻ em, làm cho sinh hoạt, học tập và trưởng thành của trẻ em được bảo đảm.

Điều 66

Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho thanh niên học tập, lao động và giải trí, phát triển trí tuệ, năng khiếu và thể lực; chăm lo bồi dưỡng lý tưởng cộng sản chủ nghĩa và giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên.

Thanh niên phải làm tròn nhiệm vụ lực lượng xung kích trong phong trào thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, trong cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá.

Điều 67

Công dân có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do biểu tình, phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân.

Nhà nước tạo điều kiện vật chất cần thiết để công dân sử dụng các quyền đó.

Không ai được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước và của nhân dân.

Điều 68

Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.

Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.

Điều 69

Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể.

Không ai có thể bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân.

Việc bắt và giam giữ người phải theo đúng pháp luật.

Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình.

Điều 70

Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm.

Điều 71

Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở.

Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép. Việc khám xét chỗ ở phải do đại diện cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành, theo quy định của pháp luật.

Bí mật thư tín, điện thoại, điện tín được bảo đảm.

Quyền tự do đi lại và cư trú được tôn trọng, theo quy định của pháp luật.

Điều 72

Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, sáng tác văn học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hoá khác.

Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ công dân theo đuổi sự nghiệp khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật nhằm phục vụ đời sống, phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; bồi dưỡng, phát huy sở trường và năng khiếu cá nhân.

Quyền lợi của tác giả và của người sáng chế, phát minh được bảo đảm.

Điều 73

Công dân có quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ quan nào của Nhà nước về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan, tổ chức và đơn vị đó.

Các điều khiếu nại và tố cáo phải được xem xét và giải quyết nhanh chóng.

Mọi hành động xâm phạm quyền lợi chính đáng của công dân phải được kịp thời sửa chữa và xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường.

Nghiêm cấm việc trả thù người khiến nại, tố cáo.

Điều 74

Nhà nước thực hiện chính sách ưu đãi đối với thương binh và gia đình liệt sĩ, tạo điều kiện cho thương binh phục hồi chức năng lao động, có việc làm phù hợp với sức khoẻ và có cuộc sống ổn định.

Những người và những gia đình có công với cách mạng được khen thưởng và chăm sóc.

Người già và người tàn tật không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ.

Trẻ mồ côi được Nhà nước và xã hội nuôi dạy.

Điều 75

Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của Việt kiều.

Điều 76

Công dân phải trung thành với Tổ quốc.

Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất đối với dân tộc.

Điều 77

Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân.

Công dân có bổn phận làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân.

Điều 78

Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỷ luật lao động, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, giữ gìn bí mật Nhà nước, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa.

Điều 79

Tài sản xã hội chủ nghĩa là thiêng liêng, không ai được xâm phạm. Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa.

Điều 80

Công dân có nghĩa vụ đóng thuế và tham gia lao động công ích theo quy định của pháp luật.
Điều 81

Những người nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, dân chủ và hoà bình hoặc vì sự nghiệp khoa học mà bị bức hại thì được Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho phép cư trú.

4. Quyền con người trong Hiến pháp 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001


Ngày 15 tháng 4 năm 1992, Quốc hội nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua bản hiến pháp mới để thay thế cho Hiến pháp 1980, về sau được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị quyết số 51/2001/QH10 (sau đây gọi chung là “Hiến pháp 1992”). Đây là một tất yếu lịch sử do sự tác động của nhiều yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội, đặc biệt với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã buộc Đảng và Nhà nước phải nhìn nhận lại hệ thống một cách toàn diện và sâu sắc. So với các hiến pháp trước, Hiến pháp 1992 được coi là bản hiến pháp thể hiện tốt nhất kỹ thuật lập pháp, các chế định được xây dựng chặt chẽ và đầy đủ nhất, trong đó vẫn nổi bật các định chế bất di bất dịch về quyền con người, vốn đã là kim chỉ nam cho toàn bộ các bản hiến pháp trong lịch sử Việt Nam.

4.1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp 1992

Việt Nam thực sự cải cách toàn diện đời sống kinh tế xã hội, đặc biệt là chuyển đổi nền kinh tế nông nghiệp, sản xuất lạc hậu, tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần từ năm 1986. Cũng từ đây, diện mạo của đất nước có sự đổi mới và phát triển khá rõ rệt. Về quan hệ đối ngoại, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh hợp tác song phương, khu vực và thế giới với phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới.” Trong bối cảnh đó, rõ ràng Hiến pháp 1980 không còn phù hợp với tình hình mới. Thực tế cho thấy, Hiến pháp 1980 ra đời trong hoàn cảnh đất nước đang chan hoà khí thế lạc quan của cuộc đại thắng mùa Xuân 1975, tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nóng vội đã xuất hiện, không kịp thời khắc phục cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp trong thời chiến. Hiến pháp 1980 đã không tránh khỏi những nhược điểm nhất định29. Nhận thức được điều đó, Đảng và Nhà nước đã vận động cho sự ra đời một bản hiến pháp mới vào năm 1992 để thay thế cho Hiến pháp 1980, vốn thể hiện những nhược điểm khá rõ rệt do nhận thức chưa đúng với thực tế đời sống, còn nặng tư tưởng thời chiến và chậm tiếp thu những biến đổi của các điều kiện kinh tế, chính trị xã hội. Một số quy định của Hiến pháp 1980, dù trân trọng và nâng cao giá trị cũng như đảm bảo quyền lợi của công dân, nhưng lại thiếu tính khả thi khi áp dụng trong thực tế vì vượt quá khả năng kinh tế của đất nước30. Ví dụ, công dân đi “học không phải trả học phí” (Điều 60) và “Khám chữa bệnh không phải trả tiền” (Điều 61). Ngoài ra, việc chú trọng phát triển kinh tế tập thể, đẩy mạnh công nghiệp nặng trong khi lại thiếu quan tâm đến công nghiệp nhẹ, thực phẩm và thương mại đã kìm hãm sự phát triển của Việt Nam. Trước tình hình đó, Hiến pháp 1980 cần phải được thay thế bằng một bản hiến pháp mới, vừa thể hiện quan điểm chú trọng phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, tiếp tục định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội và nâng cao, phát huy hơn nữa các giá trị con người.



4.2. Sự ghi nhận quyền con người trong Hiến pháp 1992

Hiến pháp 1992 bao gồm lời nói đầu và 147 điều (nhiều nhất trong các bản hiến pháp), chia làm 12 chương, riêng các chế về quyền con người vẫn được cơ cấu thành một chương (Chương V) như các bản hiến pháp trước đó. Về mặt tổng thể, Hiến pháp 1992 vẫn tập trung khẳng định quyền làm chủ của nhân dân lao động, tôn trọng triệt để các giá trị quyền con người và tạo cơ chế cho việc tham gia của công dân trong quản lý nhà nước và xã hội. Điều 2 của Hiến pháp 1992 khẳng định “Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.” Như vậy, lần đầu tiên, thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” được đưa vào hiến pháp như một nguyên tắc hiến định đã thể hiện rõ rệt bản chất của Nhà nước, đó là một nhà nước tôn trọng và phát huy các giá trị quyền con người, xác định ngay quyền làm chủ và quyền định đoạt của nhân dân trong hiến pháp. Các quyền đó được đảm bảo thực hiện cũng bằng một cơ chế hiến định theo Điều 3 Hiến pháp 1992: “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân” và Điều 11: “Công dân thực hiện quyền làm chủ của mình ở cơ sở bằng cách tham gia công việc của Nhà nước và xã hội, có trách nhiệm bảo vệ của công, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, tổ chức đời sống công cộng.”

Hiến pháp 1980 có 29 điều (từ Điều 53 đến Điều 81) và Hiến pháp 1992 có 34 điều (từ Điều 49 đến Điều 82) quy định về “quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. So với Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 có sự phát triển đáng kể các quy định về quyền con người, quyền công dân31. Đặc biệt nhất, lần đầu tiên thuật ngữ “quyền con người” được chính thức nhắc đến trong Hiến pháp 1992 đã phần nào đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, xóa bỏ được hạn chế của các bản hiến pháp trước đây khi chỉ quy định về “quyền công dân”, một khái niệm hẹp hơn rất nhiều so với “quyền con người” và được bao trùm trong khái niệm “quyền con người”. Thể hiện quan điểm này, Điều 50 của Hiến pháp 1992 quy định “Ở nước CHXHCN Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật.” Như vậy, với việc đề cập tới khái niệm “quyền con người”, phạm vi áp dụng của Hiến pháp 1992 trở nên rộng hơn nhiều so với các hiến pháp trước đây. Cụ thể, với các quy định về quyền con người như đã thấy ở trên thì người không có quốc tịch hay Việt kiều cũng được Nhà nước ta tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Với Hiến pháp 1992, cũng lần đầu tiên, quyền tự do kinh doanh của công dân được xác lập một cách cụ thể (Điều 57 quy định “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”). Nếu như trong thời bao cấp, quyền về kinh tế của công dân hoà chung với tập thể, cộng đồng, thì trong thời kỳ đổi mới, họ được khuyến khích làm giàu hợp pháp trên cơ sở quyền tự do kinh doanh và kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Đây là một trong những chìa khoá quan trọng để mở cánh cửa tự do trong các hoạt động kinh tế của công dân, xây dựng một xã hội giàu mạnh theo đúng mục tiêu mà Nhà nước đề ra. “Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến của Nhà nước ta, một nội dung quan trọng thể hiện quan điểm mới của Đảng và Nhà nước ta về quản lý kinh tế đã được ghi nhận trong Hiến pháp, đó là trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm thì tổ chức, cá nhân thuộc bất kỳ thành phần kinh tế nào cũng đều được sản xuất, kinh doanh.32 Quy định này không chỉ là cơ sở pháp lý tạo ra nhiều việc làm cho người lao động mà còn tạo cho công dân yên tâm bỏ vốn vào đầu tư sản xuất, kinh doanh.

Hơn thế nữa, Điều 58 Hiến pháp 1992 còn quy định: “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác”. Có thể nhận thấy rằng, những điểm sửa đổi, bổ sung của Hiến pháp 1992 về chế độ kinh tế nói chung và về các quyền con người, quyền công dân về kinh tế nói riêng là những điểm cơ bản nhất. Nó tác động sâu sắc đến toàn bộ đời sống xã hội và đến mỗi cá nhân; nó tạo tiền đề cho quyền con người được tiếp tục mở rộng và phát triển, tiếp cận với các tiêu chuẩn chung về nhân quyền của thế giới.

Cùng với quyền tự do kinh doanh, công dân còn có quyền sở hữu "về tư liệu sản xuất, vốn và tài sản trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác" (Điều 58). Những quy định này hơn bao giờ hết tạo điều kiện thuận lợi để công dân Việt Nam xây dựng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, góp phần làm đất nước giàu có và thịnh vượng. Ngoài các quy định tiêu biểu vừa nêu, quy định về quyền "được thông tin" là một quyền mới được xác lập trong Hiến pháp 1992. Quyền này được hiểu là quyền tiếp nhận thông tin và truyền tin theo quy định của pháp luật.

Công cuộc đổi mới tạo ra nhiều cơ hội, môi trường bình đẳng cho mọi người có điều kiện học tập, trong đó có một nhóm người rất cần được quan tâm và hơn thế nữa, điều quan tâm đó phải trở thành hiến định. Vì vậy, Hiến pháp 1992 khẳng định: “Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác được học văn hoá và học nghề phù hợp” (Điều 59). Quy định này một mặt nâng cao, mở rộng quyền của những trẻ em khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, mặt khác nêu lên nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan để bảo đảm cho quyền này được thực thi trong thực tiễn.

Ngoài việc thiết lập các quyền mới, Hiến pháp còn sửa đổi một số quy định về quyền của công dân không phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và không thể thực hiện được trong thực tiễn. Nếu Hiến pháp 1980 quy định học không phải trả học phí và khám bệnh, chữa bệnh không phải trả tiền thì Hiến pháp 1992 sửa đổi lại thành: "bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí" (Điều 59) và "công dân có quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khoẻ. Nhà nước quy định chế độ viện phí, chế độ miễn, giảm viện phí” (Điều 61). Các quy định này trở nên thiết thực hơn và có khả năng thực thi tốt hơn nhiều so với các quy định cũ tại Hiến pháp 1980.

Một ví dụ khác, Hiến pháp 1980 quy định "Công dân có quyền có nhà ở" (Điều 62); Quyền này trên thực tế cũng rất không khả khi, cho nên Hiến pháp 1992 sửa lại thành: "Công dân có quyền xây dựng nhà ở theo quy hoạch và pháp luật” (Điều 62). Ngoài ra, Hiến pháp 1992 còn khôi phục lại một số quyền đã quy định trong Hiến pháp 1946 nhưng về sau do hoàn cảnh chính trị - lịch sử mà chúng ta đã hạn chế. Đó là "Quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật" (Điều 68). Một số quyền trước đây chỉ quy định trong bộ luật hoặc luật nay đã đưa vào quy định cả trong Hiến pháp để đề cao hơn nữa tính hiệu lực của pháp luật, chẳng hạn như Điều 72, Hiến pháp 1992 quy định: "Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật".

Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. “Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh” (Điều72). Quy định này phù hợp với các chuẩn mực quốc tế được nêu trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (Khoản 1, Điều 11) và Công ước quốc tế về Các quyền dân sự và chính trị, (khoản 5 Điều 9 và khoản 2 Điều 14)33 mà Việt Nam là thành viên. Việc xét xử ở Việt Nam chỉ do Toà án thực hiện, hình phạt cũng chỉ được thực hiện theo quyết định của Toà án. Đồng thời, việc điều tra, truy tố, xét xử phải tuân thủ theo các quy định chung của pháp luật. Các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền gây thiệt hại trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử buộc phải bồi thường cho người bị oan.

Như vậy, việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 đã đánh dấu bước phát triển đáng kể của Việt Nam trong chặng đường đầu của công cuộc đổi mới, đồng thời tạo ra những điều kiện thuận lợi mới cho chúng ta tiến lên giành những thắng lợi trong sự nghiệp đổi mới, để đảm bảo: “chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người34”.

4.3. Các quy định cụ thể về quyền con người trong Hiến pháp 1992

Chương V – Quyền và nghĩa vụ của công dân, Hiến pháp 1992



Điều 49

Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam.

Điều 50

Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật.

Điều 51

Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân.

Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội.

Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định.

Điều 52

Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.

Điều 53

Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.

Điều 54

Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật.

Điều 55

Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân.

Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động.

Điều 56

Nhà nước ban hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động.

Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức Nhà nước và những người làm công ăn lương; khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với người lao động.

Điều 57

Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật.

Điều 58

Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 17 và Điều 18.

Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân.

Điều 59

Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân.

Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí.

Công dân có quyền học văn hoá và học nghề bằng nhiều hình thức.

Học sinh có năng khiếu được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập để phát triển tài năng.

Nhà nước có chính sách học phí, học bổng.

Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác được học văn hoá và học nghề phù hợp."

Điều 60

Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hoá khác. Nhà nước bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp.

Điều 61

Công dân có quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khoẻ.

Nhà nước quy định chế độ viện phí, chế độ miễn, giảm viện phí.

Công dân có nghĩa vụ thực hiện các quy định về vệ sinh phòng bệnh và vệ sinh công cộng.

Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và các chất ma tuý khác. Nhà nước quy định chế độ bắt buộc cai nghiện và chữa các bệnh xã hội nguy hiểm.

Điều 62

Công dân có quyền xây dựng nhà ở theo quy hoạch và pháp luật. Quyền lợi của người thuê nhà và người có nhà cho thuê được bảo hộ theo pháp luật.

Điều 63

Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình.

Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ.

Lao động nữ và nam việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau. Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là viên chức Nhà nước và người làm công ăn lương có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo quy định của pháp luật.

Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội; chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và các cơ sở phúc lợi xã hội khác để giảm nhẹ gánh nặng gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập, chữa bệnh, nghỉ ngơi và làm tròn bổn phận của người mẹ.

Điều 64

Gia đình là tế bào của xã hội.

Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình.

Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.

Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những công dân tốt. Con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ.

Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con.

Điều 65

Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục.

Điều 66

Thanh niên được gia đình, Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động và giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng về đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân và lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đi đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc.

Điều 67

Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Thương binh được tạo điều kiện phục hồi chức năng lao động, có việc làm phù hợp với sức khoẻ và có đời sống ổn định.

Những người và gia đình có công với nước được khen thưởng, chăm sóc.

Người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ.

Điều 68

Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật.

Điều 69

Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.

Điều 70

Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật.

Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ.

Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.

Điều 71

Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm.

Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật.

Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân.

Điều 72

Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.

Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh.

Điều 73

Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở.

Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép.

Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân được bảo đảm an toàn và bí mật.

Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín của công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật.

Điều 74

Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào.

Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định.

Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự.

Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.

Điều 75

Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước."

Điều 76

Công dân phải trung thành với Tổ quốc.

Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất.

Điều 77

Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân.

Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân.

Điều 78

Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản của Nhà nước và lợi ích công cộng.

Điều 79

Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, giữ gìn bí mật quốc gia, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng.

Điều 80

Công dân có nghĩa vụ đóng thuế và lao động công ích theo quy định của pháp luật.

Điều 81

Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, được Nhà nước bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền lợi chính đáng theo pháp luật Việt Nam.

Điều 82

Người nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, dân chủ và hoà bình, hoặc vì sự nghiệp khoa học mà bị bức hại thì được Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xem xét việc cho cư trú.


tải về 0.65 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương