Ban biên tập chương I chức năNG, nhiệm vụ, quyền hạn ngành lao đỘng- thưƠng binh và XÃ HỘI


Kỹ năng kết nối giữa đào tạo và việc làm



tải về 5.01 Mb.
trang6/48
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích5.01 Mb.
#19765
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   48

5. Kỹ năng kết nối giữa đào tạo và việc làm

5.1. Khái quát về kết nối giữa đào tạo và việc làm trong công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn

Một triệu nông dân sẽ được đào tạo mỗi năm, phần lớn trong số họ sẽ có việc làm. Đó là trọng trách và quyết tâm lớn của Đảng, Chính phủ trong việc nâng cao đời sống của người nông dân, dù chiếm đa số trong xã hội, song đời sống vẫn còn nhiều khó khăn. Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” (gọi tắt là Đề án 1956) không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế xã hội mà còn có ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Đề án 1956 được thực hiện từ nay đến năm 2020 và để thành công, các nhiệm vụ, yêu cầu đặt ra, đòi hỏi phải huy động mọi nguồn lực, sự phối hợp, chung tay của cả hệ thống chính trị. Gắn đào tạo với việc làm sao cho khi học nghề xong, người dân nông thôn tự tạo được việc làm, lập cơ sở sản xuất, mở trang trại, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn hoặc có cơ hội tiếp cận việc làm tại các doanh nghiệp chính là chỉ tiêu chủ yếu, quan trọng nhất đánh giá thành công của Đề án 1956. Để làm được điều này, một trong những nhân tố quan trọng, cốt lõi là sự phối hợp, gắn kết chặt chẽ giữa cơ sở dạy nghề (ở đây chủ yếu là cơ sở dạy nghề) và cơ sở sử dụng lao động (gọi chung là doanh nghiệp). "Kết nối giữa đào tạo nghề với việc làm" được hiểu theo nghĩa rộng là quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, có tác động qua lại và bổ xung cho nhau giữa hai hệ thống: hệ thống đào tạo nhân lực với hệ thống sử dụng nhân lực, trong đó mối quan hệ trực tiếp giữa cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp được đặc biệt coi trọng.

Mối quan hệ gắn bó giữa cơ sở dạy nghề và doanh nghiệp không những được thể hiện ở tất cả các khâu của quá trình đào tạo từ khâu tuyển sinh đến khâu tốt nghiệp mà còn thể hiện ở cả khâu giải quyết việc làm cho học viên sau khi tốt nghiệp. Để đạt được điều này đòi hỏi vai trò rất lớn của các nhà quản lý đào tạo.

* Vai trò của các bên liên quan trong công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn

Qua hơn thực tế gần 2 năm triển khai thực hiện Đề án 1956 công tác dạy nghề đã đạt được những kết quả nhất định, qua đó đã thể hiện được vai trò của mối gắn kết không chỉ giữa 2 nhà: nhà trường – cơ sở dạy nghề và nhà doanh nghiệp - sử dụng lao động sau đào tạo nghề mà còn là sự vào cuộc của chính quyền địa phương – nhà nước, sự tham gia tích cực của Người lao động – nhà nông. Trong mối quan hệ 4 “nhà” (còn gọi là các bên liên quan trong đào tạo), mỗi “nhà” có vai trò riêng biệt nhưng không thể tách rời trong và sau quá trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Cụ thể:

- Đối với nhà nông - người học, với vai trò là đối tượng chính thụ hưởng kết quả đào tạo nghề. Vì vậy bà con nông dân phải nhận thức được tầm quan trọng và tham gia một cách nghiêm túc các khóa đào tạo nghề; phải tự xác định đây là cơ hội rất lớn nhằm nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, năng suất lao động, thu nhập cho bản thân và gia đình. Nhưng trước khi học nghề, bà con phải xác định nhu cầu học thực sự của mình (nghề cụ thể); nghề định học có phù hợp với khả năng và điều kiện của mình hay không? Sau khi học có định làm nghề đó hay không? Đồng thời phải cam kết với chính quyền và doanh nghiệp sẽ bán sản phẩm cho các doanh nghiệp đã đầu tư cho họ trong quá trình trồng hoặc tổ chức đào tạo nghề cho bà con.

- Đối với nhà trường – cơ sở dạy nghề, theo Đề án 1956, bao gồm các trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề; trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp của các bộ, ngành, tổ chức chính trị - xã hội, địa phương, doanh nghiệp và cơ sở tư thục; trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp; các viện nghiên cứu, trung tâm học tập cộng đồng, trung tâm khuyến nông, lâm, ngư, trang trại, nông trường, lâm trường, doanh nghiệp, hợp tác xã và các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ... có đủ điều kiện được tham gia dạy nghề cho lao động nông thôn (gọi chung là cơ sở dạy nghề).

Các cơ sở dạy nghề này cần xác định rõ lao động nông thôn là nhóm đối tượng đặc thù, họ có nhu cầu về nghề nghiệp rất đa dạng, nhưng năng lực và điều kiện lại rất khác nhau ở từng vùng miền, lứa tuổi, trình độ. Vì vậy, đồng thời với việc cung cấp thông tin về các khóa đào tạo với những tên nghề cụ thể, các cơ sở dạy nghề phải đổi mới chương trình theo hướng linh hoạt, đáp ứng được các nhu cầu đa dạng; đổi mới phương thức và hình thức tổ chức các khóa đào tạo.

Ngoài những chương trình đào tạo chính quy, hình thức đào tạo tập trung tại cơ sở dạy nghề, cần có những chương trình ngắn hạn, hình thức đào tạo phi tập trung, đào tạo tại thôn bản, tại nơi sản xuất của người nông dân. Đội ngũ giáo viên - người dạy không chỉ là những giáo viên cơ hữu mà có thể huy động cả những chuyên gia, cán bộ kỹ thuật, kỹ sư, người lao động có tay nghề cao tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh và các trung tâm khuyến nông, lâm, ngư, nông dân sản xuất giỏi tham gia dạy nghề.

Bên cạnh đó, các cơ sở dạy nghề cần tư vấn, hỗ trợ người lao động nông thôn sau khi học nghề có được việc làm phù hợp. Điều này đòi hỏi giữa nhà trường và doanh nghiệp phải có sự gắn kết rất chặt chẽ cả trong và sau quá trình đào tạo. Công tác dự báo những nghề mới có thể phát sinh trên cơ sở nhu cầu của người học và nhu cầu của doanh nghiệp là rất quan trọng, nhằm chuẩn bị xây dựng chương trình và đội ngũ người đào tạo phù hợp.

- Đối với doanh nghiệp - người sử dụng lao động nông thôn qua đào tạo nghề hoặc sử dụng sản phẩm của người nông dân làm ra, cần biết rõ: Người lao động nông thôn được đào tạo có phù hợp với công nghệ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp hay không? (để sử dụng lao động); người nông dân làm ra những sản phẩm nông nghiệp đó như thế nào? Có phù hợp với yêu cầu “đầu vào” của doanh nghiệp hay không? Như vậy, muốn đạt hiệu quả kinh doanh cao, doanh nghiệp cũng phải rất “gắn” với nông dân: thứ nhất là để nâng cao năng lực hành nghề cho lao động nông thôn giúp người lao động tăng năng suất lao động, tăng giá trị sản phẩm; Thứ hai là đảm bảo việc làm cho người lao động sau khi tốt nghiệp bằng cách tuyển dụng họ vào làm việc trong doanh nghiệp hoặc bao tiêu sản phẩm cho người nông dân sau thu hoạch trong thời gian ít nhất 3 năm với giá đảm bảo có lời trong mọi trường hợp thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp tốt hay xấu. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần tham gia trong công tác hướng nghiệp, hỗ trợ cho nhóm đối tượng lao động nông thôn “chuyển dịch” cơ cấu kinh tế. Đây chính là yếu tố mang tính chất quyết định đến sự thành công trong công tác đào tạo nghề cho vùng chuyên canh.

- Đối với nhà nước – chính quyền địa phương: Để lao động nông thôn có được định hướng đúng đắn trong việc tự định hướng nghề nghiệp, người lao động rất cần biết thông tin về nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp trên địa bàn, với những trình độ, kỹ năng nghề nhất định; thông tin về chủ trương, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Như vậy, song song với các hoạt động tuyên truyền, tư vấn của các cấp ủy, chính quyền các cấp, các đoàn thể ở địa phương, nhà trường, doanh nghiệp phải có những người làm công tác tư vấn và có các “kênh” thông tin phù hợp để cung cấp cho người học. Vai trò quan trọng nhất của chính quyền địa phương phối hợp với Nhà nước giám sát quá trình đào tạo, hiệu quả sau đào tạo, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tổ chức thành công khóa đào tạo như vận động tuyên truyền cho bà con hiểu được các chủ trương, chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn; cùng tham gia tổ chức và quản lý lớp học. Đảm bảo quyền lợi cho các doanh nghiệp đã đầu tư đào tạo nghề cho lao động nông thôn, hỗ trợ kinh phí đào tạo, đầu tư cây con giống,… có quyền thu mua các sản phẩm sau thu hoạch của người nông dân với giá thị trường.

5.2. Nội dung của việc kết nối giữa đào tạo và việc làm

Nội dung của việc kết nối giữa đào tạo và việc làm có thể khái quát dưới một số hoạt động chủ yếu sau:

- Trao đổi và cập nhật thông tin về nhu cầu của thị trường lao động về ngành nghề, trình độ đào tạo, về số lượng và chất lượng (những yêu cầu về chuẩn kỹ năng hành nghề cần có …);

- Phối hợp xây dựng, phát triển cơ sở dạy nghề đáp ứng nhu cầu lao động của doanh nghiệp; phối hợp sử dụng nguồn lực (Đội ngũ hướng dẫn thực hành, cơ sở vật chất và thiết bị của doanh nghiệp …);

- Phối hợp xây dựng mục tiêu, nội dung chương trình, chuẩn kiến thức kỹ năng các trình độ đào tạo; Phối hợp tuyển sinh đào tạo; Phối hợp đánh giá kết quả học tập của người học trong các kỳ thi hoặc đánh giá kỹ năng nghề…;.

- Phối hợp giữa cơ sở dạy nghề và doanh nghiệp thực hiện chính sách liên kết trong đào tạo và sử dụng sản phẩm sau đào tạo; hỗ trợ kinh phí từ doanh nghiệp đối với cơ sở dạy nghề và người học nghề;

- Hướng nghiệp và tư vấn, tuyển chọn và giới thiệu việc làm cho người học nghề.

- Hợp tác trong đào tạo và tổ chức sản xuất các sản phẩm phù hợp với nghề đào tạo của cơ sở dạy nghề và các sản phẩm khác theo quy định của pháp luật.



5.3. Tổ chức thực hiện gắn kết đào tạo và việc làm

Giữa cơ sở dạy nghề và doanh nghiệp cần có một văn bản (hợp đồng liên kết đào tạo) nhằm gắn kết quyền lợi cũng như ràng buộc trách nhiệm giữa hai bên với các điều khoản cụ thể, rõ ràng… mà các bên tham gia nếu thực hiện điều khoản sẽ đảm bảo có được lợi ích. Nói chung, sự gắn kết phải được triển khai ở tất cả các khâu của quá tình đào tạo kể từ khâu tuyển sinh đến khâu tốt nghiệp, và tổ chức việc làm cho người học.

Cơ sở dạy nghề và doanh nghiệp thực hiện việc trao đổi thông tin định kỳ và thường xuyên, gồm: thông tin phản hồi về mức độ đáp ứng đòi hỏi yêu cầu công việc của đội ngũ lao động kỹ thuật; nhu cầu đào tạo, bổ sung, cập nhật về năng lực chuyên môn; xu thế phát triển của ngành nghề trong những năm tiếp theo…

Xúc tiến thành lập tiểu ban quan hệ Trường- Ngành: nhằm điều phối sự gắn kết.

Các cơ sở dạy nghề có thể thiết lập bộ phận/trung tâm thông tin thị trường lao động và việc làm có nhiệm vụ tư vấn cho cơ sở dạy nghề trong xây dựng chương trình đào tạo mới, điều chỉnh bổ sung chương trình đào tạo hiện có để kịp thời đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp.

Sự phối hợp giữa cơ sở dạy nghề và doanh nghiệp trong quá trình đào tạo có thể được thực hiện theo các bước sau:

1. Từ nhu cầu đăng ký học nghề của người học hoặc từ nhu cầu lao động của doanh nghiệp, cơ sở dạy nghề lập kế hoạch làm việc với doanh nghiệp để xác định chính xác số lượng đào tạo theo từng ngành, nghề, lĩnh vực và cam kết của doanh nghiệp trong việc sử dụng lao động sau đào tạo.

2. Thống nhất về yêu cầu đào tạo- cụ thể là yêu cầu về năng lực mà người học cần phải đạt được sau đào tạo. Trước hết là xác định mục tiêu đào tạo.

3. Thực hiện công tác tuyển sinh theo hai phương án: một là, cơ sở dạy nghề tiến hành tuyển sinh theo các tiêu chí về số lượng, cơ cấu ngành, nghề, lĩnh vực đã xác định ở trên; Hai là, doanh nghiệp tiến hành sơ tuyển rồi ký hợp đồng đào tạo với cơ sở dạy nghề (đào tạo theo địa chỉ)

4. Xây dựng nội dung chương trình, giáo trình đào tạo: trên cơ sở bám sát mục tiêu đào tạo đã xác định ở bước 2. Trong quá trình này, 2 bên phải lập được kế hoạch đào tạo, đặc biệt là sắp xếp quỹ thời gian thực tập của người học tại doanh nghiệp bởi đây là một yếu tố quyết định đến việc nâng cao kỹ năng làm việc và hình thành tác phong công nghiệp cho người lao động.

5. Thực hiện đào tạo: cần có sự phối hợp chặt chẽ của 2 bên để theo dõi, rà soát và kịp thời có những điều chỉnh, giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình đào tạo. Đặc biệt là sự tham gia của doanh nghiệp trong việc cử các cán bộ kỹ thuật tham gia giảng dạy một số nội dung liên quan tới công nghệ kỹ thuật mới trong nghề. Đồng thời theo dõi tiến độ đào tạo, tham gia đánh giá kết quả của người học trong quá trình đào tạo để kịp thời điều chỉnh, bổ sung những nội dung chương trình nhằm đảm bảo thục hiện mục tiêu đào tạo

6. Cơ sở dạy nghề và doanh nghiệp phối hợp tổ chức thi tốt nghiệp nhằm đánh giá, công nhận năng lực thực hiện của người học. Và cuối cùng là tiến hành “bàn giao lao động” đã đạt yêu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp.

Trên đây là một “quy trình lý tưởng” gồm các bước cơ bản để tạo nên sự gắn kết giữa đào tạo và sử dụng lao động và phù hợp với đào tạo theo “địa chỉ” bởi trên thực tế, doanh nghiệp chưa thực sự nhận thức được lợi ích của mối quan hệ này nên chưa có sự tham gia tích cực, có chăng họ chỉ tham gia vào một hoặc một số khâu nào đó của quá trình đào tạo như là phối hợp giảng dạy một số nội dung, tạo điều kiện cho học viên tham quan thực tập tại doanh nghiệp khiến cho cung – cầu lao động không “gặp nhau”, mối quan hệ giữa đào tạo và việc làm vẫn còn xa vời. Vậy, các cán bộ quản lý phải giải quyết thực trạng này như thế nào?

Thứ nhất là: Thông tin về việc làm cho người học

Ngay từ khâu tuyển sinh, CSDN cần cung cấp cho học viên tương lai của mình các thông tin để giúp họ lựa chọn khoá học phù hợp với nguyện vọng và nhu cầu của họ và để đảm bảo rằng họ có khả năng hoàn thành tốt khoá học đó.

Kết nối được giữa đào tạo và việc làm không chỉ thực hiện sau đào tạo mà trong suốt quá trình đào tạo. Đối với học viên, những định hướng về việc làm, cập nhật thông tin về lĩnh vực, ngành nghề là rất quan trọng giúp cho học viên có được những kỹ năng nhất định cho việc tìm việc làm sau này. Để làm được việc này, trong quá trình đào tạo, CSDN cần phối hợp chặt chẽ với các hiệp hội sử dụng lao động, các doanh nghiệp, cụ thể là bằng cách tiến hành ngày mở cửa (open day), các cuộc phỏng vấn, các sự kiện tương tự để doanh nghiệp cho học viên có những hiểu biết nhất định về nghề, về các cơ hội việc làm. Giá trị của khoá đào tạo nghề chính là tạo ra sự hiểu biết tường tận về bản chất công việc của một ngành hoặc một công việc cụ thể, và phát triển các kỹ năng nghề cần thiết để thực hiện các công việc đó. Các hoạt động này có thể là một phần của hoạt động hỗ trợ giải quyết việc làm mà CSDN tiến hành.

Bên cạnh đó các cán bộ quản lý đào tạo cần biết được những kênh thông tin tìm kiếm việc làm đa dạng để giới thiệu cho học viên. Đặc biệt là với bà con nông dân chưa có điều kiện để tiếp cận với những kênh thông tin đa dạng thì những thông tin mà cán bộ quản lý cung cấp sẽ rất hữu ích với bà con không chỉ trong khâu tìm việc mà còn cả trong việc tự định hướng nghề nghiệp. Có rất nhiều nguồn cung cấp thông tin tuyển dụng, nhưng về cơ bản có thể chia thành hai loại:

(1) Nguồn thông tin tuyển dụng chính thức

Bao gồm các nguồn sau:



- Quảng cáo tuyển dụng trên các phương tiện truyền thông đại chúng như báo, tạp chí, truyền hình, truyền thanh hay các băng rôn chăng khắp đường, phố. Trong số đó, báo chí là phương tiện cung cấp nhiều thông tin tuyển dụng nhất, thường là tại mục “Việc làm”. Ở nông thôn, thông tin tuyển dụng của doanh nghiệp thường được dán tại trụ sở các xã, thôn, xóm, ấp; thông tin về việc làm đến người dân qua hội họp, quảng cáo, tờ rơi,…

Chương trình “Tư vấn nghề nghiệp, việc làm” phát sóng chính thức trên Hệ VOV1- Đài Tiếng nói Việt Nam vào lúc 20h35 phút đến 21h tối thứ 2 và thứ 5 hàng tuần.

Chuyên mục “Nhà nông làm giàu” trên VTV3 và VTV1, chuyên mục “Bạn của nhà nông” trên VTV2

Kênh truyền hình Nông nghiệp - Nông thôn (VTC16) là kênh chuyên biệt cho nông dân, VTC16 đã tạo ra một địa chỉ truyền thông trên truyền hình trong phạm vi toàn quốc của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn

- Thông báo tuyển dụng tại trụ sở của các tổ chức (thường được trong văn phòng hoặc ở trước cửa doanh nghiệp)

- Các trung tâm dịch vụ việc làm của các CSDN, doanh nghiệp và một số tổ chức nhân lực khác.

- Sàn giao dịch việc làm và Hội chợ việc làm

- CSDN : một số doanh nghiệp thường đến CSDN để phối hợp với CSDN thông báo về nhu cầu tuyển dụng lao động.

- Website của các tổ chức: website của mỗi doanh nghiệp.

(2) Nguồn thông tin tuyển dụng không chính thức

- Thông tin từ bạn bè, người thân

- Thông tin từ buổi giao lưu với các doanh nghiệp (tại ngày hội việc làm do doanh nghiệp phối hợp tổ chức với CSDN)

Thứ hai là, hỗ trợ giải quyết việc làm cho người học sau đào tạo

Bố trí và giải quyết việc làm là giúp học viên vào làm việc trong một doanh nghiệp hoặc bố trí việc làm tạm thời cho họ trong một doanh nghiệp tại địa phương. Việc bố trí sắp xếp như vậy sẽ giúp học viên có được kinh nghiệm thực hành và cũng có lợi cho họ vì các triển vọng việc làm sẽ tăng lên. Ở một mức độ nào đó, doanh nghiệp cũng có lợi vì học viên (thường chỉ được trả lương thấp hơn nhiều so với những lao động chính) sẽ đóng góp cho quá trình sản xuất, mặc dù thời gian doanh nghiệp phải dành ra để hướng dẫn học viên cũng sẽ “làm chậm quá trình sản xuất” của doanh nghiệp. Qua đây, chủ sử dụng lao động cũng có thể biết được lao động có triển vọng và có thể tuyển dụng những ứng viên có triển vọng nhất.

Cơ sở dạy nghề lớn hơn có thể bố trí cán bộ phụ trách hướng nghiệp và việc làm trong một bộ phận dịch vụ mà bộ phận này sẽ hỗ trợ cho các bộ phận giảng dạy khác nhau. Các giáo viên chịu sự giám sát của các trưởng bộ môn, đặc biệt là trong các cơ sở dạy nghề nhỏ, có nhiệm vụ phối hợp với các công ty địa phương để nắm được các cơ hội việc làm, các yêu cầu công việc. Khi quá trình học tập tại nơi làm việc tăng lên thì vai trò hướng nghiệp và giải quyết việc làm của các cán bộ giảng dạy cũng sẽ tăng lên rất nhiều.

Có một giải pháp để cung cấp dịch vụ hỗ trợ giải quyết việc làm đó là tìm kiếm sự hỗ trợ (thông thường là sự hỗ trợ từ các quỹ của Chính phủ) để xây dựng các mối quan hệ hợp tác với các doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước và các cơ quan cộng đồng chuyên giải quyết việc làm. Đây cũng có thể là một cách sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực hạn chế của cơ sở dạy nghề công lập và có thể tạo ra các kết quả tốt hơn cho các học viên.

Chuyên đề 3

CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ DẠY NGHỀ CHO CÁC ĐỐI TƯỢNG

VÀ DẠY NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN

Nhận thức được tầm quan trọng của dạy nghề trong việc đào tạo nguồn nhân lực lao động kỹ thuật trực tiếp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách phát triển dạy nghề nói chung, chính sách dạy nghề cho các đối tượng, cho lao động nông thôn nói riêng nhằm tạo những điều kiện tốt nhất cho các đối tượng này, nhất là các đối tượng yếu thế, khó khăn … có cơ hội được học nghề, để tự tạo việc làm, nâng cao mức sống, gòp phần vào phát triển kinh tế đất nước và đảm bảo an sinh xã hội.



1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển dạy nghề

Dạy nghề trong những năm gần đây đã được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước. Điều đó được thể hiện thông qua các Nghị quyết của Đại, Quốc hội và chính phủ.

Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “Phát triển nhanh và phân bố hợp lý hệ thống trường dạy nghề trên địa bàn cả nước, mở rộng các hình thức đào tạo nghề đa dạng, linh hoạt, năng động”. Kết luận Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 - Khoá IX nhận định: “Cơ cấu giáo dục còn bất hợp lý, mất cân đối giữa đào tạo nghề với đại học…”; đồng thời khẳng định nhiệm vụ “Hiện đại hoá một số trường dạy nghề nhằm chuẩn bị đội ngũ công nhân bậc cao có trình độ tiếp thu và sử dụng công nghệ mới và công nghệ cao”, “Hình thành hệ thống đào tạo kỹ thuật thực hành với nhiều cấp trình độ”. Báo cáo kiểm điểm nửa đầu nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định “Cơ cấu lại hệ thống đào tạo, hoàn thiện hệ thống đào tạo thực hành định hướng nghề nghiệp”.

Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã đề ra chủ trương phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề giai đoạn 2006 - 2010 là: “Phát triển mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp, tăng nhanh quy mô đào tạo cao đẳng nghề, trung cấp nghề cho các khu công nghiệp, các vùng kinh tế động lực và cho xuất khẩu lao động“Tạo chuyển biến căn bản về chất lượng dạy nghề tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới. Đẩy mạnh xã hội hoá, khuyến khích phát triển các hình thức dạy nghề đa dạng, linh hoạt: dạy nghề ngoài công lập, tại doanh nghiệp, tại làng nghề”;

Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành TW Đảng khoá X đã ban hành Nghị quyết 20 - NQ/TW ngày 28/1/2008 về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước: “Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không ngừng trí thức hoá giai cấp công nhân là một nhiệm vụ chiến lược. Đặc biệt quan tâm xây dựng thế hệ công nhân trẻ có học vấn, chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao, ngang tầm khu vực và quốc tế, có lập trường giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng, trở thành bộ phận nòng cốt của giai cấp công nhân.”;

Kết luận số 242 - TB/TW ngày 15 tháng 4 năm 2009 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết T.Ư 2 (khoá VIII) phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020: “Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế, sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước ta phải đổi mới căn bản, toàn diện và mạnh mẽ”.Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, kể cả những nghề thuộc lĩnh vực công nghệ cao. Mở rộng mạng lưới cơ sở dạy nghề, phát triển trung tâm dạy nghề quận, huyện”. “Chú trọng xây dựng một số trường dạy nghề đạt chuẩn khu vực và quốc tế. Tăng nhanh quy mô công nhân và cán bộ kỹ thuật lành nghề ở những lĩnh vực công nghệ cao, tiếp cận trình độ tiên tiến thế giới”;

Gần đây, Nghị quyết Đại hội đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cũng đã xác định: “Đẩy mạnh đào tạo nghề theo nhu cầu phát triển của xã hội; có cơ chế và chính sách thiết lập mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với cơ sở đào tạo. Xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực cho các ngành, lĩnh vực mũi nhọn, đồng thời chú trọng đào tạo nghề cho nông dân, đặc biệt đối với người bị thu hồi đất; nâng cao tỉ lệ lao động qua đào tạo” “Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng dạy nghề và giáo dục chuyên nghiệp. Rà soát, hoàn thiện quy hoạch và thực hiện quy hoạch mạng lưới trường đại học, cao đẳng và dạy nghề trong cả nước”

Nghị Quyết của Quốc Hội số 35/2009/NQ - QH12 ngày 19 tháng 06 năm 2009 về chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo từ năm học 2010 - 2011 đến năm học 2014 - 2015: nhà nước đảm bảo vai trò đầu tư chủ yếu cho giáo dục và đào tạo; hỗ trợ các cơ sở giáo dục và đào tạo ngoài công lập đào tạo nâng cao trình độ giáo viên và cán bộ quản lý; ưu tiên ngân sách cho phát triển dạy nghề;

Thể chế hoá chủ trương của Đảng về phát triển dạy nghề, Quốc Hội đã ban hành Luật Giáo dục - năm 2005, quy định dạy nghề có ba trình độ đào tạo (sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề); Luật Dạy nghề - năm 2006, quy định chi tiết về tổ chức, hoạt động của cơ sở dạy nghề; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động dạy nghề. Trong Luật Dạy nghề đã xác định chính sách đầu tư của nhà nước về phát triển dạy nghề: “Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm để đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp dạy nghề, phát triển đội ngũ giáo viên, hiện đại hoá thiết bị, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao chất lượng dạy nghề; tập trung xây dựng một số cơ sở dạy nghề tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới; chú trọng phát triển dạy nghề ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; đầu tư đào tạo các nghề thị trường lao động có nhu cầu, nhưng khó thực hiện xã hội hoá”.

Khoản 4, Điều 7 Luật Dạy nghề cũng xác định: “Hỗ trợ các đối tượng được hưởng chính sách người có công, quân nhân xuất ngũ, người dân tộc thiểu số, người thuộc hộ nghèo, người tàn tật, khuyết tật, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, người trực tiếp lao động trong các hộ sản xuất nông nghiệp bị thu hồi đất canh tác và các đối tượng chính sách xã hội khác nhằm tạo cơ hội cho họ được học nghề để tìm việc làm, tự tạo việc làm, lập thân, lập nghiệp”.

Những quan điểm, định hướng trên của Đảng, Nhà nước về phát triển dạy nghề đã tạo tiền đề quan trọng để cụ thể hóa hơn nữa các chính sách về phát triển dạy nghề nói chung và chính sách dạy nghề cho các đối tượng nói riêng.



tải về 5.01 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   48




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương