Ban biên tập chương I chức năNG, nhiệm vụ, quyền hạn ngành lao đỘng- thưƠng binh và XÃ HỘI


Trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân cấp xã đối với đào tạo nghề cho lao động nông thôn



tải về 5.01 Mb.
trang9/48
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích5.01 Mb.
#19765
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   48

4. Trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân cấp xã đối với đào tạo nghề cho lao động nông thôn

- Thành lập Ban chỉ đạo triển khai Đề án 1956 ở cấp xã để giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã tổ chức triển khai thực hiện, kiểm tra, giám sát và đánh giá việc thực hiện Đề án trên địa bàn xã. Ban hành Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo cấp xã.

- Tổ chức Hội nghị quán triệt, phổ biến về Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ tới cán bộ chủ chốt của xã.

- Tham mưu, đề xuất với Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân cấp xã có Nghị quyết chuyên đề về Đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

- Hàng năm, xác định nội dung tuyên truyền, tư vấn học nghề và việc làm đối với lao động nông thôn và phân công cụ thể cho các tổ chức của xã triển khai thực hiện.

- Xác định nghề cần đào tạo, người có nhu cầu học nghề và tham gia lựa chọn cơ sở đào tạo nghề.

- Xây dựng kế hoạch triển khai đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn xã theo hướng dẫn của Uỷ ban nhân dân huyện.

- Chỉ đạo tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn xã.

- Thực hiện các hoạt động tuyên truyền; điều tra, khảo sát nhu cầu học nghề của lao động nông thôn, nhu cầu sử dụng lao động qua đào tạo nghề của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và của thị trường lao động trên địa bàn; trên cơ sở đó xác định danh mục nghề đào tạo và kế hoạch dạy nghề của xã; thực hiện các hoạt động khác của Đề án do Uỷ ban nhân dân cấp huyện giao. Xây dựng kế hoạch, tổ chức điều tra khảo sát và dự báo nhu cầu dạy nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn xã theo hướng dẫn của Uỷ ban nhân dân huyện.

- Tạo điều kiện và giám sát các đơn vị tham gia dạy nghề cho lao động nông thôn tổ chức các lớp dạy nghề và tổ chức việc làm trên địa bàn.

- Phối hợp với cơ quan, đơn vị có liên quan quản lý, kiểm tra hoạt động dạy, học nghề theo hình thức kèm cặp nghề trong các hộ gia đình, làng nghề tại địa phương.

- Thống kê các đối tượng được hưởng chính sách người có công, quân nhân xuất ngũ, người dân tộc thiểu số, người thuộc hộ nghèo, người tàn tật, người trực tiếp lao động trong các hộ sản xuất nông nghiệp bị thu hồi đất canh tác và các đối tượng chính sách xã hội khác trên địa bàn quản lý đang trong độ tuổi lao động trên địa bàn chưa qua đào tạo nghề, có nhu cầu học nghề để xét tuyển vào các khoá học nghề theo quy định.

- Xác nhận đối tượng thuộc diện hưởng các chế độ hỗ trợ theo Đề án để thực hiện công tác hỗ trợ cho người học theo quy định.

- Phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện chính sách dạy nghề cho các đối tượng được hưởng chính sách ở địa phương, bảo đảm chính sách được thực hiện đúng mục đích, đúng đối tượng.

- Mở sổ theo dõi lao động nông thôn đã được học nghề để bảo đảm đúng chính sách đối với người học nghề là mỗi lao động nông thôn chỉ được hỗ trợ học nghề một lần theo chính sách của Đề án. Những người đã được hỗ trợ học nghề theo các chính sách khác của Nhà nước thì không được tiếp tục hỗ trợ học nghề theo chính sách của Đề án này. Riêng những người đã được hỗ trợ học nghề những bị mất việc làm do nguyên nhân khách quan thì UBND cấp tỉnh xem xét, quyết định tiếp tục hỗ trợ học nghề để chuyển đổi việc làm theo chính sách của Đề án này nhưng tối đa không quá 03 lần.

- Chỉ đạo các thôn, bản, phum, sóc... (cấp thôn) thực hiện các công việc sau:

+ Thực hiện các hoạt động tuyên truyền, vận động bà con nhân dân tham gia học nghề để nâng cao năng suất lao động; điều tra, khảo sát nhu cầu học nghề của lao động nông thôn.

+ Thống kê các đối tượng được hưởng chính sách người có công, quân nhân xuất ngũ, người dân tộc thiểu số, người thuộc hộ nghèo, người tàn tật, người trực tiếp lao động trong các hộ sản xuất nông nghiệp bị thu hồi đất canh tác và các đối tượng chính sách xã hội khác trên địa bàn thôn quản lý đang trong độ tuổi lao động trên địa bàn chưa qua đào tạo nghề, có nhu cầu học nghề để báo cáo Uỷ ban nhân dân cấp xã xét tuyển vào các khoá học nghề theo quy định.

+ Tham gia xác định nghề cần tổ chức đào tạo, người có nhu cầu học nghề, cơ sở được lựa chọn tham gia đào tạo và giám sát việc tổ chức đào tạo nghề trên địa bàn.

+ Tạo điều kiện cho các đơn vị tham gia dạy nghề cho lao động nông thôn tổ chức các lớp dạy nghề trên địa bàn thôn.



Chuyên đề 5

NHIỆM VỤ CỤ THỂ CỦA CÔNG CHỨC CẤP XÃ PHỤ TRÁCH

LĨNH VỰC LAO ĐỘNG, NGƯỜI CÓ CÔNG VÀ XÃ HỘI VỀ DẠY NGHỀ

CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN

I. Kỹ năng tư vấn chọn nghề, xác định nhu cầu học nghề, xây dựng kế hoạch triển khai các lớp đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn xã

1. Kỹ năng tư vấn chọn nghề

1.1. Khái niệm về tư vấn nghề

Tư vấn nghề là lời khuyên bằng lời hoặc các tài liệu có liên quan tới sự lựa chọn nghề của những nhà chuyên môn trên cơ sở những tư liệu do chẩn đoán nghề mang lại.

Về bản chất, tư vấn là một hoạt động thông tin nhằm đáp ứng nhu cầu của một cá nhân hay của một nhóm người muốn hiểu biết về một đối tượng hoạt động nghề mà họ chưa có điều kiện tiếp cận một cách cặn kẽ và hoàn chỉnh.

Như vậy, tư vấn nghề cũng có thể được hiểu như một hoạt động thông tin nhằm giúp học sinh nâng cao nhận thức, hiểu biết về nghề và hoạt động nghề, lĩnh vực nghề riêng biệt.

Mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng thông qua nội dung trong hoạt động tư vấn có thể được biểu hiện qua sơ đồ sau:

Sơ đồ: Mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng trong hoạt động tư vấn

Hoạt động tư vấn nghề thường được tiến hành dưới 2 dạng chủ yếu là:

- Tư vấn cá biệt được thực hiện tay đôi giữa chủ thể tư vấn và một cá nhân học sinh nào đó có nhu cầu.

- Tư vấn nhóm xã hội diễn ra với sự có mặt của chủ thể tư vấn với một số người nhất định (một nhóm học sinh, một nhóm cha mẹ học sinh, một chủng loại giới tính,một tập thể lớp họ có chung một hoàn cảnh...)



1.2. Chức năng của tư vấn nghề

Chức năng thông tin: Đây là chức năng rất quan trọng của tư vấn, bởi nó có khả năng đáp ứng những thiếu hụt thông tin để hoàn tất hoặc bổ sung, sửa đổi những gì đối tượng tư vấn đã biết. Trong hoạt động thực tiễn, do sự biến động của xã hội, của hoàn cảnh, thường thì những gì chúng ta đã biết, đã quen thuộc ngày hôm nay sẽ lạc hậu bởi ngày mai và những khoảng thời gian sau nữa. Ngay cả trên một hoạt động cụ thể, không phải ai cũng hiểu biết một cách toàn diện, cặn kẽ đối tượng hoạt động của mình.

Sự hiểu biết thiếu đầy đủ, hoặc sai lệch có thể dẫn tới những hậu quả thấp kém hoặc tai hại khôn lường. Chính vì thế, việc cung cấp thông tin của chủ thể tư vấn là nguồn vốn bổ ích giúp cho đối tượng có điều kiện tham khảo, xem xét, cân nhắc trong việc thực hiện một hoạt động đáp ứng nhu cầu, mục đích của họ.

Thông tin trong tư vấn nghề là một dạng phi vật chất, song nhờ có phương tiện này, nó có thể tổng hợp thành kết quả dưới dạng một thông tin mới mang tính chủ thể của đối tượng tiếp thu nó để chỉ đạo các hoạt động tiếp theo hoặc dưới dạng lợi nhuận vật chất nhờ có quyết sách đúng.

Chức năng uốn nắn và điều chỉnh: Đây là chức năng đi kèm với chức năng thông tin, nhờ hiệu quả của chức năng thông tin mang lại.

Trong tư vấn nghề thông tin do chủ thể tư vấn mang lại có thể xuất phát thuận chiều với đề xuất, ý nguyện chứa đựng tính khách quan, phù hợp với lôgíc phát triển của thực tiễn. Song, do nhiều nguyên nhân (trạng thái tâm lý, trình độ học vấn, kinh nghiệm sống, các mối quan hệ xã hội...) khiến cho tầm nhìn và sự hiểu biết của đối tượng có tính phiến diện, lỗi thời, hoặc vượt khỏi khả năng của bản thân, khi đó chủ thể tư vấn dựa trên việc cung cấp thông tin chính diện, đưa ra những lời khuyên bổ ích,chúng được coi như những khuyến cáo giúp cho đối tượng tư vấn suy xét, điều chỉnh những suy nghĩ, việc làm của mình cho phù hợp với thực lực và đòi hỏi của khách quan. Với ý nghĩa như vậy, để thực hiện chức năng này, những thông tin do chủ thể tư vấn mang tới cho đối tượng cần đảm bảo chính xác, toàn diện và lời khuyên giải của chủ thể phải chân tình, đúng đắn.



Chức năng xã hội: tư vấn nghề là một hoạt động xã hội, biểu hiện mối quan hệ giữa con người với con người (một cá thể này với một cá thể khác hoặc một tổ chức này với một tổ chức khác), được diễn ra hàng ngày, bằng con đường tự phát hoặc tự giác. Tư vấn cũng là một quá trình giao tiếp diễn ra nhờ quá trình trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, giúp đỡ nhau trong những hoạt động đa dạng của đời sống : cha mẹ khuyên con cái, thầy cô giảng dạy học sinh/sinh viên, thầy thuốc khuyên nhủ học sinh…Những hoạt động như trên có thể khác nhau về mức độ, song ít nhiều chúng đều phản ánh màu sắc của hoạt động tư vấn. Tuy nhiên, để hoạt động xã hội này đem lại hiệu quả cao trong các mối quan hệ xã hội, nó cần được tổ chức một cách khoa học, có sự tham gia đồng bộ của nhiều lực lượng, được thiết lập và hoạt động theo những quy trình có chọn lọc để hướng tới sự phát triển của mỗi con người, mỗi cộng đồng và cho toàn xã hội trên cơ sở làm thoả mãn những nhu cầu đặt ra của đối tượng tư vấn.

1.3. Các hình thức tư vấn nghề

Trong thực tế hiện nay có rất nhiều hình thức tư vấn, nghề

- Tư vấn trực tiếp: Là hình thức người tư vấn trực tiếp nói chuyện với người cần tư vấn.

- Tư vấn qua điện thoại: Là hình thức người tư vấn nói chuyện với người cần tư vấn qua điện thoại.

- Tư vấn cộng đồng: Là hình thức người tư vấn nói chuyện với tập thể người cần tư vấn (chi hội, Câu lạc bộ...).

- Tư vấn qua thư: Là hình thức người tư vấn trao đổi với người cần tư vấn về một vấn đề nào đó bằng lá thư.

- Tư vấn trên phương tiện truyền thanh, bản tin, tập san của nhà trường, của Hội: Là hình thức trao đổi với người cần tư vấn thông qua mục hỏi, đáp.

1.4. Các nguyên tắc của tư vấn nghề cho lao động nông thôn

Khi tiến hành tư vấn nghề cho lao động nông thôn cần nắm vững các nguyên tắc sau:

(1). Xác định người cần tư vấn đang ở giai đoạn nào của quá trình thay đổi hành vi, trên cơ sở đó giúp đỡ, hỗ trợ lao động nông thôn vượt qua rào cản của giai đoạn ấy đạt tới sự thay đổi cần thiết.

(2). Biểu lộ sự thông cảm và chân thành.

(3). Tỏ rõ sự tôn trọng lao động nông thôn cần tư vấn: Lắng nghe, nhìn vào mắt, nhạy cảm và hiểu những gì lao động nông thôn nói.

(4). Tránh nói to, không phán quyết và đưa ra ý kiến cá nhân.

(5). Người cần tư vấn là người đưa ra quyết định.

1.5. Tiến trình tư vấn

Việc tư vấn, hỗ trợ giữa người tư vấn với người cần tư vấn, thực hiện qua 6 bước, được tóm tắt bằng 6 chữ cái đầu của từ THÂN ÁI:

(1). Tiếp đón niềm nở, tập trung chú ý hoàn toàn đến lao động nông thôn được tư vấn.

(2). Hỏi thăm tình hình của lao động nông thôn cần tư vấn bằng những câu hỏi ngắn gọn, gần gũi, dễ hiểu.

(3). Ân cần hướng dẫn đối tượng những điều mà bạn muốn lao động nông thôn cần tư vấn thực hiện.

(4). Nhẫn nại giúp đỡ, giải thích cho lao động nông thôn cần tư vấn để họ lựa chọn quyết định về vấn đề của họ.

(5). Áp lực căng thẳng của lao động nông thôn cần tư vấn phải được giảm tối đa bằng cách nói rõ mọi điều, động viên lao động nông thôn đưa ra câu hỏi và trả lời rõ mọi câu hỏi của lao động nông thôn cần tư vấn để họ yên tâm thực hiện hành vi tích cực về vấn đề của họ.

(6). Ích lợi của việc trở lại gặp bạn phải được giải thích cặn kẽ và dặn LĐNT trở lại bất cứ lúc nào họ cần biết thêm thông tin hoặc tiếp tục cần sự trợ giúp.



1.6. Các kỹ năng cơ bản tư vấn nghề cho lao động nông thôn

Tuỳ thuộc vào từng hình thức tư vấn, hỗ trợ lao động nông thôn để thực hiện tốt các kỹ năng sau trong quá trình tư vấn:



* Kỹ năng tìm hiểu:

Tìm hiểu như thế nào? Tìm hiểu qua ngôn ngữ, cử chỉ, nét mặt, ánh mắt của LĐNT cần tư vấn; tạo bầu không khí cởi mở, sử dụng từ ngữ đơn giản, dùng các câu hỏi mở, khuyến khích đối thoại, tránh ngắt quãng; hỏi nguyên nhân bằng các câu hỏi ngắn gọn, đơn giản, dễ hiểu, dễ trả lời.

* Kỹ năng lắng nghe:

- Cần phải quan tâm và hứng thú với những điều lao động nông thôn cần tư vấn trình bày.

- Không tranh luận hoặc có định kiến với những điều lao động nông thôn cần tư vấn nói.

- Hỗ trợ để lao động nông thôn cần tư vấn bày tỏ ý kiến của mình và đưa ra những gợi ý giúp lao động nông thôn cần tư vấn giải quyết vấn đề.

- Lắng nghe và có thái độ đồng cảm, tự đặt mình vào vị trí của lao động nông thôn cần tư vấn.

- Tránh tỏ ra chán chường (ví dụ ngáp vặt), không quan tâm, lơ đãng hoặc không nhìn vào lao động nông thôn cần tư vấn (đọc hoặc viết cái gì đó).



* Kỹ năng quan sát:

Quan sát LĐNT cần tư vấn: Tầm vóc, cử chỉ, gương mặt, cách ăn mặc, đi đứng, cách nói năng, tình cảm, thái độ của lao động nông thôn.

Quan sát hoàn cảnh xung quanh: âm thanh, không khí, thời tiết, các điều kiện địa lý xung quanh.

Quan sát môi trường, xã hội: Ai là bạn của lao động nông thôn cần tư vấn? Ai là người có ảnh hưởng tới lao động nông thôn cần tư vấn?



* Kỹ năng diễn đạt:

- Sử dụng từ ngữ rõ ràng, đơn giản, cụ thể.

- Tạo cho cuộc nói chuyện trở nên dễ chịu, vui vẻ, thoải mái.

- Đưa ra những ví dụ cụ thể gần với hoàn cảnh của lao động nông thôn cần tư vấn.

- Hỗ trợ lời nói bằng các cử chỉ, dáng điệu, nét mặt, ánh mắt ...
- Duy trì giọng nói hấp dẫn.

* Kỹ năng động viên:

- Động viên khuyến khích lao động nông thôn cần tư vấn để họ mạnh dạn trao đổi những suy nghĩ tình cảm. 

- Động viên khuyến khích để lao động nông thôn cần tư vấn tin tưởng thực hiện các hành vi có lợi.

- Động viên khuyến khích lao động nông thôn cần tư vấn bằng cử chỉ, dáng điệu, nét mặt, ánh mắt.



1.7. Một số điều kiện đảm bảo cho tư vấn nghề cho lao động nông thôn có hiệu quả:

* Đảm bảo các điều kiện về cơ sở vật chất, nguồn lực:

- Bố trí văn phòng tư vấn, kinh phí hoạt động thường xuyên.


- Trang bị đủ tài liệu nghiên cứu và tài liệu hỗ trợ LĐNT được tư vấn.

- Tuyển chọn, bố trí, tập huấn thường xuyên cho cán bộlàm nhiệm vụ tư vấn.



* Tạo môi trường tư vấn, hỗ trợ thuận lợi:

- Trong tư vấn trực tiếp thì môi trường thuận tiện là điều kiện quan trọng giúp cho tư vấn đạt hiệu quả, do đó cần có khu vực riêng để gặp mặt, trao đổi, nơi tư vấn phải kín đáo .



* Thực hiện bảo mật trong tư vấn, hỗ trợ cá nhân:

- Sự tin tưởng là nền tảng cho mối quan hệ giữa lao động nông thôn cần tư vấn với cán bộ tư vấn.

- Một khi lao động nông thôn cần tư vấn tin rằng cán bộ tư vấn sẽ giữ bí mật mọi thông tin về họ thì họ sẽ trao đổi những mối quan tâm, lo lắng và các vấn đề của mình một cách thoải mái mà không sợ rằng những người khác có thể biết những thông tin mà họ nói ra.

- Để bảo mật cần tuân thủ những quy ước sau:

Kín đáo: Cuộc tư vấn cần bố trí ở những vị trí thích hợp để người khác không nghe thấy, không bị quấy rầy;

+ Lưu trữ địa chỉ liện hệ của lao động nông thôn cần tư vấn ở nơi an toàn, sử dụng mã số để không dùng tên của lao động nông thôn cần tư vấn.

Giải thích ngay từ đầu cuộc tư vấn về bảo mật cho lao động nông thôn cần tư vấn.

Xác định không có bất kỳ ngoại lệ nào liên quan đến bảo mật.

Xây dựng những quy định của tổ chức một cách rõ ràng, cụ thể nhằm củng cố tính bảo mật.

Đảm bảo lao động nông thôn có đầy đủ thông tin để họ đưa ra quyết định phù hợp.



* Rèn luyện kỹ năng và nâng cao trình độ hiểu biết của người tư vấn:

- Xuất phát từ yêu cầu phát triển mọi mặt của xã hội và yêu cầu phát triển của công tác tư vấn đòi hỏi người tư vấn phải nâng cao trình độ của mình về mọi mặt để đáp ứng nhu cầu tư vấn của lao động nông thôn.

- Các phương tiện thông tin ngày càng nhiều, lao động nông thôn nắm bắt rất nhanh nên người tư vấn phải luôn cập nhật thông tin và không thể lạc hậu hơn so với lao động nông thôn.

- Lao động nông thôn tin tưởng và dành thời gian (thậm chí cả vật chất) để được tư vấn, vì vậy chuyên gia tư vấn phải làm việc để xứng với niềm tin của lao động nông thôn.

- Đội ngũ tư vấn phải không ngừng học hỏi về phương pháp tư duy khoa học, phân tích, tổng hợp, nhanh chóng tìm ra bản chất để luyện cho việc tư vấn ngày càng tốt hơn.

2. Xây dựng kế hoạch triển khai lớp đào tạo nghề cho lao động nông thôn

Kế hoạch chính là việc lập kế hoạch hay nói cách khác là xây dựng và soạn thảo bản kế hoạch đó, trong đó cần xác định: Phải làm những việc gì và làm việc đó như thế nào? Khi nào làm? Làm ở đâu? Ai làm?. Trong việc lập kế hoạch ta cần phải xác định rõ mục tiêu, và các mục tiêu đó phải đảm bảo tính khả thi và hợp lý.

Vì vậy, kế hoạch có tầm quan trọng như sau:

- Kế hoạch sẽ giảm bớt độ bất định và nhà trường, trung tâm có thể ứng phó kịp thời với những biến đổi bên ngoài;

- Tập trung được sự chú ý và cố gắng của mọi người vào mục tiêu đã xây dựng;

- Tạo khả năng thực hiện công việc một cách kinh tế;

- Làm cho người quản lý kiểm tra một cách dễ dàng hơn việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, giáo viên, công nhân viên trong đơn vị.

a) Phân loại kế hoạch

Kế hoạch được phân loại căn cứ vào các tiêu chí khác nhau.



Căn cứ vào thời gian có:

- Kế hoạch dài hạn: từ 10 năm trở lên;

- Kế hoạch trung hạn: từ 5 - 10 năm;

- Kế hoạch ngắn hạn: từ 1 - 2 năm hoặc ngắn hơn.



Căn cứ vào phạm vi hoạt động có:

- Kế hoạch của toàn ngành trong phạm vi cả nước;

- Kế hoạch ngành ở từng địa phương: Tỉnh, huyện, thành phố…;

- Kế hoạch bộ phận: Kế hoạch của từng vấn đề, từng bộ phận trong quá trình thực hiện kế hoạch của ngành.



Căn cứ vào khuôn khổ, thời gian, tính chất, mục tiêu có:

- Kế hoạch chiến lược: Đặc điểm của kế hoạch chiến lược là thời gian thực hiện dài, bao gồm nhiều vấn đề hay toàn bộ vấn đề. Để thực hiện kế hoạch thường phải sử dụng các biện pháp lớn và đòi hỏi nhiều nguồn lực.

- Kế hoạch chiến thuật (Kế hoạch tác nghiệp): Đặc điểm của kế hoạch chiến thuật là thời gian thực hiện ngắn và lập kế hoạch với các lĩnh vực cụ thể, để thực hiện kế hoạch không đòi hỏi những nguồn lực lớn.

- Kế hoạch chiến lược và kế hoạch chiến thuật khác nhau về khuôn khổ, thời gian, tính chất, mục tiêu nên ở cấp quản lý nào cũng có thể xây dựng được kế hoạch chiến lược và kế hoạch chiến thuật.



b) Quy trình lập kế hoạch

Bước 1: Nhận thức cơ hội

Đây không phải là bước bắt buộc nhưng để xây dựng được kế hoạch tốt thì người quản lý phải nhận thức trước được cơ hội, tức là người quản lý phải làm dự báo để nhận thức được những điểm yếu, điểm mạnh, thời cơ, nguy cơ và những thuận lợi, khó khăn cho việc thực hiện kế hoạch.



Bước 2: Thành lập các mục tiêu

Cần xác định rõ các mục tiêu với các kết quả cụ thể cần đạt được sau từng thời gian nhất định. Các kết quả này phải thể hiện dưới các chỉ tiêu số lượng và chất lượng.



Bước 3: Xác định các tiền đề của kế hoạch

Là các giả thiết về hoàn cảnh trong đó kế hoạch sẽ được thực hiện gồm:

- Các tiền đề ngoài cơ sở ví dụ như: Tình hình kinh tế - chính trị địa phương; Dân số; Môi trường pháp lý, văn hóa, Khoa học công nghệ …;

- Các tiền đề trong cơ sở ví dụ như: Cơ cấu tổ chức; Các thể chế, quy định; Vấn đề nhân lực, ngân sách, cơ sở vật chất kỹ thuật …;

Để xác định được các tiền đề trên, người quản lý cần phải tìm hiểu, điều tra, khảo sát và hỏi các chuyên gia tư vấn về các lĩnh vực liên quan.

Bước 4: Xác định các phương án

Đưa ra một số phương án hành động để có thể thực hiện được mục tiêu đề ra. Phương án hành động bao gồm: Các công việc cụ thể phải làm để đạt được mục tiêu và những biến pháp tổ chức thực hiện các công việc đó.



Bước 5: Đánh giá và so sánh các phương án

Bước 6: Lựa chọn phương án tối ưu

Có thể sử dụng các phương pháp như: Phân tích để xem phương án nào sử dụng nguồn lực, nguồn vốn ít nhất nhưng vẫn đạt được mục tiêu; Dựa vào kinh nghiệm thục tiễn của bản thân các nhà quản lý; Nếu cần thiết có thể phải tiến hành thực nghiệm.



Bước 7: Lập kế hoạch chung và kế hoạch bộ phận

Căn cứ mục tiêu tổng thể để lập kế hoạch chung cho đơn vị trên cơ sở các kế hoạch bộ phận như: Kế hoạch xây dựng đội ngũ; Kế hoạch đào tạo; Kế hoạch nghiên cứu khoa học …



Bước 8: Lập kế hoạch tài chính.

Chú ý:

Tùy theo yêu cầu cụ thể, trong quá trình lập kế hoạch, chúng ta có thể gộp 8 bước trên thành 4 bước lớn như sau:

Bước 1. Xác định mục tiêu gồm: Bước 1 + 2 + 3

Bước 2. Xây dựng và lựa chọn phương án tối ưu: Bước 4 + 5 + 6

Bước 3. Lập kế hoạch chung và kế hoạch bộ phận

Bước 4. Lập kế hoạch tài chính.



3. Tổ chức khóa đào tạo nghề cho lao động nông thôn

Tổ chức các khóa đào tạo nghề cho lao động nông thôn phải đảm bảo:

- Đào tạo nghề theo đúng nhu cầu học nghề của lao động nông thôn;

- Đào tạo nghề đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động;

- Gắn với tạo việc làm, tự tạo việc làm.

II. Phối hợp tổ chức lớp, giám sát công tác các lớp đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn xã

1. Chính quyền địa phương

Với vai trò chỉ đạo tổ chức thực hiện đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn, chính quyền địa phương là người “đặt hàng đào tạo” cần tổ chức thực hiện:

- Các hoạt động tuyền truyền cho lao động nông thôn hiểu được các chủ trương chính sách ưu đãi của Nhà nước về công tác đào tạo nghề;

- Hướng nghiệp cho lao động nông thôn về công tác đào tạo nghề, tìm việc làm và tự tạo việc làm;

- Phối hợp với Cơ sở dạy nghề tổ chức điều tra, khảo sát nhu cầu học nghề của lao động nông thôn, nhu cầu sử dụng lao động qua đào tạo nghề của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và của thị trường lao động trên địa bàn;

- Kiểm tra, giám sát trước, trong và sau khi kết thúc các khóa đào nghề cho cho lao động nông thôn trên địa bàn: Chính quyện địa phương tham gia lựa chọn đúng đối tượng học nghề; cùng quản lý giám sát quá trình đào tạo nghề diễn nghiêm túc đảm bảo các chế độ chính sách ưu đãi đối với lao động nông thôn khi tham gia học nghề, đúng theo nội dung chương trình; giám sát hiệu quả sau đào tạo: việc làm sau khi kết thúc khóa đào tạo hoặc cam kết bao tiêu sản phẩm…).

- Đảm bảo quyền lợi các Doanh nghiệp đã đầu tư đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đầu tư giống, thuốc trừ sâu…;

- Tổ chức ký cam kết tạo việc làm hoặc bao tiêu sản phẩm giữa Doanh nghiệp- cơ sở dạy nghề và người học nghề.



2. Cơ sở đào tạo

Với vai trò là người được đặt hàng đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn cơ sở đào tạo cần tổ chức thực hiện:

- Xác định nhu cầu học nghề của lao động nông thôn;

- Điều tra, khảo sát nhu cầu sử dụng lao động qua đào tạo nghề của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và của thị trường lao động trên địa bàn;

- Tham gia tư vấn lựa chọn học nghề, giới thiệu việc làm cho lao động nông thôn;

- Tổ chức dạy nghề cho lao động nông thôn, bảo đảm nội dung và chất lượng đúng cam kết với Doanh nghiệp và Người học nghề.



3. Doanh nghiệp

Vai trò chính là đảm bảo việc làm cho người lao động sau khi tốt nghiệp bằng cách tuyển dụng họ vào làm việc trong doanh nghiệp hoặc bao tiêu sản phẩm cho người lao động sau thu hoạch với giá có bảo đảm trong mọi trường hợp của thị trường tiêu thu sản phẩm.

- Ngoài ra Doanh nghiệp tham gia xây dựng chương trình dạy nghề phù hợp với thực tế sản xuất, cùng tham gia đào tạo nghề thông qua việc cử cán bộ kỹ thuật, công nhân có tay nghề cao tham gia giảng dạy hoặc cung cấp công nghệ, nhà xưởng, nơi thực hành cho người học nghề.

- Hỗ trợ người học nghề vốn, giống, thuốc trừ sâu bệnh, công nghệ…. Để người học có thể tự tạo việc làm sau khi tốt nghiệp.



4. Lao động nông thôn.

Với vai trò là đối tượng chính thụ hưởng kết quả đào tạo nghề. Họ phải nhận thức được tầm quan trọng và tham gia một cách nghiêm túc các hoạt động của khóa đào tạo nghề, chủ động tham gia thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm.

- Họ phải cam kết và thực hiện đúng cam kết với Chính quyền và Doanh nghiệp.

Có thế tóm tắt cơ chế phối hợp phối hợp giữa chính quyền địa phương- cơ sở đào tạo- doanh nghiệp và người lao động trong việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn như sau:




STT

Nội dung phối hợp

Chính quyền địa phương

Cơ sở dạy nghề

Doanh nghiệp

Người học

1

Tuyên truyền, hướng nghiệp

Chủ trì tổ chức và thực hiện

Tham gia cùng chính quyền

Hỗ trợ

Chủ động tìm thông tin về nghề, tương lai phát triển nghề

2

Tổ chức ký cam kết

Chủ trì tổ chức thực hiện

Sắn sàng tham gia cam kết

Sắn sàng tham gia cam kết

Sắn sàng tham gia cam kết

3

Xác định nhu cầu học nghề

Chủ trì tổ chức

Chủ trì thực hiện

Hỗ trợ

Hợp tác với các bên cung cấp thông tin

4

Xác định nhu cầu sử dụng lao động của Doanh nghiệp, thị trường sản phẩm

Chỉ đạo tổ chức

Chủ trì tổ chức và thực hiện

Hợp tác cung cấp chính xác, cụ thể thông tin về nhu cầu sử dụng lao động, yêu cầu về chất lượng sản phẩm.

Chủ động tìm thông tin, tham khảo để lựa chọn nghề học

5

Tuyển sinh học nghề

Chỉ đạo tổ chức thực hiện

Chủ trì thực hiện tuyển sinh đúng đối tượng đúng yêu cầu của nghề đào tạo.

Hỗ trợ cung cấp thông tin về yêu cầu đầu vào của người học nghề

Chủ động lựa chọn nghề học phù hợp với điều kiện cá nhân.

6

Tổ chức đào tạo

Kiểm tra, giám sát

Chủ trì thực hiện đào tạ đảm bảo nội dung và yêu cầu của người sử dụng hoặc yêu cầu của qui trình công nghệ.

Phối hợp tham gia vào quá trình đào tạo ( cung cấp cán bộ kỹ thuật làm người dạy nghề, xưởng thực hành, xây dựng nội dung chương trình…..)

Tham gia tích cực, chủ động và nghiêm túc

7

Đánh giá kết quả khóa đào tạo

Kiểm tra, giám sát

Chủ trì thực hiện

Cùng CSDN đánh giá

Tham gia tích cực

8

Việc làm sau đào tạo

Kiểm tra, giám sát

Cùng Doanh nghiệp giới thiệu việc làm hoặc bao tiêu sản phẩm

Thực hiện đúng cam kết: Nhận các lao động đã hoàn thành khóa học (đạt yêu cầu về chất lượng) vào làm việc tại doanh nghiệp hoặc thu mua sản phẩm với giá có bảo đảm.

Thực hiện đúng cam kết trước khi tham gia khoa đào tạo nghề


Chuyên đề 6

CÔNG TÁC LẬP KẾ HOẠCH, TỔ CHỨC, QUẢN LÝ CÁC KHÓA ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN TẠI XÃ

1. Giới thiệu về phát triển chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg.

Trong giải pháp chủ yếu của Quyết định số 1956/QĐ-TTg về phát triển chương trình đã nêu: Đổi mới và phát triển chương trình, giáo trình, học liệu dạy nghề cho lao động nông thôn theo yêu cầu của thị trường lao động, thường xuyên cập nhật kỹ thuật, công nghệ mới; Huy động các nhà khoa học, nghệ nhân, cán bộ kỹ thuật, kỹ sư, người lao động có tay nghề cao tại các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất kinh doanh, các trung tâm khuyến nông - lâm - ngư, nông dân sản xuất giỏi tham gia xây dựng chương trình, giáo trình, học liệu dạy nghề cho lao động nông thôn; Hoàn thành chỉnh sửa 300 chương trình, học liệu và xây dựng mới 200 chương trình, học liệu dạy nghề trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề thường xuyên; xây dựng danh mục thiết bị dạy nghề trình độ sơ cấp nghề cho khoảng 300 nghề. Cung cấp các chương trình, học liệu dạy nghề cho các cơ sở giáo dục, đào tạo tham gia dạy nghề cho lao động nông thôn.

Chương trình dạy nghề dạy nghề là một trong những yếu tố quan trọng quyết định chất lượng đào tạo nghề nhằm cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Để người học tốt nghiệp có tay nghề đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động, chương trình dạy nghề phải được xây dựng và hoàn thiện trên cơ sở tiếp cận kỹ năng nghề, sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật công nghệ và sự biến đổi của thị trường lao động; phù hợp với đặc điểm của ngành, nghề vùng, miền. Mặt khác chương trình dạy nghề phải được quản lý thống nhất trong toàn quốc, góp phần đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo của các cơ sở dạy nghề.

Theo Luật Dạy nghề được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2006, Dạy nghề có ba cấp trình độ đào tạo là sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề.

Danh mục nghề đào tạo đã được sửa đổi và bổ sung và được ban hành theo Thông tư số 17/2010/TT-BLĐTBXH, với 441 nghề đào tạo trình độ trung cấp và 379 nghề đào tạo trình độ cao đẳng thuộc 56 nhóm chương trình, nhóm ngành, nhóm nghề.

Đối với trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng có hàng 1000 nghề;

Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ tác động mạnh đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Khoa học và công nghệ trực tiếp giúp nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, thay đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp... Nhưng do lao động nông thôn nước ta qua đào tạo nghề còn ít nên sản xuất nông nghiệp chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, đa số chưa đủ khả năng tiếp thu và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất. Nông dân không có đủ kiến thức, cộng với những tác động của cơ chế thị trường nên nhiều nông dân dựa vào quảng cáo, ham rẻ đã lạm dụng hoặc sử dụng không đúng hướng dẫn phân bón hóa học, thuốc trừ sâu,... làm giảm chất lượng sản phẩm nông nghiệp, gây ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái và đa dạng sinh học mà người chịu ảnh hưởng đầu tiên và trực tiếp nhất là nông dân.

Cơ cấu trình độ, cơ cấu nghề đào tạo chưa phù hợp; chưa bổ sung kịp thời các nghề mới theo yêu cầu của thị trường lao động; nhiều chương trình, giáo trình dạy nghề đã lạc hậu nhưng chưa được bổ sung, sửa đổi kịp thời cho phù hợp với thực tiễn sản xuất, kinh doanh dịch vụ; thiếu học liệu, tài liệu hướng dẫn. Nhìn chung các CSDN còn chưa chú trọng đầu tư xây dựng chương trình, giáo trình bằng các nguồn kinh phí chương trình mục tiêu Quốc gia được nhà nước cấp hàng năm mà chủ yếu chỉ mua sắm trang thiết bị và đồ dùng phục vụ thực hành, thực tập và giảng dạy lý thuyết.

Phần lớn các trung tâm dạy nghề không đủ năng lực xây dựng chương trình và tài liệu giảng dạy mà phải nhờ các trường TCN, CĐN và các cơ sở giáo dục khác (cao đẳng, đại học…). Việc xây dựng chương trình dạy nghề chưa thu hút được nhiều sự tham gia của các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh - dịch vụ nên chưa đảm bảo sự phù hợp với yêu cầu của người sử dụng lao động và sự thay đổi của công nghệ, khoa học kỹ thuật trong thực tiễn sản xuất.

Đến đầu năm 2010, mới hoàn thành xây dựng được 164 bộ chương trình khung trình độ cao đẳng nghề, trung cấp nghề theo phương pháp tiên tiến, trên cơ sở phân tích nghề theo phương pháp DACUM. Vì vậy, việc xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình dạy nghề trình độ sơ cấp để thực hiện Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” là một trong những yếu tố cơ bản quyết định đến chất lư­ợng đào tạo nghề, do đó để chất l­ượng đào tạo nghề đáp ứng đư­ợc yêu cầu của thị trư­ờng lao động. Do vậy xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình dạy nghề trình độ sơ cấp phải đ­ược tiếp cận theo yêu cầu của kỹ thuật, công nghệ mới đ­ược ứng dụng trong sản xuất, kinh doanh, mặt khác ch­ương trình cần phải đ­ược xây dựng và quản lý thống nhất, khuyến nghị áp dụng tại các cơ sở dạy nghề, nhất là các trung tâm dạy nghề, các doanh nghiệp có đăng ký hoạt động dạy nghề, sẽ góp phần đảm bảo chất l­ượng đào tạo nghề giữa các cơ sở dạy nghề trên phạm vi toàn quốc.

Để xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình dạy nghề trình độ sơ cấp luôn thích ứng đ­ược với yêu cầu của thị trư­ờng lao động thì ch­ương trình này phải đ­ược xây dựng theo một ph­ương pháp khoa học, đồng thời phải đ­ược thường xuyên cập nhật, bổ sung, sửa đổi theo yêu cầu của sản xuất, kinh doanh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình dạy nghề trình độ sơ cấp nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường lao động.

Năm 2009 và 2010, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng Thông tư hướng dẫn xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình dạy nghề trình độ sơ cấp. Do đó đến nay Bộ trưởng, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã ban hành kèm theo Thông tư số 31/2010/TT-BLĐTBXH ngày 08 tháng 10 năm 2010, “Hướng dẫn xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình dạy nghề nghề trình độ sơ cấp”.

2. Tổ chức, quản lý đào tạo nghề cho lao động nông thôn

2.1. Phương pháp tổ chức đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại xã

Căn cứ vào Quyết định số 14/2007/QĐ-BLĐBXH ngày 24 tháng 05 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về việc ban hành quy chế thi, kiểm tra và công nhận tốt nghiệp trong dạy nghề hệ chính quy;

Căn cứ vào Quyết định số 62/2008/QĐ-BLĐTBXH ngày 04 tháng 11 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về việc ban hành hệ thống biểu mẫu, sổ sách quản lý dạy và học trong đào tạo nghề;

Quy trình tổ chức đào tạo nghề cho lao động nông thôn trình độ sơ cấp bao gồm các bước cơ bản sau:

Bước 1. Tuyển sinh: bao gồm những nội dung cơ bản sau

- Thông báo tuyển sinh phải thể hiện các thông tin như tên nghề đào tạo; thời gian đào tạo; thời gian nhập học; đối tượng tuyển sinh; trình độ học vấn của người học; các kỹ năng của học viên sau khi tốt nghiệp; chế độ chính sách cho học viên; địa điểm đào tạo; nêu những điểm cơ bản về kế hoạch của khóa đào tạo; chỉ ra cơ hội việc làm cụ thể của học viên; hồ sơ xin đăng ký học nghề của học viên.

- Hồ sơ xin đăng ký học nghề bao gồm: đơn xin đăng ký học nghề và sơ yếu lý lịch có xác nhận của địa phương; bản sao giấy khai sinh; ảnh lưu hồ sơ; các văn bằng chứng chỉ (nếu có); các giấy tờ chứng minh thuộc diện chính sách.

- Thông báo nhập học phải thể hiện: tên nghề học, thời gian học, địa điểm học; các quyền lợi và nghĩa vụ của người học; các điểu kiện đảm bảo cho khóa học.

Bước 2. Tổ chức đào tạo

- Sắp xếp các lớp cần chú ý tới trình độ học vấn, độ tuổi, đối tượng (nếu có); nơi cư trú của học viên sao cho học viên cùng lớp;

- Chuẩn bị chương trình đào tạo, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất vật tư trang thiết bị phụ vụ đào tạo;

- Lập kế hoạch đào tạo: Cần chú ý tới điều kiện thực tiễn của người học, đảm bảo tính mùa vụ và tính linh hoạt trong tổ chức đào tạo;

- Tổ chức khai giảng khóa học; thông báo kế hoạch đào tạo; phổ biến quy chế đào tạo.

- Thực hiện đào tạo: trong qúa trình tổ chức đào tạo phải có các hồ sơ sổ sách đào tạo như tiến độ đào tạo; kế hoạch giáo viên; sổ lên lớp; sổ tay giáo viên; sổ giáo án, bài giảng; sổ cấp chứng chỉ tốt nghiệp; sổ quản lý học viên; quyết định mở lớp; thời khóa biểu; bảng theo dõi thời gian học tập; bảng theo dõi thời gian giảng dạy.

Bước 3. Đánh giá kết quả đào tạo: tổ chức đánh giá thường xuyên và định kỳ theo chương trình đào tạo; phân loại kết quả học tập; tổ chức ôn, thi tốt nghiệp, phân loại tốt nghiệp và công nhận tốt nghiệp (tổ chức thi tốt nghiệp cần có các hồ sơ sau: quyết định thành lập Hội đồng thi tốt nghiệp; quyết định thành lập các tiểu ban giúp việc cho Hội đồng; quyết định danh sách học viên đủ điều kiện dự thi; quyết định công nhận tốt nghiệp.

Bước 4. Bế giảng và cấp chứng chỉ (khi cấp chứng chỉ phải ghi vào sổ cấp phát bằng theo quy định).

Bức 5. Đánh giá khóa học: thiết kế các biểu mẫu đánh giá khóa đào tạo; tổng hợp xử lý dữ liệu; tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm quá trình đào tạo; đánh giá hiệu quả của khóa học đối với người học, doanh nghiệp và địa phương; tỷ lệ học viên tham gia làm việc ngay sau khóa học; đưa ra kiến nghị và đề xuất.

Chú ý: Việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn hết sức đa dạng và linh hoạt, do đó người đứng đầu cơ sở dạy nghề sẽ quyết định quy trình tổ chức đào tạo nghề cho lao động nông thôn cho phù hợp với điều kiện thực tiễn và linh hoạt trong đào tạo.

2.2. Phương pháp quản lý các lớp đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại xã

Để đảm bảo việc quản lý đào tạo nghề cho lao động nông thôn trình độ sơ cấp và dạy nghề dưới 3 tháng một cách khoa học và thực tiễn, hồ sơ quản lý đào tạo nên tối thiểu có các biểu mẫu sau:

1- Tiến độ đào tạo (mẫu số 1);

2- Kế hoạch giáo viên (mẫu số 2);

3- Sổ lên lớp (mẫu số 3);

4- Sổ tay giáo viên (mẫu số 4);

5- Sổ giáo án tích hợp (mẫu số 5);

6- Kế hoạch đào tạo (mẫu số 6);

7- Sổ cấp chứng chỉ sơ cấp nghề (mẫu số 7);

8- Sổ quản lý học sinh (mẫu số 8).

Các biểu mẫu trên theo quy định của Quyết định số 62/2008/QĐ-BLĐTBXH ngày 04 tháng 11 năm 2008. Khi lập và hoàn thiện các sổ sách quản lý trên cần chú ý các điểm sau:

- Tiến độ đào tạo do phòng Đào tạo lập trình hiệu trưởng/giám đốc phê duyệt, khi lập phải căn cứ vào chương trình đào tạo đã được hiệu trưởng/giám đốc phê duyệt và đảm bảo tính thực tiễn, tính mùa vụ, tính linh hoạt trong đào tạo và tạo điều kiện cho người học là lao động nông thôn;

- Kế hoạch giáo giên do tổ bộ môn (hoặc khoa chuyên môn lập), nhưng phải căn cứ vào tiến độ đào tạo đã được hiệu trưởng/giám đốc duyệt;

- Sổ lên lớp phải ghi đầy đủ các nội dung trong sổ, do giáo viên trực tiếp lên lớp ghi nhằm theo dõi quá trình dạy và học của giáo viên và học sinh trong khóa đào tạo;

- Sổ tay giáo viên do giáo viên trực tiếp giảng dạy ghi nhằm theo dõi quá trình học và kết quả học tập của học sinh;

- Sổ giáo án tích hợp do giáo viên trực tiếp giảng dạy soạn và phải căn cứ vào chương trình đào tạo đã được hiệu trưởng/giám đốc phê duyệt, nhằm giúp cho giáo viên có kế hoạch lên lớp khoa học và hợp lý;

- Kế hoạch đào tạo do phòng Đào tạo lập trình hiệu trưởng/giám đốc phê duyệt, khi lập phải căn cứ vào chương trình đào tạo đã được hiệu trưởng/giám đốc phê duyệt, nhằm giúp cho việc kiểm tra, theo dõi quá trình dạy và học của giáo viên và học sinh;

- Sổ cấp chứng chỉ do phòng Đào tạo ghi, giúp cho việc theo dõi cấp, phát chứng chỉ theo quy định;

- Sổ quản lý học sinh do phòng đào tạo hoặc phòng công tác học sinh ghi, giúp cho việc theo các thông tin của học sinh trong và sau khóa học;

Chú ý: Đối với các cơ sở dạy nghề là các doanh nghiệp, thì người đứng đầu cơ sở sử dụng các thuật ngữ trong hồ sơ quản lý các lớp cho phù hợp với phân công nhiệm vụ của đơn vị.

2.3. Một số phương thức tổ chức dạy nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn xã

a) Dạy nghề cho lao động nông thôn tại vùng chuyên canh, chuyên con

Mục tiêu tổng quát của các lớp đào tạo nghề cho vùng chuyên canh, chuyên con là giúp bà con nông dân nâng cao năng suất lao động, tăng chất lượng sản phẩm để tăng giá trị kinh tế sau thu hoạch, đồng thời nâng cao ý thức về bảo vệ môi trường, trách nhiệm xã hội và trách nhiệm với cộng đồng ngay nơi bà con sinh sống.

Đối với những xã miền núi, vùng xâu, vùng xa hoặc những nơi có địa hình chia cắt, nhiều kênh rạch… việc đi lại của bà con gặp rất nhiều khó khăn. Việc đưa các lớp dạy nghề về tận thôn bản, xã - dạy nghề lưu động, là một giải pháp nhằm thúc đẩy phong trào học nghề tại những địa phương đặc thù này. Nhà của bà con, trụ sở ấp, hội trường UBND xã, nhà văn hóa xã… trở thành phòng học lý thuyết. Ruộng đồng của bà con là nơi thực hành - dạy nghề tại đồng ruộng (FFS -Farmer Field Schools).

Kết thúc khóa đào tạo cũng là lúc kết thúc mùa vụ. Kết quả học tập của bà con được thể hiện rõ qua năng suất, sản lượng nông sản thu hoạch được.

Việc đưa lớp học về tận thôn, bản còn phù hợp với đặc điểm của bà con nông dân vốn quanh năm gắn bó với “lũy tre làng”, với tâm lý ngại đi xa khỏi làng, xã. Hơn nữa, giúp bà con tiết kiệm được chi phí đi lại, lưu trú… Ngoài giờ lên lớp học, bà con vẫn có thời gian để làm việc nhà, các công việc đồng áng, nương rẫy cho kịp mùa vụ. Hoặc khóa đào tạo được tổ chức vào thời gian nông nhàn của bà con để tạo điều kiện cho bà con đi học.

Giảng viên là những nông dân sản xuất giỏi, là nghệ nhân, là công nhân có tay nghề cao… “truyền nghề” cho bà con. Đối với bà con chưa biết đọc biết viết, có thể học nghề bằng phương pháp “cầm tay chỉ việc”.

Với hình thức tổ chức dạy nghề lưu động, đã làm giảm đáng kể số lượng thanh niên nông thôn, miền núi “ly hương”. Rất nhiều thanh niên nông thôn đã có nghề nghiệp ổn định phát triển kinh tế trên chính thôn bản của mình.

Sau một năm thực hiện thí điểm dạy nghề cho bà con nông dân tại các vùng chuyên canh, chuyên con đã cho kết quả tốt: bà con nông dân sau khi học nghề thì hiệu quả sản xuất tăng lên rõ rệt từ 1,25 đến 2 lần so với trước khi được học nghề.

* Dạy nghề vùng chuyên canh cây công nghiệp:

Việc dạy nghề cho bà con do các doanh nghiệp tổ chức hoặc phối hợp với các CSDN cùng thực hiện. Sau khi học nghề, bà con được các doanh nghiệp hỗ trợ sản xuất và bao tiêu sản phẩm sau thu hoạch với giá đảm bảo có lời cho bà con trong mọi trường hợp thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp tốt hay xấu.

* Dạy nghề chuyên canh cây lương thực, thực phẩm, rau sạch, hoa quả

Các viện nghiên cứu, cơ sở dạy nghề phối hợp với các doanh nghiệp thực hiện đào tạo nghề cho bà con; gắn dạy nghề với giải quyết việc làm, bao tiêu sản phẩm cho bà con sau khi học nghề.

Trong quá trình đào tạo, bà con ngoài việc được học kỹ năng nghề, còn được cung cấp các kiến thức về bảo vệ thực vật, các quy định quốc tế về an toàn thực phẩm (GAP).

* Dạy nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản

Các viện nghiên cứu phối hợp với các cơ sở dạy nghề và chính quyền địa phương vừa tổ chức đào tạo nghề cho bà con vừa phát triển sản xuất.

Sau khi học nghề, bà con sẽ biết cách chuẩn bị ao hồ, chuồng trại theo đúng yêu cầu kỹ thuật, đảm bảo vệ sinh môi trường; biết lựa chọn con giống tốt; biết chăm sóc cho ăn đúng qui trình kỹ thuật, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Nhờ đó, bà con nông dân có thể thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, tự cấp tự túc, năng suất thấp, sản lượng ít và phân tán tiến lên phát triển kinh tế nông hộ với quy mô sản xuất lớn, năng suất cao, các nông hộ sẽ hợp lại tạo thành vùng hàng hoá tập trung. Thiết thực xoá đói giảm nghèo, bà con tiến lên làm giàu ngay trên chính mảnh đất quê hương mình.

Doanh nghiệp sẽ bao tiêu sản phẩm cho bà con sau khi học nghề.

b) Dạy nghề cho lao động nông thôn trong các làng nghề

Trong quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn, làng nghề có vai trò đặc biệt quan trọng, bởi nhờ có làng nghề, hàng triệu bà con nông dân đã được tạo việc làm, góp phần xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập.

Tuy nhiên, làng nghề ở nước ta đang gặp phải rất nhiều vấn đề như: Thiếu vốn, thiếu kỹ thuật, thị trường nguyên liệu, cũng như thị trường tiêu thụ sản phẩm lại bấp bênh, mẫu mã bao bì sản phẩm chưa đẹp, sản phẩm không tiếp cận được với thị trường, đặc biệt là tình trạng ô nhiễm môi trường đến mức báo động với 80% số làng nghề ô nhiễm gây bức xúc trong xã hội. Nhân lực tại các làng nghề thiếu hơn nữa trình độ tay nghề lao động lại không đồng đều, mặc dù nguồn lực lao động ở khu vực nông thôn rất dồi dào, mặt bằng sản xuất của các làng nghề ngày càng thu hẹp vì nông thôn đổi mới nhưng không quy hoạch… Tất cả những khó khăn đó đã làm cho các làng nghề rơi vào khó khăn triền miên. Một số làng nghề truyền thống có nguy cơ mai một.

Trong bối cảnh đó, công tác dạy nghề cho lao động trong các làng nghề nhằm đào tạo đội ngũ thợ trẻ để phục hồi, duy trì và phát triển nghề truyền thống. Dạy nghề kết hợp với xây dựng vùng nguyên liệu, bao tiêu sản phẩm để giúp làng nghề có thể đứng vững, ổn định và phát triển.

* Dạy nghề tại các làng nghề truyền thống:

Bà con nông dân là lao động sống tại các làng nghề nhưng chưa được đào tạo nghề, nếu có nhu cầu học nghề sẽ được các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ, hợp tác xã, hiệp hội làng nghề thủ công mỹ nghệ, trung tâm phát triển nghề truyền thống… tổ chức dạy nghề.

Đến với các lớp dạy nghề này, bà con sẽ được giáo viên là những thợ giỏi của doanh nghiệp, thợ giỏi của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, là những nghệ nhân, trực tiếp hướng dẫn kỹ năng nghề, chia sẻ kinh nghiệm trong làm nghề. Đặc biệt là phương pháp dạy nghề "cầm tay chỉ việc” sẽ tạo cơ hội cho bà con chưa biết đọc, biết viết vẫn có thể theo học nghề.

Sau khi học nghề, bà con được doanh nghiệp cung cấp nguyên liệu hoặc tự mua nguyên liệu, doanh nghiệp thuê bà con gia công sản phẩm, tạo điều kiện cho bà con tổ chức sản xuất, doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm.

* Dạy nghề làm các sản phẩm thủ công xuất khẩu, kết hợp với xây dựng vùng nguyên liệu và bao tiêu sản phẩm:

Địa phương nơi bà con sinh sống có nghề làm các sản phẩm thủ công để xuất khẩu hoặc địa phương thuộc vùng quy hoạch trồng nguyên liệu để cung cấp cho các cơ sở sản xuất sản phẩm thủ công truyền thống. Nếu bà con có nhu cầu học nghề, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ sẽ trực tiếp tổ chức dạy nghề cho bà con.

Sau khi học nghề, bà con có thể:

Trồng và bán nguyên liệu cho doanh nghiệp.

Nhận nguyên liệu gia công sản phẩm, doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm.

* Dạy nghề, nhằm phát triển làng nghề mới - “cấy nghề”:

Bà con nông dân đang sinh sống tại địa phương thiếu ruộng đất, có nhiều nhân lực, thiếu việc làm, có nhu cầu quy hoạch làng nghề mới theo quy hoạch của chính quyền địa phương. Bà con chưa có việc làm hoặc ít việc làm, có nhu cầu học nghề mới để hành nghề sinh sống. Bà con có thể tham gia các khóa đào tạo nghề do doanh nghiệp phối hợp với chính quyền địa phương thực hiện hoặc xây dựng mới cơ sở đào tạo tại các địa phương để tổ chức đào tạo với hình thức đào tạo tập trung, vừa học vừa làm.

Sau một số khóa đào tạo nghề, sẽ có một số lượng lớn bà con được đào tạo nghề, trở về địa phương hành nghề đông đảo, dần dần hình thành làng nghề mới.

Hiệp hội Làng nghề Việt Nam và doanh nghiệp sản xuất nghề truyền thống là thành viên của Hiệp hội sẽ kết hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương hướng dẫn kỹ thuật, tổ chức sản xuất tạo điều kiện thuận lợi cho làng nghề phát triển.

Sau nhiều năm sản xuất, hình thành làng nghề mới, nếu nông hộ của bà con có đủ tiềm lực kinh tế, kỹ thuật và có khả năng tự tổ chức sản xuất, tiếp thị mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm thì không nhất thiết phụ thuộc vào một doanh nghiệp nào. Sản xuất của làng nghề sẽ phát triển bền vững.

c) Dạy nghề tại đồng ruộng (Farmer Field Schools)

Dạy nghề tại đồng ruộng (FFS) cho người nông dân được tổ chức ngay trên cánh đồng ruộng và kéo dài suốt một mùa vụ. Khóa học trải qua tất cả các giai đoạn sinh trưởng, cũng như tất cả các khâu chăm sóc, bảo vệ và quản lý cây trồng. Người học là bà con nông dân làm trung tâm và được phát huy tính tích cực chủ động của mình.

- Phương pháp dạy học chủ đạo: Thực hành và thảo luận nhóm là phương pháp dạy học chủ đạo.

Tại mỗi buổi học, học viên nông dân được chia thành các nhóm nhỏ từ 5-6 người cùng nhau trao đổi, bàn bạc, thảo luận về những chủ đề trong thực tiễn sản xuất. Quá trình thảo luận, trao đổi các ý kiến đã giúp mọi người thể hiện một cách rõ ràng những gì họ nghĩ và cảm nhận được.

Học tập và trao đổi các ý kiến trong nhóm giúp cho bà con có được những cách tư duy mới, dần xóa bỏ tư duy tiểu nông, cá thể trong canh tác, cùng nhau chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm.

Giảng viên: Là những cán bộ, kỹ thuật viên, chuyên gia nông nghiệp bám chốt ngay tại vùng trồng nguyên liệu, am hiểu về tập quán sinh hoạt, canh tác của dân cư địa phương. Giảng viên không áp đặt một chiều những kiến thức, kỹ năng cho các học viên phải làm theo ý của mình, mà chỉ trình bày mục tiêu, gợi ý và hướng dẫn để học viên tự nhận thức, thông qua thảo luận và từ kết quả trên ruộng mẫu, chính những học viên là người sẽ đưa ra quyết định ngay trên ruộng của chính mình.

Thời gian tổ chức lớp: Thời gian tổ chức lớp FFS thường kéo dài trong suốt mùa vụ, bởi những lý do sau đây:

+ Mỗi một giai đoạn sinh trưởng của cây trồng có những vấn đề xảy ra hoàn toàn khác nhau nên khóa học phải kéo dài suốt vụ.

+ Mỗi giai đoạn sinh trưởng, cây trồng có yêu cầu khác nhau về nước tưới, phân bón, độ che phủ lớp đất mặt, làm cỏ, điều chỉnh mật độ…

+ Một số quá trình cần được theo dõi sát sao và liên tục suốt vụ mùa như biến động mật độ của một số côn trùng, khả năng phát sinh dịch bệnh, năng lực bù đắp của cây, v.v…

+ Kết quả của một quyết định đưa ra trong một giai đoạn sinh trưởng của cây chỉ có thể đánh giá được ở giai đoạn sau đó. Đặc biệt quan trọng là, mỗi quyết định đó có tác động như thế nào đến kết quả cuối cùng, tức khi thu hoạch sản phẩm.

Khóa học trải dài suốt mùa vụ, bám sát diễn biến từng giai đoạn sinh trưởng, phát triển và thu hoạch, nhờ vậy các vấn đề phát sinh, phát hiện của người nông dân đều được chia sẻ, thảo luận và tìm ra cách giải quyết hợp lý, kịp thời, đồng thời phổ biến cho nhiều bà con trong lớp học cùng hiểu và rút kinh nghiệm.

Mặc dù khóa đào tạo trong một vụ kéo dài từ đầu đến khi kết thúc một vụ, nhưng vấn đề dịch hại cây trồng thì luôn kéo dài từ vụ này sang vụ khác. Cây trồng được gieo trồng trong vụ khô, thời tiết mát mẻ sẽ gặp phải các vấn đề về dịch hại khác hẳn so với cây trồng được gieo trồng trong vụ mưa, thời tiết nóng và ẩm. Vì thế, cần có thêm nhiều thời gian nữa để người nông dân nắm bắt được các khía cạnh khác về cây trồng. Chính vì vậy, theo các chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp, nên có những lớp FFS cho vụ mùa thứ hai, hoặc cả vụ mùa thứ ba tiếp theo đó.

Địa điểm tổ chức lớp

+ Nội dung học lý thuyết thường được tổ chức ngoài trời.

+ Lớp học có thể sử dụng bóng cây to, lán che hoặc sân nhà của học viên gần với vườm ươm, ruộng trồng để thuận tiện học và thực hành.

+ Nội dung dạy học thực hành được tổ chức trên đồng ruộng, vườn ươm bao gồm: ruộng IPM (Integrated Pest Management quản lý dịch hại tổng hợp) và ruộng nông dân (quản lý theo cách của nông dân thường làm).

- Phương tiện phục vụ dạy và học

+ Công cụ học tập ngoài những vật dụng thông thường như: bút viết, giấy khổ to, bảng, bàn, ghế nhựa, thước đo, kính lúp, bẫy vợt bắt côn trùng và những lọ nhựa để chứa mẫu vật, thì công cụ chủ yếu phục vụ cho hoạt động dạy học của lớp FFS chính là đồng ruộng, vườn ươm cùng với những thực thể sinh vật, hệ sinh thái gắn liền với đồng ruộng.

+ Ruộng nông dân và ruộng IPM: là phương tiện học tập không thể thiếu đối với lớp học FFS.

Trong một khóa FFS, bà con nông dân sẽ được làm, những thí nghiệm trên ruộng IPM và ruộng nông dân (quản lý theo cách của nông dân thường làm). Qua thí nghiệm đó, bà con có thể so sánh được hiệu quả của những tác động theo IPM với tác động thông thường lên cây trồng. Một lớp học FFS sẽ không được coi là hoàn tất nếu thiếu các thí nghiệm đồng ruộng.



3. Đánh giá công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn xã

3.1 Giám sát

Giám sát là hoạt động được tiến hành thường xuyên, liên tục thông qua một hệ thống công cụ để thu thập, cập nhật, so sánh và phân tích các thông tin dữ liệu trong suốt quá trình thực hiện. Nó giúp các nhà quản lí xem xét tiến độ triển khai và kết quả đạt được; giúp họ biết được tình trạng tương đối của chính sách, chương trình, dự án tại một thời điểm nào đó (hoặc trong một khoảng thời gian nào đó) so với các chỉ tiêu và kết cục tương ứng.

Việc giám sát thường được tiến hành trong nội bộ do những người có trách nhiệm quản lý tiến hành, họ cần biết:

- Các đầu vào (nguồn lực) có được sử dụng hay không? và sử dụng như thế nào?

- Các hoạt động có được tiến hành theo kế hoạch không? Có hoàn thành không? Như thế nào? và

- Các đầu ra có đạt được như mong đợi hay không?



Mục đích của giám sát là để:

- Hỗ trợ công tác quản lý;

- Chỉ cho người quản lý thấy việc thực hiện diễn ra như thế nào, tiến độ thực hiện có đúng kế hoạch không để điều chỉnh/cải tiến việc thực hiện;

- Giúp người quản lý xác định các dấu hiệu của sự chậm trễ và nguyên nhân của nó;

- Cảnh báo về các điều chỉnh cần thiết phải tiến hành nhằm đảm bảo sự thành công;

- Giúp người quản lý lựa chọn các hành động cần thiết để đưa việc thực hiện về đúng hướng như kế hoạch đã định, đáp ứng được các yêu cầu về số lượng và qui cách kỹ thuật như đề ra trong mục tiêu.

Một hệ thống giám sát hiệu quả có thể cung cấp các thông tin phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau, có thể là các thông tin về tiến độ, về kết quả của các hoạt động, về nguyên nhân dẫn đến thành công hoặc thất bại. Giám sát chỉ ra những chậm trễ và nguyên nhân của nó để giúp nhà quản lý quyết định các hành động tiếp theo. Hoạt động giám sát được thực hiện theo trình tự các bước, sử dụng các phương pháp và công cụ đặc trưng.

Nguồn thông tin và dữ liệu phục vụ giám sát bao gồm những tài liệu chuyên môn nội bộ như các báo cáo nhiệm vụ, báo cáo tháng/quý, hồ sơ đào tạo, biên bản các cuộc họp, v.v.



3.2. Đánh giá

Đánh giá là việc xem xét, rà soát một cách có hệ thống và khách quan về một chính sách, chương trình, dự án đang triển khai hoặc đã hoàn thành. Đánh giá giúp làm rõ việc tuân thủ, thực hiện trách nhiệm giải trình và phát hiện những khó khăn, vướng mắc nảy sinh nhằm tìm biện pháp khắc phục hoặc phòng ngừa. Quá trình đánh giá cung cấp các thông tin đáng tin cậy và hữu ích, cho phép rút ra các bài học kinh nghiệm trong việc ra quyết định của cơ quan quản lý nguồn lực. Đánh giá đôi khi được dùng để bao hàm cả việc giám sát nhưng thường thì người ta sử dụng đánh giá theo nghĩa hẹp hơn là việc kiểm tra toàn diện các đầu ra và tác động của một chương trình/dự án, việc nó đóng góp vào mục đích và mục tiêu của chương trình/dự án đó như thế nào.

Đánh giá cung cấp bằng chứng về các chỉ tiêu và kết quả thực hiện, tìm cách giải quyết các vấn đề trên cơ sở quan hệ nhân quả và tập trung chú ý vào kết cục và tác động.

Đánh giá trả lời các câu hỏi:

"Vì sao?", tức là cái gì đã gây ra các thay đổi đang được giám sát;

"Như thế nào?" tức là tiến trình nào đã dẫn đến các kết quả thành công hay thất bại;

"Việc tuân thủ và trách nhiệm đến đâu?", tức là làm rõ các hoạt động đã lên kế hoạch có được thực hiện theo kế hoạch hay không.

Đánh giá có những mục đích sau:

- Đánh giá, kiểm tra định kỳ 5 tiêu chí liên quan đến tình hình thực hiện: thích hợp; hiệu suất; hiệu quả; tác động và tính bền vững (của một hoạt động, chương trình, dự án) .

- Phân tích và làm rõ sự tương quan giữa kết quả đạt được trên thực tế so với mục tiêu đã nêu trong văn bản được cấp thẩm quyền phê duyệt;

- Xác định các vấn đề và những vướng mắc nảy sinh hoặc tiềm ẩn để khuyến nghị các hành động khắc phục, giải pháp phòng ngừa hiệu quả;

- Đảm bảo tuân thủ các qui trình, thủ tục quản lý;

- Cung cấp thông tin cho các bên liên quan về kết quả và tác động của chương trình, dự án (kết quả và tác động đó có bền vững hay không);

- Rút ra bài học kinh nghiệm cho việc lập kế hoạch và thiết kế các hoạt động, chương trình, dự án tiếp theo và hoàn thiện các chính sách phát triển;

- Tạo điều kiện thực hiện trách nhiệm giải trình, bao gồm cả việc cung cấp thông tin cho công chúng.

Đánh giá được thực hiện theo trình tự các bước, sử dụng các phương pháp và công cụ đặc trưng. Giám sát, đánh giá có thể thực hiện ở cấp vĩ mô, cấp hoạch định chính sách, và ở cấp cơ sở.



Mối tương quan giữa giám sát và đánh giá

Giám sát và đánh giá đều là những công cụ quản lý, có chức năng khác nhau và thường phục vụ cho các đối tượng sử dụng khác nhau. Bảng 1 dưới đây cho thấy sự khác nhau giữa Gíam sát và Đánh giá. Giám sát và đánh giá liên hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau và quan trọng như nhau. Cụ thể:

Giám sát cung cấp thông tin định tính và định lượng thông qua việc sử dụng những chỉ số đã được lựa chọn và những thông tin này trở thành đầu vào cho hoạt động đánh giá.

Nếu chỉ có giám sát mà không có đánh giá thì chỉ giúp được chính sách, chương trình đi đúng hướng; có cảnh báo sớm; tránh được thất thoát nhưng không thấy được tác động của chúng, không rút ra được những bài học kinh nghiệm. Ở khía cạnh này, đánh giá hỗ trợ cho giám sát.

Nếu chỉ có đánh giá mà không có giám sát thì sẽ không cập nhật được tình hình thường xuyên, không thực hiện được công tác báo cáo, không có những cảnh báo sớm kịp thời và do đó, trách nhiệm giải trình cũng không được thực hiện kịp thời.

Bảng. Sự khác nhau giữa giám sát và đánh giá

Giám sát

Đánh giá

Thực hiện liên tục hoặc định kỳ

Thực hiện theo giai đoạn hoặc đột xuất

Giám sát tình hình thực hiện các mục tiêu đã đặt ra.

Đánh giá các mục tiêu trong mối quan hệ với các mục đích ở cấp độ cao hơn hoặc với các vấn đề phát sinh cần giải quyết.

So sánh với các chỉ số tiến độ đã xác định trước.

Đặt câu hỏi về tính đúng đắn và hợp lý của các chỉ số định trước.

Theo dõi tiến độ dựa vào một số ít các chỉ số đã được xác định trước.

Giải quyết các vấn đề thuộc nhiều phạm vi khác nhau.

Tập trung vào các kết quả dự kiến.

Xác định các kết quả dự kiến và ngoài dự kiến.

Chủ yếu sử dụng phương pháp định lượng.

Sử dụng phương pháp định lượng và phương pháp định tính.

Thu thập dữ liệu thường xuyên.

Thu thập dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau.

Thường là một chức năng của quản lý nội bộ.

Thường do các chuyên gia đánh giá độc lập và các cơ quan bên ngoài khởi xướng và thực hiện.



tải về 5.01 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   48




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương