- Giúp cho sự bảo quản thuận lợi hơn.
Các phương pháp bào chế.
I. Bào chế chỉ dùng lửa
1. Sao (hoả chế)
Phơng pháp này hay gặp trong bào chế dược liệu. Đây là cách dùng sức lửa trực tiếp hay gián tiếp để xử lý dược liệu. Mục đích của việc sao dược liệu.
- Làm khô dược liệu để nghiên cứu hay bảo quản. Có một số dược liệu phơi khô rồi mới sao, hoặc trong quá trình bảo quản bị mốc đa sao lại; Số khác sao ngay từ khi cấy còn tơi. Trong quá trình sao, dược liệu tiếp xúc trực tiếp với sức nóng khô, kết hợp với quá trình đảo liên tục, dược liệu nhanh đạt đến độ ẩm quy định.
- Làm thuốc có mùi thơm, giảm bớt mùi vị khó chịu, đa số dược liệu khi sao lên, đều có mùi thơm, màu vàng đen, nhất là các loại hạt: y dì, thảo quyết minh. Mùi thơm của dược liệu khi sao là do sự bay hơi của một số tình dầu hay một số chất thơm được hình thành trong quá trình sao.
- Tiêu diệt vi khuẩn, nấm mốc và men để ổn định dược liệu. Với nhiệt độ 80-1200C đa số vi khuẩn, nấm, mốc đều bị diệt.
- Sao để thay đổi tác dụng của thuốc ví như: thảo quyết minh, hạt ba đậu.
Dụng cụ sao: Dùng chảo gang hay nồi đất dầy để sao dược liệu là tốt nhất. Mức độ truyền nhiệt của các dụng cụ này tương đối ổn định, nhiệt độ rang từ từ và giữ sức nóng lâu.
Kỹ thuật sao dược liệu là kỹ thuật điều khiển nhiệt độ và thời gian. Tuỳ mục đích chữa bệnh để sử lý dược liệu ở các nhiệt độ khác nhau theo những phương pháp sao hay gặp sau đây:
a. Sao trực tiếp
* Sao qua (vi sao) là phương pháp xử lý dược liệu ở nhiệt độ thấp (50-600C), chủ yếu làm khô và thơm dược liệu. Phương pháp này thường áp dụng cho dược liệu có cấu tạo mong manh đễ làm khô, dễ cháy (hoa, lá, dâu ngô) và các dược liệu có hoạt chất không chịu được nhiệt độ cao - tinh dầu.
Cách sao: Để khống chế nhiệt độ, ngời ta đốt chảo nóng già rồi tắt lửa cho dược liệu vào đảo nhẹ cho đến khi dược liệu trên chảo nóng đều và khô. Hay cũng có thể cho dược liệu vào chảo đun nhỏ lửa đến lúc dược liệu trong chảo nóng đều rồi khô. Ví dụ sao râu ngô, kinh giới, búp chè.
* Sao vàng (hoàng sao) là phương pháp hay gặp nhất để dược liệu có mùi thơm, khô, đồng thời cũng để diệt men và chuyển màu dược liệu.
Kỹ thuật sao: Sử lý dược liệu ở nhiệt độ 1000C. Mặt ngoài dược liệu khô vàng, sức nóng đều, thấm sâu vào trong dược liệu, lượng nước thoát ra, nhưng không làm biến đổi mẩu ở bên trong.
Cách làm: Đốt chảo nóng khoảng 60-700C bỏ dược liệu vào, đun lửa nhỏ, thời gian đun kéo dài, đảo chậm đến khi dược liệu có màu vàng, mùi thơm. Ví dụ: sao bạch thược, thảo quyết minh... Trong nhiều trường hợp, người ta còn sao vàng hạ thỏ để lập lại cân bằng âm dương trong các vị thuốc khi trị bệnh mạn tính, bệnh ghép. cách làm: khi dược liệu đã vàng đem đổ hay úp chảo dược liệu xuống đất đậy kín lại đến khi nguội. Cách sao này có giá trị điều hoà tác dụng dược lý của vị thuốc.
* Sao thâm (thấm hoàng sao): Ngoài các mục đích như sao vàng, sao thâm còn làm tăng thêm tác dụng kích thích tiến hoá của vị thuốc. Kỹ thuật sao cũng nh hoàng sao nhng ở nhiệt độ cao hơn và thời gian lâu hơn. Cuối thời gian sao, ta đảo nhanh hơn cho đến lúc dược liệu có màu vàng thâm như cánh gián: sao bạch truật, sao trà...
* Sao tồn tính (hắc sao): Mục đích của phương pháp này nhằm thay đổi tính năng của thuốc, làm tăng thêm tác dụng cầm máu của thuốc. Sao ở 1200C cho đến lúc dược liệu cháy khoảng 70%, nhưng bẻ bên trong vẫn còn màu vàng, dược liệu vẫn cha mất hết tính năng.
Cách sao: Đốt chảo nóng già sau đó cho thuốc vào đảo liên tục đến khi bốc khói, tiếp tục đảo nhanh làm cho dược liệu cháy đều. Khi dược liệu có mầu đen, bắc chảo ra, đậy vung cho dược liệu tiếp tục cháy ầm ỉ một lúc nữa. Ví nh sao kinh giơí, đỗ trọng, ngãi cứu.
* Sao cháy (sao than): Cũng tiến hành như trên nhng khống chế ở nhiệt độ cao hơn, thời gian lâu hơn, để thuốc cháy đến 80%. Mục đích của phơng pháp này làm cho dược liệu chỉ còn tác dụng cầm máu và giải độc. Ví nh sao trắc bách diệp bồ hoàng thán.
2. Nung (đoàn)
Cho vị thuốc trực tiếp vào nồi đất, chảo gang để nung, đốt. Cách này hay dùng chế viến các vị thuốc là khoáng vật, vỏ sò, vỏ hà, lô cam thạch (chính là ZnCO3 có lẫn chì, sắt, crôm, magie, cadmi...).Đốt, nung để loại bỏ các chất lẫn trong vị thuốc.
3. Vùi hay lùi
Bọc vị thuốc trong giấy ẩm hay hồ tinh bột rồi vùi vào tro nóng hay lửa nhẹ cho tới khi giấy cháy đen hay bột khô, chờ nguội bóc bỏ lớp ngoài để dùng. Phương pháp này nhằm lấy bớt hay loại bỏ các chất dầu có trong vị thuốc như chế nhục đậu khấu.
4.Tẩm sao (trích)
Cách sao này nhằm mục đích điều khiển tác dụng dược lý của vị thuốc, dẫn thuốc vào cơ quan và bộ phận mong muốn trong cơ thể (dẫn thuốc qui kinh). Dược liệu sau khi đã thái phiến làm khô, được tẩm với 5-20% chất lỏng cần tẩm, tiếp tục ủ một thời gian cho dược liệu thấm gấm đều dung dịch cầm tẩm rồi sao vàng. Hay cũng có thể sau khi đã làm nóng dược liệu, người ta phun đều chất lỏng cần tẩm, rồi tiếp tục sao vàng. Tuy từng trờng hợp cụ thể mà sao tẩm với chất lỏng sau
* Tẩm rượu sao: rượu làm giảm tinh lạnh và tăng khả năng phát tán của thuốc. Sau khi uống, thuốc sẽ đi từ các cơ quan bên trong ra ngoài, từ phía dưới lên phía trên cơ thể: sao hoàng liên, hoàng bá...
*Tẩm giấm sao: giấm có vị chua, tinh ôn tác dụng vào can kinh. Thuốc tẩm giấm có tác dụng dẫn thuốc vào gan, giảm đau và bớt mùi tanh nên dễ dùng.
*.Tẩm muối sao: sẽ tăng khả năng dẫn thuốc vào thận, đồng thời có tác dụng diều vị, làm săn, se niêm mạc.
Ngoài ra còn dùng các chất lỏng khác: nước gừng, nước gạo, nước tiểu đồng (trẻ em)... Đa số chúng đều là dung môi hoà tan của hoạt chất nên có ảnh hởng đến độ hoà tan của hoạt chất trong vị thuốc.
II. Phơng pháp bào chế chỉ dùng nước.
Mục đích
-
Làm cho vị thuốc mềm mại, dễ thái mỏng
-
Giảm bớt độc tính, tinh khiết, loại bỏ tạp chất.
Phương pháp dùng nước bao gồm:
-
Rửa (tẩy): làm vị thuốc sạch hết đất, cát bẩn, không được ngâm lâu.
-
Ngân (phiêu): tác dụng và cách làm cũng giống như rửa nhưng ngâm lâu hơn làm thuốc giảm mùi tanh, vị mặn
-
Dội (bào): cho thuốc vào nước lạnh hay nước sôi tuỳ y chờ một thời gian, khi thuốc mềm ra, bóc bỏ vỏ ngoài bào mỏng: chế khổ hạng nhân, hạt đào... Chú ý:
-
Không nên ngâm quá lâu sẽ mất hoạt chất, giảm tác dụng trị bệnh.
-
Trong khi ngâm tuỳ dược liệu và mục đích chữa bệnh người ta có thể ngâm dược liệu trong nước gạo nếp vo, nước gừng, nước bồ kết... ngâm rôi lại phơi, phơi rồi lại ngâm để loại bỏ độc chất và tăng thêm tác dụng trị bệnh.
III. Phương pháp dùng cả lửa và nước.
-
Chưng hay đồ: đun cách thuỷ vị thuốc như chế sinh đại, hà thủ ô...
-
Đun: cho thuốc vào nước lã luộc chín
-
Tôi: nung đỏ vị thuốc rồi cho vào nớc lã hay nước của vị thuốc khác tôi đi tôi lại nhiều lần.
-
Thuốc sắc:
Là dạng thuốc lỏng, chế bằng cách cho thuốc trộn lẫn với nước, rồi sắc bằng lửa trực tiếp hoặc cách thuỷ. Từ thế kỷ 17 trước Công nguyên người đầu tiên là Y Doãn đã dùng phương pháp sắc thuốc để chữa bệnh.
Dược liệu trước khi đa và sắc, thường được cắt nhỏ ra. Với thân, cành, cắt dài không quá 2 - 5 cm, bề dày không quá 0,3 mm, quả và hạt cũng không được dày quá 0,5 mm. Cắt nhỏ xong, cho vào nồi men hay nồi đất, nhưng phải có nắp đậy kín, rồi đổ nước vào sắc. Lượng nước cho vào, dựa theo các căn cứ sau đây:
- Tuỳ theo hàm lượng nước có sẵn trong dược liệu.
- Tuỳ theo thời gian đun sôi lâu hay mau (không thể máy móc theo nguyên tắc 3 bát lấy 1).
- Tuỳ theo tính chất tác dụng của vị thuốc mạnh hay yếu do đó ta có thể cho nước theo tỷ lệ sau: với những thuốc tác dụng không mạnh lắm tỷ lệ thuốc/nước 1/10. Với những thuốc tác đụng dược lý mạnh tỷ lệ thuốc/nước /400. Ngoài ra còn cộng thêm 15 – 20 % nước bù hao do thuốc khô ngấm, nước bay hơi khi đun.
Cách sắc
- Cách tốt nhất vẫn là dạng sắc cách thuỷ, để nguội từ từ, gạn, lọc uống. Nhưng cách này ít được sử dụng trong thực tế chữa bệnh vì cầu kỳ.
- Thường hay bỏ vào nồi đất hay men, đậy vung, đun sôi 15-30 phút. Sau đó mới bỏ những vị thuốc có tinh dầu vào, nh trần bì, bạc hà, hương nhu... tiếp tục đậy kín vung, đun nhỏ lửa một lúc, chở nguội bắc ra, gạn lấy nước thuốc uống. Thuốc sắc chỉ dùng để uống.
Với cách chế biến này thuốc có nhiều tạp chất, hàm lượng tinh dầu bị giảm đi nhiều, một số glucozit có thể bị thuỷ phân và thay đổi tác dụng của một số thuốc khác. Một số thành phần kháng sinh thảo mộc có thể bị mất tác dụng, các enzim bị phá huỷ.
IV. Làm bột
Dược liệu đã qua giai đoạn cắt nhỏ phơi khô, tiếp tục cho nghiền nhỏ trong các thuyền tán hay trong các máy nghiền ... rồi cho qua rây tuỳ mục đích và cách sử dụng thuốc. Bột thật nhỏ để chữa các bệnh ở niêm mạc mùi, mắt sẽ dùng dây cỡ lỗ 0,01-0,02 mm. Bột to hơn dùng đắp ngoài hay chế các dạng thuốc khác: hãm nấu cao
Ta có thể chế bột của một loại hay bột hỗn hợp của nhiều loại dược liệu.
Nếu lượng thuốc sử dụng ít dới 1 gram ta nên trộn thêm tá dược cũng ở dạng bột. Khi thuốc có mùi vị khó chịu, vật nuôi không chịu ăn, phải dựa vào đặc điểm của từng loại động vật mà thêm tá dược.
Đ. Làm viên
Tuỳ động vật nuôi, có thể làm viên to hoặc nhỏ. Dạng thuốc viên thường bao giờ cũng cho thêm tá dược.
1. Làm viên bằng phương pháp lắc thúng (viên tròn)
Đây là một phương pháp thủ công có tính độc đáo trong bào chế đông y.
Nguyên tắc của phương pháp lắc thúng là dùng nước hay nước thuốc loãng và bột gây một nhân nhỏ gọi là con viên sau đó cho bột thuốc bao dần vào xung quanh cho tới mức độ yêu cầu. Phơng pháp này thường áp dụng với những loại thuốc không có đường, mật hay ít đờng mật
Dụng cụ cần thiết cho phương pháp lắc thúng
Dụng cụ nghiền tán thuốc, rây các cỡ
Nồi để nấu hay cô cao
Thúng lắc bằng giang hay cật tre, tốt nhất là thúng nhôm.
Khay men, chậu men, đồ đựng bột thuốc, viên thuốc, chổi quét giống như chiếc bút lông to dùng để vẫy nước vào viên trong quá trình lắc thúng.
chuẩn bị nguyên liệu làm viên
Những vị thuốc nào có thể nấu thành cao loãng thì nấu để làm chất dính. Vị nào có thể chế thành cao khô hay mềm đem nấu để tăng chất, giảm lượng viên. Vị nào tán thành bột cần tán thật nhỏ, mịn.
Nếu trong đơn không có vị thuốc nào để nấu cao lỏng, dính được thì mới cần dùng thêm tá dược dính.
Tá được cho thêm có tác dụng đệm (cho dễ làm viên) hoặc kích thích tiêu hoá. Với lợn và chó có thể sử dụng tá dược có cả 2 tác dụng này.
Trong khi dùng tá dược để kích thích sự ngon miệng ta phải chú ý đến các đặc điểm của từng loại gia súc. Ví dụ: với chó, lợn dùng chất ngọt như đường mật. Với ngựa dùng chất đắng mặn hay muối khoáng. Trâu bò dùng chất mặn hay chua mặn.
Lượng tá dược cho vào vừa phải, thờng trong các đơn thuốc không ghi rõ khối lợng cụ thể. Ta phải dự định cho thích hợp.
Trong đơn thuốc thờng ghi ký hiệu cho tá dược là G.S. (guantum satis) có nghĩa là cần bao nhiêu lấy bằng ấy.
Cách làm: Sau khi đã chuẩn bị nguyên liệu xong, bắt đầu làm viên. Quá trình làm viên gồm 3 giai đoạn: gây viên con, tạo viên và bao viên.
- Gây viên con:
Cứ 2 kg thuốc bột, dùng khoảng 30g bột cho vào chậu men sau đó cho từ từ chất dính (cao loãng hay hồ tinh bột) trộn cho đến khi bột ướt đều (khỏang 60 ml chất dính). Sau đó đa bột lên sàng có lỗ khoảng 1 mm, sát cho bột rơi thành các hạt nhỏ vào thúng, lắc thúng nhẹ cho viên thuốc tròn chạy đều trong thúng. Dùng chổi lông nhúng vào nớc dính quét đều lên thúng lắc thúng cho hạt trợt đều lên nước và thấm đều vào hạt. Cứ sau 1-2 phút lại quét nước dính 1 lần. Lấy thìa canh dắc đều khoảng 1g thuốc bột. Dắc thật đều lên hạt để bột thấm đều trên bề mặt hạt tạo thành một lớp mỏng, vài phút sau lại dắc bột và lắc như trên. Độ 30 phút, sau khi con viên đã đủ to, dùng sàng 3 mm để loại những hạt quá nhỏ.
- Làm viên chính thức:
Những hạt to còn lại trên sàng 3mm cho vào thúng lắc, sau vài phút lại cho thêm cao thuốc (nước dính) và bột thuốc vào lắc, cứ tiếp tục làm như trên hạt thuốc sẽ to dần. Hạt càng to thì lượng nước và bột thuốc cho vào mỗi lần lắc càng nhiều lên. Sau vài lần lắc ta lại sàng các hạt nhỏ ra để lắc thêm cho có kích thớc bằng hạt to trên sàng. Khi viên đủ kích thước yêu cầu cần sàng qua sàng để viên thuốc có kích thước không chênh lệch nhau quá nhiều.
Kích thước của viên thuốc:
Thường đối với đại gia súc mỗi viên nặng 2 -5 gr.
Với chó và lợn mỗi viên nặng 0,1 – 0,5 gr.
Với gia cầm 0,1 – 0,3 gr.
- Bao viên:
Khi viên thuốc đã có kích thước như ý, đa sấy hay phơi khô đạt độ ẩm cho phép. Sau đó sẽ tiến hành bao lại để giữ hương vị và chống ẩm giúp cho việc bảo quản. Việc bao viên còn làm chi thuốc có hình thức đẹp hơn. Chất dùng bao thuốc viên có thể là hoạt thạch, chu sa, thầu sa, hay những dược liệu đã chọn làm tá dược đem nấu thành cao nh ngải cứu, kim anh hoặc một loại bột thuốc mịn như bột hoài sơn. Với thuốc viên muốn có tác dụng ở ruột, tránh sự phá huỷ của dịch vị, cần bao nó bằng keratin hoặc salol.
Động tác bao viên cũng giống động tác lắc thúng. Sau khi bao xong, cần đem phải phơi hay sấy khô lại một lần nữa.
2. Trong điều kiện có máy dập viên
Thờng loại viên này áp dụng ở các xưởng bào chế, cơ quan nghiên cứu, sản xuất hàng loạt. Thuốc được nén dới dạng viên đĩa hoặc viên tròn với một số tá dược thuộc loại keo dính.
Phương pháp này được tiến hành như sau:
Dập viên đĩa: Như viên Berberin, Panmatin, Aspirin, tô mộc, xuyên tâm liên...hiện đang bán trên thị trường. Trước hết ta phải chuẩn bị nguyên liệu, nghiền thuốc thành bột mịn, chuẩn bị tá dược. Có thể dùng bột nếp hay các bột dính khác. Tá dược thường dùng từ 15-20 % số lượng bột thuốc và dùng nó ở thể keo khô.
Kích thước mỗi viên tuỳ từng loại máy, thường mỗi viên nặng 0,5 gr trở xuống.
Viên tròn
Từ những mảnh nhỏ nói trên làm hạt gây con viên, ta cho vào một vo viên, máy này được nối với một hệ thống quay. Khi máy vo viên quay thì các con viên cũng quay vòng, theo vòng quay của máy. Trong quá trình quay ta cho thêm bột nguyên liệu làm thuốc và phun thêm nớc với một tỷ lệ thích hợp. Sau một thời gian quay ta có những viên thuốc tròn, mịn, chắc, đa ra phơi hoặc sấy khô đem bảo quản chu đáo.
Các dạng viên khác
Chế viên dạng “trứng” hoặc “đạn”.
Đây là loại thuốc dùng cho các cơ quan được che phủ bởi niêm mạc: tử cung, âm đạo, trực tràng...
Ví dụ: thuốc đạn đặt vào đường sinh dục cái, chữa viêm âm đạo, viêm tử cung. Đặt vào trực tràng, hậu môn để kích thích đánh trung tiện, loại trừ các khí độc khi bị chướng bụng đầy hơi.
Để điều chế loại này, người ta thường dùng dược liệu ở dạng tinh chế hoặc hoạt chất nguyên. Dược liệu được nghiền nhỏ, mịn, cộng thêm một số chất keo mềm, dễ tan ở nhiệt độ của cơ thể như gelatin, vazolin. Bảo quản thuốc trong tủ lạnh hay nơi mát mẻ. Khi dùng chỉ cần đặt vào nơi điều trị.
VI. các dạng khác
1. Ngâm rượu
Đây là dạng thuốc rất hay dùng vì có nhiều dược liệu nếu chỉ dùng phương pháp sắc, ngâm nước sẽ không lấy hết được hoạt chất, do vậy phải dùng rượu để chiết hoạt chất đó ra, sử dụng.
Muốn ngâm rượu vị thuốc phải được nghiền nhỏ hoặc cắt lát, lát cắt càng to thời gian ngâm càng lâu. Sau khi đổ rượu ngập thuốc, ngâm.
Phương pháp phối hợp
Có thể chế biến qua cả mấy dạng: ngâm nước, sắc, ngâm rựơu rồi trộn cả mấy dạng này với nhau (vì độ hoà tan của các hoạt chất của vị thuốc trong các dung môi khác nhau sẽ khác nhau). Với thuốc thảo mộc, để khai thác triệt để hoạt chất, chúng ta phải phối hợp như trên. Bằng phương pháp phối hợp này sau khi chiết xuất xong, trộn đều các dung môi lại, sẽ được các dạng thuốc trong hoặc đục lắng cặn. Do đó, khi kê đơn thuốc cần ghi rõ “khi dùng phải lắc kỹ”.
Nguyên tắc cần phải nắm trong phương pháp chế biến
- Hoà tan những chất dễ hoà tan trước, sau đó mới đến những chất khó hoà tan.
- Một số dợc liệu có tác dụng mạnh phải hoà tan trớc, dù nó là vị thuốc dễ hoà tan hay khó hoà tan.
- Khi trộn những thuốc rợu với các dung dịch nớc phải rót chậm, khuấy đều, để không gây hiện tợng vẩn đục.
2. Nhũ dịch
Là dạng thuốc mà thành phần của nó gồm có 2 chất lỏng không hoà tan lẫn vào nhau ở điều kiện bình thờng. Do vậy khi muốn hoà tan 2 chất trên phải có những chất trung gian. Chất này gọi là chất nhũ hoá. Chất nhũ hoá gồm 3 nhóm lớn
- Chất nhũ hoá tự nhiên: các hydrat cacbon gồm: arabic, adragant, pectin, tinh bột, thạch, các Anginat, các chất nhầy, saponin, gelatin, protenin.
- Chất nhũ hoá tổng hợp hoặc bán tổng hợp nh các chất nhũ hoá điện hoạt anion, xà phòng, chất điện hoạt sation, chất điện hoạt không ion hoá...
- Các chất nhũ hoá rắn ở dạng hạt nhỏ bentonit.
Trong thực tế lâm sàng thú y cũng rất hay dùng dạng này. Thuốc chế ở dạng này gồm 10% dầu, 5% chất chung gian và 85% nớc.
ở một số hạt cây chế biến không cần chất trung vì vai trò dính kết đã có trong dầu của hạt rồi.
Phơng pháp tiến hành
+ Phơng pháp thủ công: có một số phơng pháp sau
- Cân chất trung gian xong, cho vào bình thêm dầu vào, khuấy đảo đều, mạnh, liên tục cho đến khi có một dạng dung dịch đồng nhất rồi mới cho dần dần nớc vào. Lúc đầu vài ba giọt, khuấy kiên tục, sau cho lợng nớc nhiều hơn một ít vẫn khuấy liên tục. Lợng nớc cho vào tăng dần lên đến hết và vẫn liên tục khuấy đều.
- Chất trung gian trộn lẫn với 1,5 lợng nớc rồi cho dầu vào khuấy đảo đều.
- Cho một lợng dầu và nớc tơng đơng trộn lắc thật đều. Sau đó thêm chất trung gian, tiếp tục khuấy đều, mạnh, liên tục.
Với các hạt cây, nếu muốn chế dới dạng thuốc nhũ dịch, sau khi cân xong đổ nớc sôi vào, đậy vung ngâm 10-15 phút. Hạt trơng nở mềm ra, vớt hạt bỏ vào cối giã, nghiền nhỏ rồi cho nớc vào với lợng cần thiết, gạn lọc.
+ Dùng máy
Với các phơng tiện thủ công kể trên thờng chỉ thu đợc nhũ tơng với mức độ phân tán thấp, tiểu phần của từng phần phân tán có đờng kính khoảng 20 – 50 micromet nên không bền vững lâu.
Trong các phòng bào chế hiện đại hay quy mô sản xuất công nghiệp thờng dùng các loại máy khuấy trộn hoặc cối xay kéo hoặc máy nén ép, để thu đợc nhũ tơng có độ phân tán cao, vững bền hơn. Các loại máy này gọi là máy đồng nhất hoá (homogeniseur). Khi co hỗn hợp đem chế nhũ tơng hoặc các nhũ tơng còn thô, chạy qua các loại máy này, sẽ thu đợc nhũ tơng đại độ phân tán và đồng nhất rất cao rất vững bền.
Dạng thuốc nhũ dịch hay dùng nhiều để uống hoặc có thể bôi ngoài.
3. Cao thuốc
a) Khái niệm
Cao thuốc chính là các chế phẩm điều chế bằng cách cô đến một đậm độ nhất định các dịch chiết thu đợc từ dợc liệu: thực vật, động vật khô hay tơi với các dung môi thích hợp nh cồn, ether, nớc...
Thực ra, cao thuốc là những dịch chiết thảo mộc (thuốc sắc) đã đợc cô đặc, nhằm loại bớt một phần hay toàn bộ dung môi để đạt đến một thể chất nhất định.
Cao thuốc có đặc điểm là có thể chứa những chất mà riêng nó không tan trong dung môi dùng để chiết, nhng khi có mặt những chất khác trong có dợc liệu thì có thể tan đợc. Do quá trình cô dới tác dụng của sức nóng, một phần hoạt chất trong dợc liệu có thể bị thuỷ phân. Nhng lại có một số hợp chất mới đợc hình thành. Vì vậy thành phần của cao thuốc có thể hơi khác với thành phần của dợc liệi dùng để điều chế cao.
Cao thuốc thờng có tác dụng đầy đủ và dễ sử dụng hơn hoạt chất dới tác dụng tinh khiết phân lập từ dợc liệu. Do đặc điểm này nên mặc dù cao thuốc là một trong những dạng thuốc lâu đời nhất (thần nông 2.700 năm trớc Công nguyên) và mặc dù ngày nay ngời ta đã phân lập rất nhiều hoạt chất từ các dợc liệu, nhng các cao thuốc và các chế phẩm điều chế từ cao thuốc vẫn còn chiếm một địa vị quan trọng trong thực hành bào chế.
Phân loại cao thuốc: có nhiều cách phân loại cao.
+ Dựa trên thể chất của cao: cao lỏng, cao đặc, cao mềm và cao khô.
Cao lỏng có thể chất gần nh xirô, có thể rót chảy dễ dàng.
Cao đặc chứa khoảng 20 – 25 % nớc.
Cao mềm có thể chất gần nh kẹo gôm, chứa rất ít nớc.
Cao khô chứa tối đa 5 % nớc, có thể tán thành bột dễ dàng.
+ Dựa trên dung môi: Có thể phân loại cao thuốc thành cao nớc (cao cam thảo, cao đại hoàng), cao cồn (cao lỏng mã tiền, cao lỏng Belladon), cao ether, cao nớc cồn, cao chloroform.
+ Có thể phân loại theo kỹ thuật chiết: ngâm lạnh, ngâm kiệt...
b) Kỹ thuật điều chế
Dợc liệu thảo mộc dùng để chế cao thờng ở dạng khô, ít ở dạng tơi. Vì vậy khi chiết, độ ẩm của dợc liệu còn dới 5% để khỏi làm loãng dung môi, ảnh hởng đến hiệu suất chiết và chất lợng thành phẩm. Nếu dùng dợc liệu tơi, trớc khi băm nhỏ và chiết xuất phải diệt các enzim có ở dợc liệu.
Trớc khi chiết, dợc liệu cần chia đến độ nhỏ thích hợp tuỳ theo tính chất, dung môi dùng để chiết. Dợc liệu Việt Nam quy định có thể chia dợc liệu đến bột thô (cây số 28), thô vừa (rây số 26), mịn vừa (rây số 24), hoặc mịn (rây số 23).
Chọn dung môi phải phụ thuộc vào tính chất của dợc liệu, của hoạt chất và tạp chất có trong dợc liệu. Yêu cầu của dung môi là phải chiết đợc nhiều hoạt chất nhất và chiết đợc ít tạp chất nhất. Để đạt đợc điều này đôi khi phải phối hợp nhiều loại dung môi. Điều đáng chú ý là chỉ nên dùng một lợng dung môi tối thiểu cần thiết để chiết dợc liệu, tránh kéo dài thời gian cô đặc sau này. Lợng dung môi dùng thờng gấp 6-12 lần lợng dợc liệu.
Tuỳ theo bản chất của dung môi, chọn phơng pháp chiết suất thích hợp. Nếu chọn dung môi là nớc tuỳ theo tính chất của dợc liệu chọn một trong các phơng pháp chiết suất sau đây: ngâm lạnh, hãm, sắc, hầm, ngâm nhỏ giọt. Hay dùng nhất là ngâm lạnh hay hãm. Thờng dùng phơng pháp ngâm lạnh cắt đoạn 2 lần. Lợng dung môi có thể gấp 8 -12 lần lợng dợc liệu. Lần ngâm thứ nhất cần 2/3 lợng dung môi, thời gian ngâm từ 12-48 giờ tuỳ theo dợc liệu (cam thảo 12 giờ, đại hoàng 48 giờ, canh kina không nên ngâm quá 48 giờ vì trong môi trờng nớc vi khuẩn, nấm mốc dễ phát triển). Sau khi ngâm, gạn lấy dịch trong và ép bã. Nớc ngâm để lắng cặn ở nhiệt độ thấp 24- 48 giờ. Lần 2 đỗ hết lợng dung môi còn lại vào ngâm tiếp 12 giờ nữa. Gạn lấy nớc ngâm để lắng cạn. Sau đó lọc loại tủa, trộn lẫn cả 2 loại nớc ngâm đó, tiến hành cô đặc đến thể chất muốn có. Trớc khi cô, có thể đun sôi nớc ngâm để loại tạp chất nh Albumin, protein (cao cam thảo, cao đại hoàng) hoặc cô dịch chiết còn 1/2-1/4 thể tích bán đầu rồi cho thêm cồn để tủa các hợp chất không tan trong cồn, để lặng cặn, lọc loại cặn, rồi tiếp tục cô đến thể tích cần muốn.
Phơng pháp hãm đợc dùng để chế cao thuốc từ các dợc liệu có thể chất mỏng manh: hoa, lá... với dung môi nớc.
Nếu dung môi là cồn ngâm nhỏ giọt là phơng pháp tốt nhất, có u điểm là cho phần dịch chiết đầu tiên rất đậm đặc, tập trung đợc phần lớn hoạt chất, phần này thừơng đợc để riêng và không làm bốc hơi trong dung môi hay rất ít để hạn chế tác hại của nhiệt độ đối với hoạt chất.
+ Loại tạp chất
Dịch chiết thu đợc thờng chứa nhiều tạp chất nh chất nhầy, albumin, tinh bột, gôm... (nếu dung môi là nớc), chất béo, nhựa (nếu dung môi là cồn, ether) các chất này làm thuốc dễ bị lên men, hôi khét, trong quá trình bảo quản. Vì vậy trớc khi cô đặc cần phải tiến hành loại tạp chất.
- Làm vón các chất nhầy, gồm, albimin... bằng cách đun sôi và cô đặc đến 1/2 - 1/4 thể tích ban đầu, rồi để lắng 2 hoặc 3 ngày ở chổ mát, gạn lọc.
- Làm tủa hợp chất với cồn. Dịch chiết đã cô đặc bằng nửa lợng ban đầu, thêm 1-3 thể tích cồn vào để lắng 5-6 ngày ở nơi mát, sau đó gạn lọc. Còn các chất nhựa hoà tan trong dịch chiết đợc loại đi bằng ether, etylic. Ether dầu hoả, parafin. Cũng cô đặc dịch chiết đến 1/2-/4 thể tích ban đầu rồi hoà tan parafin trong dịch chiết nóng đã cô đặc, lắc kỹ, để nguội, parafin kéo theo tạp chất nổi lên mặt khi nguội, tạo thành màng cứng có thể loại khỏi dịch chiết một cách dễ dàng.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |