DƯƠng thị NỤ MỞ ĐẦU


Phương pháp tự học kỹ năng đọc tiếng Anh chuyên ngành với sự hỗ trợ của CNTT



tải về 2.34 Mb.
trang3/19
Chuyển đổi dữ liệu26.03.2018
Kích2.34 Mb.
#36770
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   19

1.2. Phương pháp tự học kỹ năng đọc tiếng Anh chuyên ngành với sự hỗ trợ của CNTT

Như đã thảo luận về vai trò của CNTT trong dạy học ngoại ngữ, việc ứng dụng CNTT cần được hiểu là việc sử dụng các công cụ hiện đại trong giảng dạy và học tập. Các công cụ này được thiết kế ra để phục vụ con người, làm cho quá trình thực hiện công việc của con người được dễ dàng hơn. Nói một cách khác, có thiết bị hay công cụ làm việc tốt vẫn còn là chưa đủ, yếu tố con người sử dụng công cụ đó mới là vấn đề quan trọng. Các ứng dụng CNTT chỉ được sử dụng có hiệu quả nhất, được phát huy giá trị đích thực của chúng khi người dạy và người học thực sự muốn sử dụng chúng, từ đó họ có thể tìm cách sử dụng chúng một cách hiệu quả nhất. Trong thực tế, khi học chế tín chỉ được đưa vào áp dụng thay cho học chế theo niên chế, việc tự học của người học là một yêu cầu không thể thiếu được. Người học biết được họ cần học gì và theo cách nào cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh/môi trường học tập của họ. Khi mà các ứng dụng của CNTT đã trở nên phổ biến và sẵn có thì người học biết tự học sẽ tận dụng được những thành tựu khoa học về công nghệ mà các chuyên gia hàng đầu về thiết bị điện tử phải đầu tư không biết bao nhiêu sức lực, trí tuệ và tiền của mới phát minh ra được.

Trong thực tế giảng dạy, đa số các giáo viên giảng dạy ngoại ngữ đều cảm thấy không hài lòng vì họ đã đầu tư rất nhiều công sức vào giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên nhưng kết quả nhận được lại không giống như mong đợi. Giáo viên phàn nàn rằng có những sinh viên không bao giờ làm bài tập về nhà khi được giao, có những sinh viên vẫn còn do dự không muốn sử dụng tiếng Anh khi giáo viên yêu cầu họ làm việc theo nhóm, hoặc có những sinh viên không chịu rút ra kinh nghiệm từ những lỗi gặp phải và có cả những sinh viên không tận dụng thời gian để tự học ở nhà, ngoài những giờ học trên lớp.

Những thái độ tiêu cực như vậy từ phía sinh viên thường bắt nguồn từ một nguyên nhân chung, đó là do sinh viên quá lệ thuộc vào giáo viên. Ngay cả những sinh viên có động lực và tích cực học tập cũng sẽ trở nên thụ động nếu họ nghĩ rằng giáo viên phải chịu trách nhiệm truyền đạt toàn bộ khối lượng kiến thức trên lớp học, sinh viên chỉ là những người thụ động lắng nghe. Sau đây là một số lý thuyết về sự tự học.



1.2.1. Người học có trách nhiệm

Tự học là hình thức học tập không thể thiếu được của sinh viên đang học tập tại các trường đại học. Tổ chức hoạt động tự học một cách hợp lý, khoa học, có chất lượng, hiệu quả không chỉ là trách nhiệm của người học mà còn là trách nhiệm của giảng viên, nhà trường. Sự tự học liên quan rất nhiều đến việc ý thức được trách nhiệm của việc học. Vì thế, khi đề cập đến sự chủ động trong học tập của sinh viên, chúng ta không thể không nhắc đến tinh thần trách nhiệm của người học đối với việc học. Liệu một người học có trách nhiệm có phải là người học luôn luôn làm bài tập và làm theo sự hướng dẫn của giáo viên, giỏi làm việc theo nhóm, hay luôn ngoan ngoãn vâng lời. Sự thực thì không phải bao giờ cũng như vậy. Theo Benson, P. & Voller (1997:3), những người học có trách nhiệm với việc học của họ là những người nhận thức được rằng nỗ lực của họ là điều vô cùng quan trọng để đạt được sự tiến bộ trong học tập, và thực tế, những người học này đã rất cố gắng. Điều này có nghĩa là khi sinh viên làm bài tập hay trả lời câu hỏi trên lớp, mục đích của họ không phải để làm hài lòng giáo viên, hay để lấy điểm cao, mà chỉ đơn giản là họ cố gắng học được một điều gì đó. Một người học có trách nhiệm không nhất thiết là người thích làm việc theo nhóm, nhưng họ luôn sẵn sàng hợp tác với giáo viên và những thành viên khác của nhóm học tập vì lợi ích của tất cả mọi người. Ở đây cần phải hiểu rằng hợp tác không có nghĩa là chỉ tuân theo những lời hướng dẫn của giáo viên, mà hợp tác có nghĩa là họ có thể đặt những câu hỏi về mục đích của những hoạt động mà giáo viên yêu cầu, hoặc thậm chí đưa ra những đóng góp sao cho hoạt động ấy tốt hơn. Tóm lại, cần phải hiểu rằng, người học có trách nhiệm không phải là người luôn làm bài tập về nhà đầy đủ, mà là người nhận thức được rằng, nếu họ không làm bài tập có nghĩa là họ đang tự làm lỡ cơ hội trau dồi và nâng cao kiến thức ngoại ngữ.



1.2.2. Người học tự chủ

Quan điểm về tinh thần trách nhiệm trong học tập có liên quan mật thiết đến tính tự chủ trong học tập của sinh viên và hai khái niệm này đều đòi hỏi sự học tập tích cực của sinh viên. Về mặt lý thuyết, chúng ta thường hiểu rằng sự tự chủ trong học tập là sự tự do và khả năng sắp xếp việc học, giúp người học đưa ra quyết định. Tinh thần trách nhiệm trong học tập của người học là sự chịu trách nhiệm về kết quả học tập của mình. Tuy nhiên, trong thực tế, hai khái niệm này rất khó phân biệt rạch ròi. Ví dụ như, ở nhà, người học tự tra một từ mà giáo viên đã dùng trên lớp nhưng không giải thích nghĩa, hoặc khi bài học trên lớp đề cập một vấn đề mà người học không hiểu rõ lắm, họ chú ý đặc biệt đến nó và về tự nghiên cứu thêm ở nhà. Rõ ràng rằng, ở những hoạt động trên, người học rất có trách nhiệm với việc học và họ luôn tự ý thức được rằng họ phải nỗ lực để học tốt hơn. Người học cũng đã rất tự chủ trong việc học, thể hiện ở chỗ là họ tự học không phụ thuộc vào giáo viên, không đợi chờ giáo viên bảo gì thì họ mới làm nấy. Chính vì thế, chúng ta có thể kết luận rằng, để củng cố và xây dựng phương pháp tự học cho sinh viên, chúng ta phải tạo được tinh thần trách nhiệm đối với việc học tập cho người học, và khuyến khích họ phải tích cực chủ động trong việc học.



1.2.3. Lý do cần tạo lập, phát triển tinh thần trách nhiệm và việc tự học

Người ta vẫn thường nói rằng bạn có thể mang ngựa đến nơi có nước, nhưng bạn không thể bắt nó uống. Trong giảng dạy ngoại ngữ, giáo viên có thể tạo cho sinh viên những tình huống học tập và cung cấp kiến thức cho họ, nhưng việc học chỉ có thể thực sự diễn ra nếu người học muốn học và mong chờ được học. Nếu nói rằng việc học diễn ra chỉ cần có sự có mặt thụ động của người học thôi thì sẽ là chưa đủ, tựa hồ như một chú ngựa vẫn khát nước nếu chú chỉ đứng bên bờ sông kiên nhẫn đợi cho cơn khát của mình qua đi. Để người học tham gia tích cực, chủ động vào quá trình học, đầu tiên, họ cần phải nhận ra và chấp nhận thực tế rằng thành công trong việc học phụ thuộc vào cả giáo viên lẫn sinh viên. Nói cách khác, thành công trong học tập phụ thuộc rất nhiều vào tinh thần tự giác trong học tập của người học. Dù sinh viên đã học như thế nào chăng nữa, họ phải biết rằng thế vẫn còn chưa đủ, họ vẫn còn phải tự luyện tập, tự học thêm nữa, bởi nếu không hình thành phương pháp tự học, sinh viên sẽ không bao giờ thu được kết quả như mong đợi.



1.2.4. Cách tạo lập, phát triển tinh thần trách nhiệm và việc tự học

Để giúp người học nhận ra được tầm quan trọng của việc tự học và phát triển cho họ những khả năng tự học, họ cần được giải thích, trang bị và khuyến khích phát triển những kỹ năng sau:



1.2.4.1. Động lực và sự tự tin

Ở trên, chúng ta đã đưa ra ví dụ về việc đưa chú ngựa ra sông uống nước và nếu chú ngựa không tự cúi thấp đầu xuống sông và uống nước, chú sẽ vẫn khát. Điều này có nghĩa là, kế hoạch đặt ra là đưa chú ngựa ra sông uống nước cũng sẽ thất bại nếu chú ngựa không khát nước chút nào và không có nhu cầu uống nước. Nói cách khác, sự ví von như vậy chính là để nhằm hàm ý rằng động lực là điều kiện tiên quyết cho việc học và tạo dựng tinh thần trách nhiệm. Chúng ta cần khuyến khích nội động lực của sinh viên, có nghĩa là khuyến khích và tạo cho sinh viên niềm yêu thích thực sự đối với môn học. Những người học có động lực học sâu xa từ bên trong sẽ có nhiều khả năng đặt ra được những mục đích học tập và lên kế hoạch để đạt được những mục đích ấy. Họ cũng sẽ có quyết tâm và có tính tự chủ trong học tập. Tuy nhiên, cũng cần chú ý rằng, những hình thức khen thưởng hay phạt (tức là những ngoại động lực) cũng có thể khuyến khích việc học, nhưng đồng thời, chúng lại làm tăng sự phụ thuộc của người học vào giáo viên.

Ngoài việc tăng cường động lực học, sự tự tin cũng góp phần làm phát triển tinh thần trách nhiệm và sự tự chủ của người học. Người học phải tin rằng, họ có thể sắp xếp và lên kế hoạch tốt việc học của họ, chứ không chỉ phụ thuộc vào giáo viên.

1.2.4.2. Điều chỉnh và đánh giá

Khi chúng ta khuyến khích sinh viên tập trung vào quá trình học, chứ không phải là kết quả học, chúng ta giúp họ phải xem lại những gì họ đã làm cho quá trình học của họ. Điều này là bước cần thiết đầu tiên của việc phát triển tinh thần trách nhiệm của sinh viên. Sự tự đánh giá đòi hỏi người học phải tiến những bước xa hơn. Họ phải đứng vào cương vị của giáo viên và đánh giá việc học của họ một cách có mục đích. Bằng cách làm như vậy, sinh viên có thể nhận ra được những điểm mạnh và những điểm yếu của họ và lên kế hoạch để khắc phục những điểm yếu. Bằng cách tự đánh giá và đặt những mục tiêu cho mình, sinh viên phải chịu trách nhiệm với bản thân để đạt được những mục tiêu đó.



1.2.4.3. Những chiến lược học tập

Đây là những công cụ để nâng cao khả năng ngôn ngữ và sinh viên chỉ có thể thực sự có trách nhiệm và tự chủ trong học tập nếu họ nắm chắc những công cụ này. Vì thế, giáo viên cần cung cấp cho sinh viên nhiều cách thức học tập khác nhau, giúp sinh viên tìm ra phương pháp học thích hợp với họ nhất, sử dụng những cách học này như thế nào và khi nào nên sử dụng chúng. Giáo viên có thể tạo cho sinh viên những cảm giác hồi hộp khi ngày càng tự khám phá ra những khả năng của mình.



1.2.4.4. Sự hợp tác và gắn kết giữa các thành viên trong nhóm học tập

Về một phương diện nào đó, tăng cường hợp tác giữa các thành viên của nhóm học tập trên lớp cũng ảnh hưởng đến thái độ của người học bởi làm việc nhóm khiến sinh viên phải hợp tác với nhau và dựa vào nhau, chứ không phải vào giáo viên. Khi các sinh viên cùng làm việc để hoàn thành nhiệm vụ giáo viên giao, điều này sẽ tạo tính tự chủ trong học tập cho sinh viên.



1.2.4.5. Chia sẻ thông tin với người học

Bằng cách chia sẻ tất cả những thông tin cần thiết với sinh viên, giáo viên thể hiện sự tôn trọng sinh viên và sẵn sàng coi sinh viên là những đối tác trên con đường học tập ngoại ngữ nhằm đạt được mục đích chung đề ra, bao gồm cả những mục tiêu trước mắt và những mục tiêu lâu dài. Cho sinh viên biết mục đích của một hoạt động nào đấy giúp họ ý thức được mục đích cần đạt được và cảm thấy có trách nhiệm hơn với quá trình hoạt động học tập của mình.



1.2.4.6. Điều hành kiên định

Điều vô cùng quan trọng là giáo viên nên cho học viên biết mong đợi của giáo viên về người học, và những biện pháp chế tài nếu sinh viên không đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Giáo viên sẽ thấy rằng, giáo viên càng kiên định và cương quyết, sinh viên càng học nghiêm chỉnh và quy củ. Tuy nhiên, giáo viên cần linh hoạt trong cách xử lý tình huống, không nên cứng nhắc quá.



1.2.4.7. Giao nhiệm vụ và để người học học cách ra quyết định

Để người học có trách nhiệm và tự chủ trong học tập, người học cần phải tạo nên nhiều ảnh hưởng hơn nữa đối với quá trình học tập của họ, chẳng hạn như họ tự lựa chọn tài liệu học tập có sự định hướng của giáo viên và tự sửa lỗi mắc phải. Mặc dù sinh viên không phải là những giáo viên được đào tạo một cách bài bản, và không thể thay thế hoàn toàn vai trò của giáo viên, nhưng chắc chắn, họ có thể đóng một vài vai của giáo viên. Giáo viên nên tôn trọng cách sinh viên tự làm những nhiệm vụ được giao và yêu cầu sinh viên phải có trách nhiệm với những việc làm của họ, không nên sợ rằng sinh viên mắc lỗi hay làm không tốt bằng mình nên giáo viên đã làm thay họ.



1.2.5. Chu trình tự học của người học

Tự học có ý nghĩa to lớn đối với bản thân sinh viên để hoàn thành nhiệm vụ học tập của họ đối với chất lượng, hiệu quả của quá trình dạy học, đào tạo trong nhà trường. Tự học là sự thể hiện đầy đủ nhất vai trò chủ thể trong quá trình nhận thức của sinh viên. Trong quá trình đó, người học hoàn toàn chủ động và độc lập, tự lực tìm tòi, khám phá để lĩnh hội tri thức dưới sự chỉ đạo, điều khiển của giáo viên. Việc xác định mục đích, xây dựng động cơ, lựa chọn phương pháp, hình thức tự học hợp lý trong quá trình học tập là cần thiết. Để hoạt động học tập của sinh viên đạt chất lượng và hiệu quả, sinh viên phải có tri thức và kỹ năng tự học. Chính kỹ năng tự học là điều kiện vật chất bên trong để sinh viên biến động cơ tự học thành kết quả cụ thể và làm cho sinh viên tự tin vào bản thân mình, bồi dưỡng và phát triển hứng thú, duy trì tính tích cực nhận thức trong hoạt động tự học của họ. Dưới đây là chu trình tự học của sinh viên. Đó là một chu trình gồm ba giai đoạn.



Giai đoạn một là giai đoạn tự nghiên cứu. Trong giai đoạn này, người học tự tìm tòi, quan sát, mô tả, giải thích, phát hiện vấn đề, định hướng, giải quyết vấn đề, tự tìm ra kiến thức mới và tạo ra sản phẩm ban đầu có tính chất cá nhân.

Giai đoạn hai là giai đoạn tự thể hiện. Trong giai đoạn này, người học tự thể hiện mình bằng văn bản, bằng lời nói, tự trình bày, bảo vệ kiến thức hay sản phẩm cá nhân ban đầu của mình, tạo ra sản phẩm có tính chất xã hội của cộng đồng lớp học.

Giai đoạn ba là giai đoạn tự kiểm tra, tự điều chỉnh. Sau khi tự thể hiện mình qua sự hợp tác trao đổi, người học tự kiểm tra, tự đánh giá sản phẩm ban đầu của mình, tự sửa sai, tự điều chỉnh kết quả học tập của mình.

1.3. Lý thuyết về đọc hiểu

1.3.1. Định nghĩa

Hiểu một văn bản có nghĩa là trích dẫn được những thông tin cần thiết từ văn bản đó một cách có hiệu quả nhất. Đọc hiểu là một quá trình văn hóa xã hội, nhận thức và ngôn ngữ rất phức tạp. Trong quá trình đó người học sử dụng đồng thời ngôn ngữ nói và viết, và có thể cả kiến thức văn hóa của họ để hiểu nghĩa truyền tải trong văn bản. Dưới đây là một số cách đọc:



- Đọc lướt: Là đọc lướt mắt rất nhanh qua một văn bản để lấy ý chính.

- Đọc lấy thông tin cụ thể: Là đọc nhanh văn bản và dừng lại ở những thông tin cần thiết.

- Đọc mở rộng: Là đọc những văn bản dài, thường với mục đích giải trí.

- Đọc sâu: Là đọc những văn bản ngắn để lấy thông tin cụ thể.



1.3.2. Bản chất của đọc hiểu

1.3.2.1. Quá trình và sản phẩm

Để hiểu được bản chất của đọc hiểu là gì, trước tiên, chúng ta cần phân biệt quá trình đọc và kết quả của quá trình ấy là sản phẩm đọc. Quá trình đọc là sự tương tác giữa người đọc và văn bản. Trong suốt quá trình ấy, có thể người đọc không chỉ nhìn bản in, mà còn nghĩ về những gì họ đang đọc, cố gắng hiểu những ý trong bài đọc nói gì, và những ý ấy có liên quan đến nhau như thế nào. Người đọc còn suy nghĩ liệu những gì họ đang đọc có ý nghĩa gì với họ, có liên quan gì đến những điều mà trước kia họ đã đọc hay đã biết, bài đọc ấy hữu ích, vui, buồn hay chẳng có ý nghĩa gì. Rõ ràng rằng, những điều khác nhau có thể xảy ra trong quá trình đọc và quá trình ấy rất đa dạng, rất khác nhau, thậm chí đối với cùng một người đọc và đọc cùng một văn bản ở những thời điểm khác nhau với những mục đích khác nhau. Vì thế, hiểu quá trình đọc đóng vai trò vô cùng quan trọng đến việc hiểu bản chất của việc đọc.

Trong những năm gần đây, giáo viên giảng dạy kỹ năng đọc hiểu thường chú trọng dạy cho sinh viên cách tiếp cận bài khóa, tức là nhấn mạnh đến quá trình đọc. Còn đọc theo xu hướng tiếp cận sản phẩm được sử dụng phổ biến hơn những năm trước kia. Khi người ta cho rằng dù những người đọc khác nhau có thể tham gia vào những quá trình đọc khác nhau, nhưng dù họ có tiếp cận khác nhau thế nào chăng nữa, kết quả đọc cuối cùng cũng sẽ giống nhau. Với cách tiếp cận này, người đọc sẽ được cung cấp bài khóa kèm theo những bài tập đọc hiểu như trả lời câu hỏi, quyết định câu đúng, sai, điền từ vào chỗ trống ... và sinh viên sẽ được kiểm tra mức độ hiểu bài đọc thông qua những bài tập này. Tuy nhiên, cách tiếp cận sản phẩm này có những hạn chế nhất định của nó. Hạn chế thứ nhất là có thể, mỗi người đọc sẽ hiểu văn bản một cách khác nhau. Chúng ta biết rằng, mỗi người có một khả năng nhớ khác nhau và việc nhớ được những gì đã đọc phụ thuộc vào khả năng nhớ của từng người. Nếu vẫn cứ cho rằng mức độ hiểu văn bản không phụ thuộc vào trí nhớ của người đọc, thì cũng không thể phủ nhận được rằng, mỗi người đọc, với kiến thức và kinh nghiệm sống khác nhau, sẽ hiểu một cách khác nhau về ý nghĩa của văn bản là điều khó tránh khỏi. Vậy, làm thế nào để biết được người nào hiểu đúng, người nào hiểu không đúng, và khái niệm đúng ở đây cũng chỉ mang ý nghĩa tương đối mà thôi. Vấn đề thứ hai là vấn đề phương pháp đánh giá sản phẩm đọc hiểu. Nếu phương pháp tiếp cận sản phẩm yêu cầu người đọc ít nhiều phải nhớ lại những gì họ đã đọc, thì sẽ thật khó phân biệt hai khái niệm hiểu và nhớ. Phương pháp đọc và làm bài tập khiến người đọc khi đọc sẽ chỉ chú tâm vào một từ nào đấy, hoặc một đoạn văn nào đấy để lấy thông tin làm bài tập, chứ không phải đọc toàn bộ văn bản một cách kỹ lưỡng.

Tóm lại, bàn đến bản chất của việc đọc, rất khó có thể đưa ra một khái niệm cụ thể. Chúng ta có thể xem đọc như một quá trình, hay sản phẩm của một quá trình. Cách tiếp cận sản phẩm khiến chúng ta dễ đi vào nghiên cứu hơn cách tiếp cận quá trình cho dù cách tiếp cận sản phẩm cũng có những hạn chế nhất định của nó.



1.3.2.2. Mức độ hiểu

Chúng ta cần phân biệt những mức độ hiểu khác nhau đối với cùng một văn bản. Kintsch (1998:13) đã phân biệt những mức độ hiểu khác nhau, ví dụ như có thể hiểu từ nhưng không hiểu được nghĩa của câu, hay chỉ hiểu được nghĩa của câu nhưng không hiểu được cấu trúc của văn bản. Thực tế chỉ ra rằng, các nhà nghiên cứu về kỹ năng đọc hiểu đã rất nỗ lực để đưa ra rất nhiều các phương pháp, thủ thuật, kỹ năng đọc hiểu bằng cách đưa cho người đọc những văn bản, đặt những câu hỏi cho người đọc để kiểm tra mức độ hiểu của người đọc về đoạn văn. Các nhà nghiên cứu này cho rằng, đọc suy ra từ văn bản có nghĩa là trả lời những câu hỏi có liên quan về nghĩa trong văn bản nhưng không được dề cập trực tiếp trong những văn bản đó.

Như ở trên đã trình bày, có nhiều mức độ hiểu khác nhau, như hiểu nghĩa đen của văn bản, hiểu những nghĩa được suy ra mà không diễn đạt trực tiếp trong văn bản. Những mức độ hiểu này rõ ràng có liên quan đến sản phẩm của quá trình đọc, và chúng ta cũng biết rằng, nghĩa hàm ẩn hay nghĩa được suy ra từ văn bản bao giờ cũng được đánh giá cao hơn so với nghĩa thực chỉ tìm thấy trong văn bản, và đòi hỏi mức độ tư duy cao hơn từ người đọc. Thông thường, khi đọc, bước đầu tiên là người đọc hiểu nghĩa đen của văn bản, sau đấy cao hơn một chút là suy ra nghĩa mới có liên quan đên nghĩa trong văn bản, và cao hơn nữa là học cách tiếp cận văn bản và đưa ra những nhận xét, đánh giá về văn bản đó. Sự phân biệt về mức độ hiểu văn bản không phải lúc nào cũng dễ dàng định nghĩa, vì ngôn ngữ rất ít khi rõ ràng, mà luôn khiến người đọc phải suy đoán. Bên cạnh đó, bài khóa được lựa chọn phải phù hợp với kiến thức người đọc, nếu không, người đọc sẽ không thu được hiệu quả cao từ việc đọc.

Tóm lại, khi xét đến bản chất của đọc hiểu, chúng ta phải phân biệt được các mức độ hiểu văn bản khác nhau. Người thiết kế hoặc lựa chọn bài đọc cũng phải cân nhắc mức độ nghĩa, mức độ thông tin và mức độ khó sao cho người đọc sẽ hiểu được văn bản.



1.3.2.3. Một số cách để tăng tốc độ đọc hiểu tiếng Anh

Khi tự học đọc, có thể người đọc sẽ tự hỏi làm thế nào để đọc nhanh và hiệu quả. Dưới đây là một số bí quyết giúp nâng cao kỹ năng đọc của mình.

- Trước hết hãy đọc lướt qua tài liệu. Hãy xác định đâu là những đề mục chính, các phần, và cả những tài liệu liên quan. Mục đích của việc này là để nắm rõ những nội dung chính mà người đọc cần quan tâm đồng thời họ sẽ quyết định quá trình đọc sẽ đi theo hướng nào.

- Trong khi đọc, người đọc cần chú ý điều chỉnh tốc độ. Chắc chắn họ sẽ cảm thấy mệt mỏi nếu cứ phải tập trung chú ý vào tất cả các phần, các nội dung trong bài. Họ có thể đọc chậm lại nếu cảm thấy đây là phần quan trọng của bài và có thể tăng tốc trước một phần quá quen thuộc và cực kỳ dễ hiểu.

- Thay vì lúc nào cũng chăm chăm chú ý tới từng từ một trong đoạn văn, người đọc cần đọc cả một nhóm từ cùng một lúc có liên quan chặt chẽ với nhau. Như vậy có thể rút ngắn được thời gian đọc khá nhiều. Có thể sử dụng một số chương trình máy tính như Speed Reader hoặc Rapid Reader được tạo ra để hỗ trợ người đọc có thể tăng tốc độ đọc với những từ và chữ cái nhấp nháy.

- Người đọc cần đặt trọng tâm vào hiệu quả của việc đọc, có như vậy mục đích ban đầu họ đặt ra mới thành công. Nói một cách khác là người đọc nên tập trung vào các từ chính trong câu, hay các ý chính trong bài. Sẽ rất lãng phí thời gian nếu họ mất quá nhiều công sức vào các liên từ, giới từ, hay các mạo từ (a, an, the, but, and, or, nor, but, etc.)

- Người đọc cần đánh dấu quá trình đọc một đoạn văn bằng bất kỳ cái gì có thể được. Một cái bút chì, bút nhớ, ngón tay ... đều có thể là tiêu điểm điều khiển mắt người đọc hướng từ trái sang phải hoặc từ trên xuống dưới. Như vậy, họ sẽ không bỏ lỡ các ý chưa đọc mà cũng tránh phải đọc đi đọc lại vì nhầm. Đó quả là một công cụ hữu ích giúp người đọc kiểm soát được quá trình đọc của mình. Và tất nhiên, họ sẽ đọc nhanh và đúng hơn rất nhiều.

Một lời khuyên nữa dành cho người đọc là trong khi đọc, nếu có chỗ nào chưa hiểu rõ thì tốt nhất nên bỏ qua để không làm cản trở quá trình đọc của mình, và sau đó có thể quay trở lại và nghiên cứu kỹ hơn.

1.3.2.4. Những kĩ năng cần thiết khi đọc

Theo Davis (1968:15), những kỹ năng sau rất cần thiết trong quá trình đọc: nhớ lại nghĩa của từ, suy ra nghĩa của từ từ ngữ cảnh, tìm câu trả lời cho những câu hỏi, sắp xếp ý tưởng khi đọc, đọc và suy ra từ nội dung, nhận ra mục đích, thái độ, giọng điệu, tâm trạng của nhà văn, nhận ra phương pháp viết của tác giả và hiểu được cấu trúc của bài viết. Tuy nhiên, về mặt lý thuyết, vẫn còn rất nhiều vấn đề tranh cãi về việc liệu có những kỹ năng đọc khác nhau thật sự tồn tại và nếu có thì những kỹ năng này còn bao gồm những tiểu kỹ năng nào nữa, và chúng được phân loại như thế nào. Cho dù có nhiều tranh cãi như vậy nhưng rõ ràng rằng các kỹ năng đọc gây ảnh hưởng rất lớn đến quá trình đọc. Học thuyết của Eisenberg (1978) về các tiểu kỹ năng dùng trong quá trình đọc đã gây ảnh hưởng rất nhiều đến việc thiết kế chương trình giảng dạy và thiết kế bài kiểm tra. Theo tác giả, có những kỹ năng đọc như nhận ra hệ thống chữ viết của ngôn ngữ, suy ra nghĩa và cách sử dụng của những từ mới, hiểu những thông tin được nêu rõ ràng trong văn bản, hiểu những thông tin không được đề cập rõ ràng trong văn bản, hiểu những khái niệm, những giá trị giao tiếp của câu, hiểu được mối liên hệ giữa các thành phần trong một câu, hiểu được sự liên quan giữa các thành phần trong văn bản nhờ các phương tiện liên kết, diễn đạt lại các bài khóa sau khi đọc, nhận ra những điểm chính hay những thông tin quan trọng trong diễn ngôn, phân biệt ý chính với ý phụ, kỹ năng đọc lướt, kỹ năng đọc lấy thông tin cụ thể, kỹ năng biến thông tin thành các dạng biểu đồ. Dường như sự tiếp cận đọc hiểu theo hướng tiếp cận kỹ năng vẫn là hướng tiếp cận phổ biến và gây ảnh hưởng lớn khiến không thể bỏ qua được khi xét đến bản chất của đọc hiểu. Những tiểu kỹ năng này là những gợi ý khi thiết kế các dạng bài cho sinh viên tự học, tuy nhiên cũng cần phải hết sức thận trọng và cân nhắc sao cho sử dụng chúng thật phù hợp và hiệu quả.

Bên cạnh đó, theo Grellet (1981:25), có sáu nhân tố tạo nên một quá trình đọc hiểu thành công. Đó là: những kỹ năng nhận thức tự động, kiến thức từ vựng và cấu trúc, kiến thức về cấu trúc diễn ngôn theo nghi thức, kiến thức nền về nội dung bài đọc, những kỹ năng tổng hợp và đánh giá, những kiến thức, kinh nghiệm đã được tích lũy từ trước đó. Khi nói về những kiến thức, kinh nghiệm đã được tích lũy từ trước đó, ông phát biểu thêm rằng những kỹ năng này bao gồm những kỹ năng như tìm ra được thông tin quan trọng trong văn bản, điều chỉnh tốc độ đọc, đọc lướt, sử dụng ngữ cảnh, đặt câu hỏi, tự đánh giá thông tin tiếp nhận được trong bài đọc. Rõ ràng rằng, những kỹ năng như lên kế hoạch, kiểm tra mức độ hiểu của cá nhân và tự xem xét lại những phương pháp và những kỹ năng đã sử dụng khi đọc hiểu chính là những yếu tố giúp thành công trong quá trình đọc.

1.3.2.5. Những gợi ý kiểm tra tính tự học của sinh viên

Chúng ta biết rằng, xây dựng phương pháp tự học kỹ năng đọc cho sinh viên bao giờ cũng phải kèm theo những phương pháp đánh giá quá trình tự học của họ. Sau đây là một số gợi ý về cách thức kiểm tra sự tự học của sinh viên.



  • Nên hướng dẫn sinh viên đọc những bài đọc phù hợp với chương trình giảng dạy và được yêu thích, thay vì đọc những bài đọc với những chủ đề nhàm chán và không có nội dung. Bài đọc nên dài một chút và phù hợp với trình độ của sinh viên, sao cho họ có thể sử dụng được những kiến thức đã có để tư duy khi đọc.

  • Nên kiểm tra những kỹ năng và chiến lược cần thiết trong đọc hiểu, sinh viên có thể tự học đọc dựa trên những tiêu chí cần đạt được của bài đọc.

  • Khi kiểm tra kỹ năng đọc hiểu của sinh viên, đáp án nên có những hướng mở đa dạng để kích thích sự suy nghĩ, sự nhận xét, đánh giá của sinh viên.

  • Nhờ sự hỗ trợ của máy tính, những bài đọc khi được thiết kế nên có quy định về thời gian. Có như vậy mới tăng cường được tốc độ đọc, phát huy tính tự chủ, sáng tạo, tích cực của sinh viên.

  • Bài đọc được thiết kế nhằm mục đích kiểm tra vốn hiểu biết của sinh viên về từ vựng, những kỹ năng cú pháp, diễn ngôn, khả năng hiểu nghĩa đen hay những nghĩa được suy ra từ văn bản.

  • Một điều vô cùng quan trọng nữa là khi kiểm tra tính tự học của sinh viên, cần phải suy nghĩ và cân nhắc các phương pháp làm sao kiểm tra được quá trình tự học của họ, chứ không chỉ là sản phẩm của quá trình đọc ấy.


tải về 2.34 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   19




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương