HỘI ĐỒng phối hợp phổ biếN, giáo dục pháp luật trung ưƠng đẶc san tuyên truyền pháp luật số: 06/2013 chủ ĐỀ quyền con ngưỜI



tải về 0.65 Mb.
trang1/7
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích0.65 Mb.
#13343
  1   2   3   4   5   6   7


HỘI ĐỒNG PHỐI HỢP PHỔ BIẾN,

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRUNG ƯƠNG


ĐẶC SAN

TUYÊN TRUYỀN PHÁP LUẬT

Số: 06/2013


CHỦ ĐỀ
QUYỀN CON NGƯỜI

VÀ CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI

HÀ NỘI - NĂM 2013

CHỦ ĐỀ

QUYỀN CON NGƯỜI

VÀ CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI


Biên soạn và chịu trách nhiệm nội dung: Thạc sỹ Trần Sĩ Vỹ - Luật sư thành viên - Văn phòng Luật sư Leadco (Leadco Legal Counsel)

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


CHỮ VIẾT TẮT

TÊN ĐẦY DỦ

TCN

Trước công nguyên

ILO

Tổ chức lao động thế giới

LHQ

Liên Hợp Quốc

VNDCCH

Việt Nam dân chủ Cộng hòa

CHXHCN Việt Nam

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Hiến pháp 1946

Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được Quốc Hội thông qua ngày 09 tháng 11 năm 1946

Hiến pháp 1959

Hiến pháp năm 1959 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được Quốc Hội thông qua ngày 31 tháng 12 năm 1959

Hiến pháp 1980

Hiến pháp năm 1980 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc Hội thông qua ngày 18 tháng 12 năm 1980

Hiến pháp 1992

Hiến pháp năm 1992 được Quốc Hội thông qua ngày 15 tháng 4 năm 1992, về sau được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị quyết số 51/2001/QH10 năm 2001

ICCPR

Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (International Covenant on Civil and Political Rights)

BLDS

Bộ luật dân sự của Việt Nam năm 2005

BLHS

Bộ luật hình sự của Việt Nam năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự của Việt Nam năm 2003

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự của Việt Nam năm 2004

LDN

Luật doanh nghiệp của Việt Nam năm 2005 được sửa đổi bổ sung năm 2009, năm 2011 và 2013

BLLĐ

Bộ luật lao động của Việt Nam năm 2012

ICESCR

Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966 (International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights)

HĐND

Hội đồng nhân dân

UBND

Ủy ban nhân dân

UDHR

Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948 (Universal Declaration of Human Rights)

CEDAW

Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (Convention on the Elimination of all Forms of Discrimination against Women)

CRC

Công ước về quyền trẻ em của Liên Hợp Quốc (Convention on Rights of Children)

Phần thứ nhất

KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI

Nhân quyền hay quyền con người (tiếng Anh: Human Rights) là những quyền tự nhiên của con người không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bởi bất cứ chính thể nào. Có thể nói, ngay từ buổi sơ khai của một xã hội có tổ chức, quyền con người đã xuất hiện như một khát vọng lớn lao, là giá trị chung của toàn nhân loại. Nhìn ở góc độ nào và ở cấp độ nào thì quyền con người cũng được coi như những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ và bảo đảm thực hiện. Những chuẩn mực này là kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, chỉ áp dụng với con người, cho tất cả mọi người. Nhờ có những chuẩn mực này, mọi thành viên trong gia đình nhân loại mới được bảo vệ nhân phẩm và từ đó mới có điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân. Cho dù cách nhìn nhận có những khác biệt nhất định, một điều rõ ràng là quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và trong mọi giai đoạn lịch sử1.


1. Khái niệm về quyền con người


Cho đến nay, chúng ta phải thừa nhận rằng thật khó có thể tìm thấy một định nghĩa triết học kinh điển nào về quyền con người. Ngay cả những nhà tư tưởng lớn của nhân loại như John Locke, Rousseau hay gần hơn là Karl Marx, Engels, Lenil cũng không đưa ra được một định nghĩa nào về khái niệm này giống như cách họ làm thông thường với các khái niệm triết học khác. Chúng ta thường thấy các định nghĩa về quyền con người kiểu như “quyền con người là quyền A, quyền con người trong lĩnh vực B…” Chẳng hạn, hiến pháp năm 1791 của Pháp viết: quyền con người là “quyền tự do, sở hữu, được an toàn và chống lại áp bức.” Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 liệt kê các phạm trù cơ bản của quyền con người, đó là “các quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.” Cho đến nay, từ cổ chí kim, Đông sang Tây đã có rất nhiều định nghĩa về quyền con người. Có những định nghĩa liệt kê quyền con người bao gồm những quyền a, b, c… nào đó. Có những định nghĩa rất khái quát, chẳng hạn, học giả Trung Quốc Đồng Vân Hồ quan niệm: “có thể nói gọn lại, nhân quyền là quyền tồn tại, phát triển một cách tự do, bình đẳng2.”

Ngoài việc không có một định nghĩa tiêu chuẩn thống nhất, cách hiểu về quyền con người cũng cho thấy có sự khác biệt. Thứ nhất, hiện đang còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc, bản chất của quyền con người. Thứ hai, quyền con người được xem xét dưới nhiều lĩnh vực khác nhau như triết học, đạo đức, chính trị, pháp luật, tôn giáo… mà mỗi lĩnh vực lại tiếp cận khái niệm này ở một góc độ riêng, tuy nhiên không lĩnh vực nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người.

Tùy vào tính chất chủ quan của mỗi người, tùy vào lĩnh vực nghiên cứu mà quyền con người được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế, định nghĩa về quyền con người phổ biến nhất vẫn là định nghĩa của Cao ủy LHQ về quyền con người, theo đó: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người.3

Ở góc độ tổng quát, có thể thấy quyền con người là những quyền tự nhiên, được tạo hóa ban cho và vốn có của con người, không bị hạn chế hay phân biệt về quốc tịch, tôn giáo, giới tính, nguồn gốc quốc gia hay dân tộc, màu da, ngôn ngữ hay bất kỳ một đặc điểm nào khác. Mọi người đều được hưởng quyền của mình một cách bình đẳng và không có sự phân biệt đối xử. Quyền con người là quyền đương nhiên, gắn liền với con người kể từ khi sinh ra và không do sự ban phát của bất cứ chính thể nào.

Nói tóm lại, cốt lõi của khái niệm quyền con người, dù ở đâu cũng giống nhau, đó là: các quyền mà mỗi con người đều có đơn giản là vì họ là con người. Chính vì thế, nhân quyền là của mọi người và bình đẳng cho mọi người. Nhân quyền cũng là những quyền bất khả xâm phạm. Các quyền này có thể bị trì hoãn - một cách chính đáng hay sai trái, bị hạn chế bởi pháp luật một số quốc gia, vì một số mục đích nhất định, ở nhiều nơi nhiều lúc song ý tưởng về các quyền cố hữu không thể bị phủ nhận. Nếu mất đi những quyền này, con người sẽ không còn là con người nữa.

2. Sự hình thành và phát triển tư tưởng về quyền con người trên thế giới


Quyền con người gắn liền với lịch sử phát triển loài ngoài và ở bất cứ thời điểm nào quyền con người cũng là khát vọng mà nhân loại luôn hướng đến và là thước đo các giá trị đạo đức toàn cầu. Tuy nhiên, do tính độc lập tương đối của tư tưởng, quan niệm về quyền con người còn phụ thuộc một phần quan trọng vào sự phát triển của tư duy về xã hội nói chung, đặc biệt là tư duy triết học, chính trị của mỗi thời đại nói riêng. Sự hình thành và phát triển quyền con người còn phụ thuộc vào sự phát triển các điều kiện kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia hay của từng thời kỳ.

Ngay ở thời kỳ cổ đại, sự mâu thuẫn giữa giai cấp chủ nô và nô lệ cùng các mâu thuẫn khác trong xã hội là cơ sở để hình thành nên tư tưởng và yêu sách về quyền con người, mục đích trước tiên là để bảo vệ và khẳng định nhân phẩm của người lao động, những người vốn là số đông những lại có địa vị thấp trong xã hội do các đặc thù về giai cấp. Sau đó, quyền con người ngày càng được mở rộng, trở thành các yêu sách không thể thiếu trong các cuộc đấu tranh cách mạng, giải phóng con người trong đó các yêu sách về quyền bình đẳng, quyền được bảo vệ và quyền được tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội.

Bộ luật cải cách của Urukagina thành phố Lagash, được biết đến sớm nhất, đó là khoảng năm 2350 trước công nguyên (“TCN”) đã nói đến những khái niệm về quyền con người ở một mức độ nhất định tuy nhiên bộ luật này hiện chưa được tìm thấy. Bộ luật cổ nhất hiện còn ngày nay là Neo-Sumerian Luật Ur-Nammu (khoảng 2050 TCN). Khoảng năm 1780 TCN, nhà vua Hammurabi xứ Babylon đã ban hành một đạo luật có tên là Bộ luật Hammurabi, theo đó mục đích của đức vua khi ban hành đạo luật này là để “ngăn ngừa những kẻ mạnh áp bức kẻ yếu…” làm cho “người cô quả có nơi nương tựa ở thành Babylon,…”, đem lại hạnh phúc chân chính và đặt "nền thống trị nhân từ “cho mọi thần dân trên vương quốc…”

Ngoài Bộ luật Hammurabi, vấn đề quyền con người còn sớm được đề cập trong nhiều văn bản pháp luật cổ khác của thế giới, trong đó tiêu biểu như Bộ luật của vua Cyrus Đại đế ban hành vào khoảng các năm 576 -529 TCN; Bộ luật do nhà vua Ashoka (Ashoka’s Edicts) ban hành vào khoảng các năm 272-231; Hiến pháp Medina (The Constitution of Medina) do nhà tiên tri Muhammad sáng lập vào năm 622; Đại Hiến chương Magna Carta (1215) và Bộ luật về quyền (1689) của nước Anh; Tuyên ngôn về các quyền của con người và của công dân (1789) của nước Pháp; Tuyên ngôn độc lập (1776) và Bộ luật về các quyền (1789) của nước Mỹ. Trong vấn đề này, mặc dù ít được nhắc tới trong các công trình nghiên cứu ở tầm quốc tế, song xét về mặt nội dung, bộ luật Hồng Đức hay Quốc triều Hình Luật (1470-1497) thời Hậu Lê của Việt Nam cũng xứng đáng được xếp vào danh sách những bộ luật cổ tiêu biểu của thế giới về quyền con người, bởi lẽ, nó đã chứa đựng nhiều quy định có tính nhân văn sâu sắc, trong đó bao gồm cả các quy định cụ thể về quyền của phụ nữ, trẻ em, v.v.. mà được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đánh giá rất cao.

Tuy nhiên, trong lịch sử phát triển của nhân loại, các tư tưởng về quyền con người không chỉ được thể hiện trong các đạo luật, mà còn được phản ánh (một cách sâu sắc và cụ thể hơn) trong các tư tưởng, học thuyết tôn giáo, chính trị và pháp lý. Trước hết, xét về các học thuyết tôn giáo, tư tưởng về quyền con người từ lâu đã được thấm nhuần trong giáo lý của hầu hết các tôn giáo trên thế giới. Trên thực tế, trong số những tài liệu được cho là cổ xưa và toàn diện nhất xét về tư tưởng quyền con người mà nhân loại còn giữ lại được cho đến ngày nay; ngoài đạo luật Hammurabi và bộ Văn tuyển Nho giáo (Luận ngữ), các tài liệu còn lại đều là những kinh điển của tôn giáo, bao gồm: Kinh Vệ Đà của đạo Hinđu ở Ấn Độ, Kinh Phật của đạo Phật; Kinh Thánh của đạo Thiên chúa và Kinh Coran của đạo Hồi.

Xét về các học thuyết chính trị, pháp quyền, người ta ghi nhận rằng, vào thế kỷ thứ XXIV TCN, vua Symer đã sử dụng khái niệm “tự do” để bảo vệ những bà goá, trẻ mồ côi trước những hành vi bạo ngược của những kẻ giàu có và thế lực trong xã hội; còn nhiếp chính quan người Hy Lạp ở La mã là Arokhont Salon, ngay từ thế kỉ XI TCN đã ban bố một đạo luật trong đó xác định một số khía cạnh của dân chủ và quy định một số quyền của các công dân tự do trong mối quan hệ với các quan lại nhà nước. Người ta cũng ghi nhận rằng, trong thời kỳ diễn ra sự tàn bạo khủng khiếp của chế độ nô lệ ở La Mã cổ đại: “Trước Crêông, Antigone đã nói đến quyền không vâng lời và trước những nô lệ, Spartacusse đã nói về quyền chống lại áp bức”.Cũng trong thời kỳ này, Protagoras (490-420 TCN) và các nhà triểu học thuộc trường phái ngụy biện Sophism đã đưa ra quan niệm về sự bình đẳng và tự do giữa các cá nhân trong xã hội: “Thượng đế tạo ra mọi người đều là người tự do, không ai tự nhiên biến thành nô lệ cả.”

Trong thời kỳ Trung cổ ở Châu Âu, tự do của con người bị hạn chế một cách khắc nghiệt bởi sự cấu kết cai trị giữa vương quyền của chế độ phong kiến và thần quyền của nhà thờ Thiên chúa giáo. Tuy nhiên, trong bối cảnh đen tối đó vẫn xuất hiện những tư tưởng khai sáng về quyền con người mà dẫn đến việc ban hành các văn kiện pháp lý nổi tiếng nhất của nhân loại về lĩnh vực này. Điển hình trong số đó là Hiến chương Magna Carta do vua John của nước Anh ban hành năm 1215. Hiến chương đã khẳng định một số quyền con người, cụ thể như: quyền sở hữu, thừa kế tài sản; quyền tự do buôn bán và không bị đánh thuế quá mức; quyền của các phụ nữ goá chồng được quyết định tái hôn hay không; quyền được xét xử đúng đắn và được bình đẳng trước pháp luật….Quan trọng hơn, bản hiến chương này được coi là một trong những văn bản pháp luật đầu tiên của nhân loại đề cập cụ thể đến việc tiết chế quyền lực của nhà nước để bảo vệ các quyền của công dân, mà biểu hiện cụ thể ở hai quy phạm vẫn còn có giá trị đến tận ngày nay, đó là quy phạm về lệnh đình quyền giam giữ ( hay còn gọi là luật bảo thân- habeas corpus) trong đó bắt buộc mọi trường hợp tử hình đều phải qua xét xử và quyết định trước Toà và quy phạm về due process of law (luật tôn trọng tất cả các quyền hợp pháp của công dân)…

Thời kỳ Phục hưng ở Châu Âu là giai đoạn phát triển rực rỡ của các quan điểm, học thuyết về quyền con người. Tại đây, trong các thế kỷ XVII-XVIII, nhiều nhà triết học mà tiêu biểu là Thomas Hobbes (1588-1679), John Locke (1632 -1704), Thomas Paine (1731-1809), Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770-1831), John Stuart Mill (1806-1873), Henry David Thoreau (1817-1862)… đã đưa ra những luận giải về rất nhiều vấn đề lý luận cơ bản của quyền con người, đặc biệt là về các quyền tự nhiên và quyền pháp lý , mà vẫn còn có ý nghĩa quan trọng với việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người trong thời đại ngày nay.

Tuy nhiên, trước hết, những tư tưởng triết học về quyền con người ở Châu Âu thời kỳ Phục Hưng đã có ảnh hưởng quan trọng đến sự ra đời của những văn bản pháp luật về quyền con người ở một số nước của châu lục này, cũng như đến hai cuộc cách mạng nổi tiếng thế giới nổ ra vào cuối những năm 1700 ở Mỹ và Pháp. Hai cuộc cách mạng này đã có những đong góp rất to lớn vào sự phát triển của tư tưởng và quá trình lập pháp về quyền con người không chỉ ở hai nước Mỹ và Pháp mà còn trên toàn thế giới. Trong cuộc cách mạng thứ nhất, năm 1776, mười ba thuộc địa ở Bắc Mỹ đã tuyên bố độc lập với đế chế Anh thông qua một văn bản có tên là Tuyên ngôn độc lập, trong đó khẳng định rằng: “… mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền đó có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.” Mặc dù không phải văn kiện pháp lý đầu tiên trên thế giới đề cập đến vấn đề này, tuy nhiên, Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ có thể coi là sự xác nhận chính thức đầu tiên trên phương diện nhà nước về quyền con người. Đánh giá về văn kiện này, Karl Marx đã cho rằng, nước Mỹ là nơi lần đầu tiên xuất hiện ý tưởng về nền cộng hoà dân chủ vĩ đại, nơi đã tuyên bố bản tuyên ngôn đầu tiên về quyền con người.

Trong cuộc cách mạng thứ hai, vào năm 1789, nhân dân Pháp, mà chủ yếu là thợ thuyền, trí thức và một số thị dân, đã đứng lên lật đổ chế độ phong kiến, thành lập nền cộng hòa đầu tiên, đồng thời công bố bản Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền nổi tiếng của Pháp. Điều 1 bản Tuyên ngôn này khẳng định: “Người ta sinh ra và sống tự do và bình đẳng về các quyền …” Đặc biệt, không dừng lại ở những nguyên tắc, ý tưởng như Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền 1789 đã xác định một loạt các quyền cơ bản của con người như quyền tự do và bình đẳng, quyền sở hữu, được bảo đảm an ninh và chống áp bức, quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền không bị bắt giữ trái phép, quyền được coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội, quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng, quyền tự do ngôn luận, quyền tham gia ý kiến vào công việc nhà nước…, đồng thời đề cập đến những biện pháp cụ thể nhằm bảo đảm thực hiện các quyền này. Nhưng đáng chú ý hơn là, chỉ trong vòng 35 năm ( từ 1795 đến 1830), hơn 70 bản hiến pháp mang dấu ấn của những luận điểm trong bản Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền 1789 đã được thông qua ở Châu Âu. Điều đó chứng tỏ những tư tưởng về quyền con người đã thẩm thấu một cách nhanh chóng và gây ra những biến động xã hội rất to lớn ở châu lục này. Nó cũng chứng tỏ rằng, giai cấp tư sản đã nhận thấy, nắm lấy và tận dụng triệt để quyền con người như là một phương tiện hữu hiệu trong cuộc đấu tranh giành quyền lực với giai cấp phong kiến.

Quyền con người chỉ thực sự nổi lên như một vấn đề ở tầm quốc tế từ những năm đầu của thế kỷ XIX, cùng với cuộc đấu tranh nhằm xoá bỏ chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ diễn ra rất mạnh mẽ và liên tục tới tận cuối thế kỷ đó và phong trào đấu tranh đòi cải thiện điều kiện sống cho người lao động và bảo vệ nạn nhân trong các cuộc xung đột vũ trang thế thới. Vào năm 1864, Hội nghị ngoại giao quốc tế đầu tiên họp ở Geneva (Thuỵ Sĩ) đã thông qua Công ước về cải thiện điều kiện của người bị thương trong các cuộc chiến trên trên bộ (Công ước Geneva thứ I). Năm 1899, Hội nghị hoà bình quốc tế họp ở La Hague (Hà Lan) đã thông qua Công ước về các luật lệ và tập quán trong chiến tranh. Đây là những văn kiện đầu tiên của luật nhân đạo quốc tế - ngành luật mà tuy chỉ giới hạn trong việc bảo vệ những nạn nhân chiến tranh trong hoàn cảnh xung đột vũ trang, nhưng chứa đựng những giá trị và quy phạm có quan hệ chặt chẽ với luật quốc tế về quỳên con người ở giao đoạn sau này.



Vào những năm đầu của thế kỷ XIX, cùng với việc thành lập Hội quốc liên và Tổ chức lao động quốc tế (“ILO”), quyền con người càng trở thành một vấn đề có tầm quốc tế rộng lớn. Cả hai tổ chức này đã nâng nhận thức và các hoạt động về quyền con người lên một mức độ mới. ILO, trong Điều lệ của mình, đã khẳng định, hoà bình trên thế giới chỉ có thể được thực hiện nếu được dựa trên cơ sở bảo đảm công bằng xã hội cho tất cả mọi người. Trong Thoả ước của Hội quốc liên, các nước thành viên tuyên bố chấp nhận nghĩa vụ bảo đảm, duy trì sự công bằng và các điều kiện nhan đạo về lao động cho đàn ông, phụ nữ và trẻ em cũng như bảo đảm sự đối xử xứng đáng với những người bản xứ tại các thuộc địa của họ. Cũng trong thời kỳ này, một loạt văn kiện khác của luật nhân đạo quốc tế đã được thuông qua trong hội nghị La Hague, tại các Hội nghị của Hội Chữ Thập đỏ quốc tế và Hội Quốc liên, bổ sung những bảo đảm rộng rãi hơn với các quyền con người trong hoàn cảnh chiến tranh và xung đột vũ trang. Cũng trong thời kỳ này, cuộc Cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới nổ ra ở nước Nga vào tháng 10 năm 1917, mở ra một chương mới trong lịch sử chính trị quốc tế, đồng thời tạo ra những biến chuyển quan trọng trong tư tưởng và thực tiễn về quyền con người. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trong những thập kỷ 1940 đến 1980 của thế kỷ trước, các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá được đề cao, và đặc biệt, các quyền độc lập và tự quyết của các dân tộc được cổ vũ. Đây là những quyền con người mà trước đó đã không hoặc rất ít được đề cập trên các diễn đàn quốc tế.

Sau chiến tranh thế giới thứ II, việc Liên Hợp Quốc (“LHQ”) ra đời, thông qua Hiến chương ngày 24 tháng 10 năm 1945, Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người vào ngày 10 tháng 12 năm 1948 và hai Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội (năm 1966) đã chính thức khai sinh ra ngành luật quốc tế về quyền con người, đặt nền móng cho việc tạo dựng một nền văn hoá quyền con người- nền văn hoá mới và chung của mọi dân tộc trên trái đất. Mặc dù ngay sau khi LHQ được thành lập cho đến cuối thập kỷ 1970, cuộc Chiến tranh Lạnh trên thế giới phần nào ảnh hưởng đến những nỗ lực quốc tế trên lĩnh vực này, song cho đến ngày nay, một hệ thống hàng trăm văn kiện quốc tế về quyền con người đã được thông qua, một cơ chế quốc tế về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người đã được hình thành, biến quyền con người thành một trong các yếu tố chính trị chi phối các quan hệ quốc tế.

Hội nghị thế giới về quyền con người năm 1993 đánh dấu một bước ngoặt trong những nỗ lực thúc đẩy các quyền con người trên thế giới sau những trì trệ ở thời kỳ “Chiến tranh Lạnh”. Hội nghị đã khẳng định mối liên hệ không thể tách rời giữa dân chủ, phát triển và quyền con người cũng như giữa các quyền con người về dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội, văn hoá. Hội nghị đã thiết lập “một khuôn khổ mới cho việc đối thoại, hợp tác và phối hợp của cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực quyền con người” mà cho phép thúc đẩy một cách thực sự hiệu quả các quyền con người ở tất cả các cấp độ địa phương, quốc gia, khu vực và quốc tế. Tại hội nghị này, các đại biểu đã nhất trí thông qua Tuyên bố Viên kèm theo Chương trình hành động chung về quyền con người với các mục tiêu rất cụ thể, trong đó đưa ra những biện pháp mới mang tính lịch sử để thúc đẩy và bảo vệ các quyền của phụ nữ, trẻ em, người bản địa và để tăng cường năng lực của hệ thống LHQ trong việc giám sát sự tuân thủ các chuẩn mực quốc tế về quyền con người trên thế giới…

Cùng với Hội nghị Viên, những phát triển gần đây trên lĩnh vực quyền con người bao gồm việc thành lập các toà án hình sự quốc tế lâm thời và thường trực để xét xử các tội ác chiến tranh, tội ác chống nhân loại, tội diệt chủng và tội xâm lược và việc thành lập Hội Đồng LHQ về quyền con người (năm 2006, thay thế cho Uỷ ban của LHQ về quyền con người trước đó) đã làm cho cuộc đấu tranh vì quyền con người thực sự phát triển trên phạm vi toàn cầu với một cơ sở pháp lý vững chắc, được mở rộng không ngừng cả về nội dung và mức độ bảo đảm. Song song và làm nền tảng cho tiến trình phát triển đó, dòng tư tưởng, lý thuyết về quyền con người cũng ngày càng được củng cố và phát triển, đi sâu làm rõ những khía cạnh thực tiễn của quyền con người, biến quyền con người trở thành một trong những khái niệm được đề cập, chấp nhận và cổ vũ một cách rộng khắp, thường xuyên và nồng nhiệt nhất trong đời sống hiện nay của nhân loại.

Dưới đây là một số sự kiện, văn kiện đánh dấu sự phát triển của tư tưởng về quyền con người của nhân loại từ trước tới nay:



1789 TCN

Bộ luật Hammurabi

1200 TCN

Kinh Vệ đà

570 TCN

Luật của Cyrus Đại Đế

586-456 TCN

Kinh Phật

479-421 TCN

“Luận ngữ” của Khổng Tử

7-1 TCN

Kinh Thánh

610-612

Kinh Kôran

1215

Đại hiến chương Magna Carta (Anh)

1689

Luật về Quyền (Anh); “Hai khảo luận về chính quyền “ của John Locke

1776

“Tuyên ngôn độc lập” (Mỹ)

1789

“Tuyên ngôn quyền con người và quyền công dân” (Pháp); Bộ luật về các quyền (10 tu chính án đầu tiên của Hiến pháp) (Mỹ)

1791

“Các quyền của con người” của Thomas Pain

1859

“Bàn về tự do” của John Stuart Mill

1863-1864

Uỷ ban Chữ thập đỏ quốc tế được thành lập, Công ước Geneva lần thứ I được thông qua, mở đầu cho ngành luật nhân đạo quốc tế

1917

Cách mạng tháng mười Nga

1919

Hội quốc liên và ILO được thành lập

1945

LHQ ra đời, thông qua Hiến chương LHQ

1948

Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền

1966

Công ước quốc tế về quyền chính trị, dân sự và Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá

1968

Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ nhất tại Teheran (Iran)

1993

Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ hai tại Viên (Áo), thông qua Tuyên bố Viên và Chương trình hành động

2002

Quy chế Rôma có hiệu lực, Toà án hình sự quốc tế (thường trực) được thành lập

2006

Cải tổ bộ máy quyền con người của LHQ, thay thế Uỷ ban quyền con người bằng Hội đồng quyền con người

3. Sự hình thành và phát triển tư tưởng về quyền con người ở Việt Nam


Với ý nghĩa là nền tảng của sự tôn trọng các quyền con người, giống như ở nhiều dân tộc khác, lòng khoan dung, nhân đạo cũng là những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Điều này cơ bản xuất phát từ lịch sử hàng ngàn năm chống chọi với thiên tai và các thế lực ngoại xâm, lịch sử thăng trầm, điều kiện sống khắc nghiệt và ảnh hưởng của Phật giáo, Nho giáo, Khổng giáo…đã hun đúc nên những giá trị tinh thần tiêu biểu của dân tộc, trong đó tính kiên cường, nhẫn nại, tinh thần nhân ái, vị tha trong đối xử với những người lầm lỗi, ngay cả với những kẻ xâm lược4.

Thời cổ đại, Tư tưởng khoan dung, nhân đạo kể trên trước hết thể hiện trong các truyền thuyết và kho tàng thơ ca dân gian của người Việt Nam (“bầu ơi thương lấy bí cùng / Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” – Ca dao). Những tư tưởng đó còn ảnh hưởng đến cách thức cầm quyền qua các thời đại. Từ thời các Vua Hùng dựng nước, các triều đại phong kiến Việt Nam đã chú ý kết hợp giữa “nhân trị” với “pháp trị”, giữa “trị quốc” với “an dân”.



Thời kỳ phong kiến, tư tưởng “lấy dân làm gốc” đã được Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi đề cập một cách trực tiếp và gián tiếp từ những thế kỷ XIV, XV…Có lẽ vì vậy mà lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam không có nhiều trang quá tàn bạo, như nhiều nước khác trên thế giới mà ngược lại, hầu như ở thời kỳ nào cũng có những ví dụ về tinh thần khoan dung, nhân đạo đối với những kẻ lầm lạc và giặc ngoại xâm5.

Vào thời kỳ nhà Lý (1010-1225), bộ Hình thư được ban hành là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử pháp quyền Việt Nam, nội dung của bộ luật thể hiện tính nhân đạo rất cao. Mặc dù được ban hành để bảo vệ quyền lợi của Nhà nước phong kiến tập quyền, song bộ luật này đã bao gồm những quy định nhằm hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền áp bức dân lành của giới quan liêu quý tộc, bộ luật này còn chứa nhiều quy định mang tính nhân văn, nhân đạo, chẳng hạn như không quy định hình phạt tử hình, cấm mua bán trẻ em làm nô lệ… Hội nghị Diên Hồng (1284) dưới triều Trần (1225-1400) thể hiện một cách đặc biệt sinh động tinh thần “lấy dân làm gốc”. Tư tưởng này sau đó cũng được khắc họa bởi vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo (1232-1300), người trước khi qua đời còn khuyên vua cần quan tâm đến dân, “khoan sức dân” để làm kế “sâu rễ bền gốc”. Ở một góc độ khác, tinh thần nhân đạo, nhân văn thời nhà Trần còn được phản ánh qua hình ảnh nhà vua Trần Nhân Tông (1258-1308) người được coi là ông Tổ của Phật giáo Việt Nam6.

Tinh thần khoan dung, nhân đạo ở thời Lê (1428-1778) được thể hiện ngay trong giai đoạn xây dựng vương triều, qua việc đối xử nhân đạo với 10 vạn quân Minh bại trận. Đặc biệt ở thời Lê là bộ Quốc triều hình luật (thế kỷ XV) hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức. Bộ luật này đã kế thừa những giá trị tinh hoa truyền thống về kỹ thuật lập pháp và đặc biệt là tư tưởng nhân đạo của dân tộc, được nhiều nhà luật học trong và ngoài nước coi là một trong bộ luật chặt chẽ, đầy đủ, tiến bộ nhất trong các triều đại phong kiến Việt Nam, có thể xếp ngang hàng với những bộ luật nổi tiếng trên thế giới. Bộ luật chứa đựng nhiều điều khoản có ý nghĩa khẳng định và bảo vệ các quyền con người, tiêu biểu như: bảo vệ tính mạng, nhân phẩm và tài sản của người dân; bảo vệ người dân khỏi bị nhũng nhiễu bởi giới quan lại, cường hào; bảo vệ những đối tượng yếu thế trong xã hội (những người mồ côi, con nuôi, những kẻ đau ốm không nơi nương tựa…). Đến triều đại Tây Sơn, mặc dù chỉ duy trì vương quyền trong một thời gian ngắn (1789-1802), song qua một số chiếu chỉ của vua Quang Trung như chiếu lên ngôi, chiếu cầu hiền, chiếu khuyến nông…cho thấy sự kế thừa tinh thần nhân văn của dân tộc một cách rất rõ nét. Ở triều Nguyễn (1802-1945) mặc dù Bộ hoàng triều luật lệ (còn gọi là Bộ luật Gia Long) bị coi là khắc nghiệt, song nhiều vua nhà Nguyễn cũng có nhiều điểm tiến bộ, phản ánh tinh thần nhân văn, nhân đạo của dân tộc, trong đó có chính sách kêu gọi người dân khai khẩn đất hoang, góp phần mỏ mang bờ cõi về phía Nam7.

Tư tưởng về quyền con người xuyên suốt trong thời kỳ phong kiến ở Việt Nam còn thể hiện ở truyền thống dân chủ trong nhiều lĩnh vực, mà tiêu biểu trong việc quản lý cộng đồng, tuyển dụng và sử dụng nhân tài, trong việc thảo luận và quyết định các cộng việc quốc gia đại sự. Như vậy, có thể khẳng định dân tộc Việt Nam có truyền thống nhân đạo và tôn trọng con người, nhiều triều đại trong lịch sử đã biết trân trọng ý kiến nhân dân ở những mức độ nhất định.



Thời kì Pháp thuộc (đến cuối cuối thế kỷ XIX), nhiều trí thức Việt Nam như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng…đã tiếp thu những tư tưởng tiến bộ về tự do bình đẳng, bác ái, tư tưởng về dân quyền, dân chủ của Cách mạng tư sản. Một trong những chủ trương của Phong trào Duy Tân là vận động nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí, phát triển dân sinh, vận động dân quyền. Trong sách “Tự phán”, Phan Bội Châu cho biết sau khi đi Nhật về năm 1906, Phan Châu Trinh đã khẳng định lập trường: “chỉ nên đề xướng dân quyền, dân đã biết có quyền thì việc khác có thể tính lần được”. Có thể khẳng định Phân Châu Trinh là nhà hoạt động chính trị đầu tiên đề xướng dân quyền ở Việt Nam. Trong giai đoạn này nhiều hoạt động đòi thực thi dân quyền, diễn ra khắp nơi, đặc biệt là các đô thị lớn, đa dạng về hình thức và nội dung, có sự tham gia của nhiều giới, nhiều thành phần trong xã hội, không chỉ học sinh, công nhân mà cả nông dân và trí thức, nổi bật nhất là các phong trào đòi tự do báo chí, tự do xuất bản, tự do lập hội…

Giai đoạn 1945 – 1954, do điều kiện chiến tranh, trong chín năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954), mặc dù những tư tưởng và quy phạm pháp lý tiến bộ về quyền con người trong Hiến pháp năm 1946 vẫn được kế thừa những sự phát triển về mặt lập pháp về quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Tuy nhiên, tư tưởng về quyền con người vẫn được thể hiện rõ nét qua bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (“VNDCCH”) năm 1946, trong đó khẳng định nguyên tắc đoàn kết toàn dân, không có sự phân biệt trai, gái, nòi giống, giai cấp hay tôn giáo, đảm bảo các quyền tự do dân chủ, thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.

Giai đoạn 1954 – 1975 chứng kiến sự kiện Việt Nam bị chia cắt hai miền theo Hiệp định Geneva năm 1954. Trước tình hình đó, miền Bắc đẩy mạnh sản xuất phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội, tạo bàn đạp để miền Nam chống Mỹ, thực hiện thống nhất đất nước. Trong giai đoạn này, Việt Nam tiếp tục tiếp thu các tư tưởng về quyền con người trên thế giới để phản ánh vào pháp luật trong nước, tiếp tục nghiên cứu chỉnh sửa và cho ra đời hiến pháp mới (1959) nêu cao các giá trị con người trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, có thể nói, giai đoạn này Việt Nam phải trải qua cuộc chiến tranh tàn khốc, nhu cầu phục vụ chiến tranh tăng cao nên chỉ có các quyền tập thể được chú trọng trong khi các quyền cá nhân bị coi nhẹ.

Giai đoạn sau năm 1975 đến nay, tình hình thế giới và trong nước có sự chuyển biến tích cực. Ở trong nước, cuộc chiến tranh đã chấm dứt, non sông thu về một mối, nhu cầu xây dựng lại đất nước và phát triển các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội và hội nhập thế giới được đặt ra như những yêu tiên hàng đầu của Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã thực hiện đổi mới toàn bộ nền kinh tế năm 1986, thực hiện chính sách mở cửa với bên ngoài và gia nhập LHQ vào năm 1977 đồng thời tham gia các điều ước quốc tế về nhân quyền vào đầu những năm 1980. Trên thế giới, LHQ ngày càng thể hiện được vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt và đề cao giá trị quyền con người, thể hiện qua việc đề xuất hàng loạt các công ước quốc tế về quyền con người.

Cho đến nay, Việt Nam đã tham gia hầu hết các công ước quốc tế về nhân quyền. Cụ thể, Việt Nam tham gia Công ước về xóa bỏ hình thức phân biệt đối xử về chủng tộc năm 1965 (gia nhập ngày 09 tháng 6 năm 1961), các Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1996 (gia nhập năm 1982), Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (phê chuẩn năm 1982), Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 (phê chuẩn năm 1990), Công ước về cấm và hành động ngay để xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất năm 1999 (phê chuẩn năm 1990)… Bên cạnh việc gia nhập và phê chuẩn các công ước quốc tế về quyền con người, Việt Nam đã cụ thể hóa hầu hết các cam kết quốc tế về nhân quyền trong các bản hiến pháp qua các thời kỳ từ năm 1946 đến gần đây nhất là hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001).

Như vậy, sự hình thành và phát triển nhân quyền ở Việt Nam qua các thời kỳ cho thấy:

(i) Thời kỳ xã hội phong kiến vấn đề nhân quyền không đề cập một cách cụ thể, nhưng ở một góc độ nào đó, các vương triều luôn quan tâm và đảm bảo nhân quyền, nổi bật nhất là sự ra đời của Bộ luật Hồng Đức, tư tưởng “lấy dân làm gốc” của Trần Hưng Đạo, “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” của Nguyễn Trãi. Việc thực thi và đảm bảo quyền con người của xã hội phong kiến xuất phát tự thực tế quản lý xã hội, các vương triều tự đề ra để thực hiện, không chịu áp lực bên ngoài.

(ii) Thời kỳ xã hội thuộc địa nửa phong kiến, Phan Châu Trinh cùng các bậc tiền bối chịu nhiều ảnh hưởng của cuộc Cách mạng tư sản, đã tiếp thu tư tưởng tiến bộ tự do, bình dẳng, bác ái vào xã hội Việt Nam, đồng thời yêu cầu nhà cầm quyền thực thi, tuy nhiên không được chấp nhận và bị đàn áp dã man.

(iii) Thời kỳ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (“CHXHCN Việt Nam”), tham gia hầu hết các văn kiện quốc tế về quyền con người của LHQ, cố gắng cụ thể hóa các quy định và cam kết về nhân quyền trong các công ước vào hiến pháp và xây dựng, hoàn thiện hành lang pháp lý để đảm bảo cá giá trị nhân quyền.

Tóm lại, sự hình thành và phát triển nhân quyền ở Việt Nam qua các thời kỳ, trải qua 03 giai đoạn: giai đoạn thứ nhất, Việt Nam chú trọng, đề ra, thực thi các quyền cơ bản của con người (xã hội phong kiến); giai đoạn thứ hai, Việt Nam tích cực du nhập các tư tưởng tiến bộ về nhân quyên để yêu cầu nhà cầm quyền thực thi (thời kỳ xã hội thuộc địa nửa phong kiến với Phan Châu Trinh là người khởi xướng); và cuối cùng giai đoạn ba, Việt Nam tích cực tham gia các văn kiện của LHQ về đảm bảo quyền con người, cụ thể hóa các cam kết quốc tế vào hiến pháp và xây dựng, từng bước hoàn thiện các hành lang pháp lý về quyền con người va đảm bảo quyền con người được thực hiện có hiệu quả tại Việt Nam.



tải về 0.65 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương