Ba giếng đáy xuyên thẳm địa linh
Đức rộng tài cao nhiều thế kiệt
Lòi sâu rừng rậm sẵn trai lim
Nghìn năm con cháu yêu tông tổ
Giữ lấy quê hương nặng nghĩa tình 133
Làng Phù Chánh thuộc tổng Thủy Liên, huyện Lệ Thủy (nay là xã Hưng Thủy, huyện Lệ Thủy), là một trong số những làng hình thành vào thời các chúa Nguyễn mở cõi về phương Nam, di dân lập nên những làng xã ở vùng đất phía Đông huyện Lệ Thủy. Tọa lạc trên vùng đất tựa lưng vào núi Bạch Sơn (Núi Cát Trắng), mặt nhìn về phía Tây Nam, có cánh đồng hai huyện “bao la bát ngát thẳng cánh cò bay” nên làng có thế phong thủy lý tưởng để có thể “vạn đại dung thân”, lập nghiệp cho muôn đời.
Trong quá trình lập nghiệp, nhân dân làng Phù Chánh không những xây dựng được một nền tảng kinh tế ổn định mà còn tạo dựng được một bề dày truyền thống văn hóa với rất nhiều các giá trị được trao truyền từ đời này sang đời khác. Một trong những giá trị văn hóa làm cho tên làng Phù Chánh nổi tiếng cả nước chính là truyền thống học hành, khoa bảng. Làng Phù Chánh có nhiều phong tục đẹp, trong đó đáng học hơn hết là việc khuyến học, cổ vũ con em học hành từ buổi còn tuổi “học trò” gọi là “hội làm học trò”, nhờ vậy mà trong làng có nhiều người hiếu học, đỗ đạt cao. Khởi đầu cho sự vinh hiển đó là Nguyễn Đăng Tuân, tuổi nhỏ học hành chăm chỉ, nổi tiếng hay chữ. Dưới thời vua Gia Long, Nguyễn Đăng Tuân được cử vào viện Hàn lâm, sung việc dạy hoàng thân quốc thích. Con trai là Nguyễn Đăng Giai, cháu là Nguyễn Đăng Hành, con Đăng Hành là Nguyễn Đăng Củ, con trai Nguyễn Đăng Cũ là Nguyễn Đăng Cư… trải 5 đời liền mạch dòng họ Nguyễn Đăng đã có 5 vị đại khoa134.Có thể nói, những vị này không những có đóng góp rất to lớn góp phần làm vinh quang cho dòng họ và địa phương lúc bấy giờ mà còn được triều đình trọng dụng thỉnh vào triều để đảm trách nhiều việc hệ trọng, trong đó có việc dạy chữ nghĩa, phép tắc cho những yếu nhân trong hoàng tộc.
Làng Hòa Luật (thuộc xã Cam Thủy, huyện Lệ Thủy), được hình thành từ công cuộc di cư từ phía Bắc vào khai phá vùng đất huyện Nha Nghi (Lệ Thủy) từ cuối triều Lê, Mạc, đầu thời các chúa Nguyễn. Trong vị thế của người đi khai mở vùng đất mới, ngay từ khi mới lập làng, người Hòa Luật đã thể hiện bản lĩnh cương cường trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên và xã hội để tồn tại. Tình đoàn kết, gắn bó giữa các cộng đồng họ tộc cùng với quyết tâm xây dựng cộng đồng lãng xã đã vun đắp nên truyền thống văn hóa làng, trao truyền qua nhiều thế hệ.
Trong những truyền thống văn hóa mà nhiều thế hệ người Hòa Luật trân trọng và tự hào thì nổi bật nhất là truyền thống học hành, khoa cử. Vốn có tinh thần hiếu học và truyền thống học giỏi nên đời nào làng Hòa Luật cũng có nhiều người thành đạt. Một làng nhỏ bé, vừa mới hình thành nhưng ngay từ cuối thời Lê, sang thời Mạc đã có tới 15 vị đỗ đạt, tập trung vào một dòng họ là Võ Xuân.
Sang thời Nguyễn, truyền thống ấy càng có cơ hội phát huy và nhiều người đã chiếm được vị trí cao trên đường khoa bảng và hoạn lộ của cả nước như Võ Xuân Cẩn, được phong nhiều phẩm hàm quan trọng như Tổng đốc rồi Thượng thư, Hiệp biện Đại học sĩ, Ngự tiền đại thần, Đông các đại học sĩ, Hoàng thân thư bảo kiêm lãnh Quốc Tử giám, khi mất được thờ miếu Hiền Lương. Trong dòng họ có nhiều đời kế nhau làm quan to, chỉ riêng dưới thời nhà Nguyễn, một dòng họ trong làng Hòa Luật đã có tới 49 vị đỗ đạt, được bổ đi làm quan ở các nơi với nhiều chức vụ khác nhau. Trong đó có Võ Xuân Duyến, Võ Xuân Nghi đều là sinh đồ Quốc Tử giám; Võ Xuân Thọ làm Tri huyện Hương Trà, Võ Xuân Cẩm nhậm chức Hộ phòng đô cảm Bình Định, Võ Xuân Ân làm Tri huyện Thuận Yến; Võ Xuân Khánh làm Tri huyện Nghi Xuân; Võ Xuân Phong làm Viên ngoại Thị lang; Võ Xuân Yên làm Tri phủ Khánh Hòa; Võ Xuân Xán thi đỗ Tiến sĩ thời Tự Đức làm Thị lang bộ Hộ và rất nhiều vị quan lại khác.
Trong làng Hòa Luật cũng có hai nhân vật hiếm thấy là là ông Võ (Vũ) Xuân Cẩn - thầy dạy của vua Dục Đức và bà Hoàng Quý Phi một trong những người vợ của vua Tự Đức. Ông Võ Xuân Cẩn là người kiêm toàn văn võ, Đông các Đại học sĩ, tu nghiệp Quốc Tử giám, phò 4 vua triều Nguyễn được phong chức Thái bảo, lúc mất được vua ban cho 4 chữ “Tứ triều nguyên lão”135.
Làng Mỹ Lộc (thuộc xã An Thủy, huyện Lệ Thủy), được hình thành cùng thời với quá trình Hoàng Hối Khanh đưa 12 dòng họ từ Thanh Hóa vào lập nghiệp tại Lệ Thủy cuối thời nhà Trần. Nếu kể từ sự khởi phát để định hình nơi cư trú của làng cho đến nay đã hơn 500 năm. Tọa lạc trên một vùng quê đất đai trù phú, ruộng đồng tươi tốt, lại nằm cận kề với phủ lỵ huyện Lệ Thủy nên làng Mỹ Lộc có điều kiện hết sức thuận lợi để phát triển kinh tế, xã hội. Trải qua 500 năm lịch sử, con em trong làng đã xây dựng được một bề dày truyền thống, trong đó nổi bật là truyền thống học hành, khoa cử.
Ngay từ thời Lê, đã có những con làng Mỹ Lộc hiếu học và thành đạt trên con đường khoa cử như Nguyễn Đình Cầu, Nguyễn Đình Bảo, Phan Lại, Phan Tri Châu, Hoàng Khuông Lĩnh và nhiều người khác đã ghi tên vào bảng vàng khoa cử và được bồ làm quan ở nhiều nơi. Đến thời nhà Nguyễn, làng Mỹ Lộc đã có nhiều vị đỗ cử nhân cả hai ngạch văn võ, trong đó có nhiều người đã được triều đình cử đi trấn nhậm nhiều nơi trong nước như Phạm Hữu Mẫn làm quan đến chức Thượng thư bộ Lễ; Phạm Trọng Nghi làm quan đến chức Thị lang bộ Lễ; Phạm Văn Dõng, Ngô Mậu Quang, Lê Văn Dũng, làm quan chức Đề đốc; Nguyễn Thưởng, Phạm Nhũ Noãn làm Lãnh binh,...
Đặc biệt, trong làng có gia tộc họ Vũ mấy đời học giỏi và thành đạt trong khoa bảng, hoạn lộ. Cả cha con anh em trong một gia đình là Vũ Bá Liêm, Vũ Trọng Trinh, Vũ Trọng Bình. Trong đó, Vũ Trọng Bình được biết đến là một vị quan nổi tiếng thanh liêm, chính trực, luôn luôn lo cho dân và có nhiều công lao đóng góp cho triều đình136. Ông được triều đình nhà Nguyễn đánh giá là người “luôn giữ lòng trong sạch, làm việc siêng năng, việc trong hạt đều đâu ra đấy, lại dân yêu phục” nên ông được sung làm Cơ Mật viện Đại thần và ban tặng một cái khánh vàng khắc chữ “Liêm Bình Cẩn Cán”. Năm 1864, nhà vua lại nhận xét ông “Vũ Trọng Bình thanh liêm, chăm chỉ, nhanh nhẹn, tài cán, đến đâu cũng có tiếng tốt” nên thăng thự Hiệp biện Đại học sĩ”137.
Kế tục truyền thống tổ tiên, người Mỹ Lộc vẫn duy trì truyền thống hiếu học và học giỏi. Khi triều Nguyễn đã bước vào thời mạt kỳ, làng Mỹ Lộc vẫn đóng góp thêm một vị tiến sĩ vào khoa thi Đình cuối cùng năm 1919 là Tiến sĩ Võ Khắc Triển. Ông được triều đình bổ dụng làm Án sát, sau đó làm Tham trị, có nhiều đóng góp xây dựng đất nước trong những năm chống Pháp và thời kỳ hòa bình xây dựng.
Làng Lộc An (thuộc xã An Thủy, huyện Lệ Thủy), là một làng quê trong vùng chiêm trũng Lệ Thủy, được hình thành cách ngày nay hơn 500 năm. Lộc An là một làng thi lễ, có nền tảng văn hóa lâu đời. Thời nào làng Lộc An cũng có người đỗ đạt, được trọng dụng, làm rạng danh truyền thống của làng. Người đầu tiên của làng ghi danh bảng vàng khoa cử là cụ Nguyễn Thế Trực đỗ Giải nguyên thời Lê mạt, làm quan dưới ba triều đại là chúa Nguyễn, Tây Sơn và nhà Nguyễn, đến chức Thượng thư. Kế tục truyền thống cha ông, các thế hệ sau Nguyễn Thế Trực đã có công học hành, dùi mài kinh sử, dành được những vị trí xứng đáng trong bảng vàng khoa cử của đất nước và địa phương, được cử đảm trách những chức vụ quan trọng như Võ Trọng Gia làm Tri phủ Hoài Đức, Nguyễn Thế Xán làm Tri huyện Thanh Thủy (Vĩnh Phú), Nguyễn Văn Dị làm Tổng đốc Hải Dương, Lê Văn Hy giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử giám và 3 con của ông là Lê Văn Nguyên, Lê Văn Túy, Lê Văn Diễn đều đỗ Hương cống và được bổ làm quan ở các châu, huyện trong nước.
Trên đây chỉ là một số trong rất nhiều làng xã có truyền thống hiếu học, học giỏi và thành công trên con đường khoa cử đã để lại nhiều tấm gương sáng cho các thế hệ con em người Quảng Bình noi theo.
Như vậy khoa cử đã góp phần làm phong phú thêm bề dày văn hóa làng xã. Để ghi ơn những bậc tiền bối đã làm rạng rỡ cho quê hương, nhân dân các làng xã tổ chức dựng miếu thờ những người học hành, đỗ đạt, khai khoa cho làng, cho xã, huyện, ghi tên tuổi, người học giỏi vào bảng vàng bia đá, lưu danh muôn đời. Qua học hành, khoa bảng, nhân dân Quảng Bình đã tạo ra một diện mạo mới trong văn hóa truyền thống, góp phần thúc đẩy đời sống văn hóa vật chất và tinh thần trên địa bàn Quảng Bình.
Mặc dù không tránh khỏi một số hạn chế có tính chất thời đại, nhưng những cố gắng của triều đình nhà Nguyễn (đặc biệt là dưới thời Minh Mạng) trong việc cải cách nền hành chính quốc gia, mở mang phát triển kinh tế, đặc biệt là chính sách khuyến nông và những điều chỉnh trong chính sách văn hóa, xã hội đã tạo ra một giai đoạn phát triển khá toàn diện của đất nước.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |