Ban biên tập chương I chức năNG, nhiệm vụ, quyền hạn ngành lao đỘng- thưƠng binh và XÃ HỘI


Khái quát chung về thực trạng dạy nghề hiện nay



tải về 5.01 Mb.
trang7/48
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích5.01 Mb.
#19765
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   48

2. Khái quát chung về thực trạng dạy nghề hiện nay

Thực hiện các Nghị quyết của Đảng về định hướng phát triển dạy nghề, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển dạy nghề từ 1998 đến nay, dạy nghề đã được phục hồi sau một thời gian dài bị suy giảm, từng bước được đổi mới và phát triển đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong SXKD, dịch vụ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, cụ thể:

- Đã hình thành hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tương đối đồng bộ và thống nhất tạo hành lang pháp lý để điều chỉnh hoạt động dạy nghề, gồ̀m: Luật Giáo dục, Luật Dạy nghề, Bộ Luật Lao động và hơn 120 văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện hầu hết những lĩnh vực quan trọng, cần thiết để triển khai Luật Dạy nghề như: các quy định về phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề, các điều kiện, thủ tục thành lập cơ sở dạy nghề, các quy định về xây dựng chương trình dạy nghề, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý dạy nghề, tuyển sinh học nghề, tổ chức thi, kiểm tra, cấp văn bằng chứng chỉ, còng như các quy định về bảo đảm chất lượng dạy nghề, kiểm soát chất lượng dạy nghề.

- Hình thành hệ thống dạy nghề theo 3 cấp trình độ (Sơ cấp nghề, TCN, CĐN) thay thế hệ thống dạy nghề ngắn hạn và dài hạn trước đây; từng bước đáp ứng được nhu cầu đa dạng về trình độ nhân lực kỹ thuật trực tiếp của thị trường lao động, trong đó có nguồn nhân lực trình độ kỹ năng nghề cao;

- Mạng l­­ưới cơ sở dạy nghề đ­ư­ợc phát triển rộng khắp ở 63 tỉnh, thành phố, 637 huyện, quận, thị xã, các khu công nghiệp, khu chế xuất, làng nghề. Đến hết năm 2010, cả nước có 123 trường cao đẳng nghề, 304 trường trung cấp nghề, 788 trung tâm dạy nghề và trên 1.000 cơ sở dạy nghề khác tại doanh nghiệp, tại các cơ sở giáo dục khác. Xóa được tình trạng không có trường dạy nghề trên địa bàn ở 15 tỉnh; không có trường dạy nghề của địa phương ở 27 tỉnh, không có trung tâm dạy nghề tại 40 tỉnh.

- Quy mô tuyển sinh học nghề lnăm 2010 đạt gần 1,748 triệu người, đạt 100% (trong đó có 430.000 người học nghề theo chính sách của Đề án đào tạo nghề cho LĐNT; tuyển sinh đào tạo trình độ CĐN, TCN là 360.400 người (tăng 17% so với năm 2009); sơ cấp nghề và dạy nghề thường xuyên dưới 3 tháng: 1.387.600 người;

- Cơ cấu ngành nghề đào tạo đã từng bước được điều chỉnh theo cơ cấu ngành nghề trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; đã mở thêm nhiều nghề đào tạo mới mà thị trường lao động có nhu cầu và các nghề phục vụ cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và giải quyết việc làm cho người lao động.

- Các điều kiện bảo đảm chất lượng dạy nghề đã được cải thiện: Đội ngũ giáo viên dạy nghề tăng về số lượng, nâng cao về chất lượng, trong đó số lượng giáo viên tại các trường nghề, trung tâm dạy nghề năm 2009 khoảng 29.444 người (gấp 2,95 lần năm 1998); nhiều chương trình dạy nghề đã được đổi mới về nội dung cho phù hợp với kỹ thuật, công nghệ sản xuất và đặc biệt chú trọng tới rèn luyện kỹ năng nghề cho người học, đến hết năm 2010 đã xây dựng được 194 bộ chương trình khung trình độ trung cấp nghề, chương trình khung trình độ cao đẳng nghề theo phương pháp tiên tiến của thế giới; hầu hết các CSDN đã được đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy nghề. Chất lượng và hiệu quả dạy nghề có bước chuyển biến tích cực; khoảng trên 70% học sinh tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm ngay sau khi tốt nghiệp, ở một số nghề và một số cơ sở dạy nghề tỷ lệ này đạt trên 90%;

- Bộ máy quản lý nhà nước về dạy nghề từ trung ương đến địa phương đã được tăng cường, hầu hết các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã có Phòng dạy nghề;

- Đa dạng hoá hình thức, phương thức đào tạo nghề: dạy nghề chính quy, dạy nghề thường xuyên; dạy nghề tập trung, dạy nghề lưu động, dạy nghề tại doanh nghiệp, làng nghề. Đã thí điểm triển khai đặt hàng đào tạo nghề cho đối tượng chính sách, đối tượng bị thu hồi đất canh tác, người dân tộc thiểu số;

- Đã ban hành các chính sách hỗ trợ dạy nghề đối với người dân tộc thiểu số, bộ đội xuất ngũ, người nghèo, người khuyết tật, lao động nông thôn; chính sách tín dụng cho học sinh, sinh viên;

- Đầu tư cho dạy nghề ngày càng tăng, trong đó, ngân sách nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, năm 2009, đầu tư cho dạy nghề chiếm khoảng 8% trong tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo.

- Xã hội hoá dạy nghề đã đem lại kết quả bước đầu, nhiều tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đã đầu tư thành lập các CSDN. Năm 2009, số CSDN ngoài công lập chiếm 33 %, trong đó số trường, trung tâm dạy nghề ngoài công lập chiếm 32%.

Các tổ chức chính trị - xã hội, các hội nghề nghiệp đã tích cực tham gia dạy nghề và tuyên truyền, vận động các đoàn viên, hội viên tham gia học nghề.

Tóm lại: trong 10 năm qua, dạy nghề đã được phục hồi sau một thời gian dài suy giảm và có bước phát triển mới, về cơ bản đáp ứng được nhu cầu về số lượng cho thị trường lao động, chất lượng dạy nghề có chuyển biến tích cực.

3. Chính sách của nhà nước về dạy nghề cho các đối tượng

Như đã trình bày ở trên, trong thời gian qua, nhận thức được dạy nghề không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế đất nước mà còn có ý nghĩa xã hội, nhân văn cao cả, Nhà nước đã ban hành và triển khai nhiều chính sách về dạy nghề cho các đối tượng: chính sách tín dụng cho học sinh, sinh viên trong dạy nghề chính quy; chính sách hỗ trợ dạy nghề đối với người dân tộc thiểu số; bộ đội xuất ngũ, người nghèo, người khuyết tật, lao động nông thôn, lao động bị thu hồi đất canh tác .v.v….



- Chính sách dạy nghề cho học sinh dân tộc thiểu số nội trú

Chính sách dạy nghề cho học sinh dân tộc thiểu số nội trú được quy định trong Quyết định số 267/2005/QĐ-TTg ngày 31/10/2005 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư liên tịch số 65/2006/TTLT/BTC-BLĐTBXH ngày 12/7/2006 của liên bộ Tài chính, lao động Thương binh và Xã hội.

Chính sách này quy định cụ thể cho đối tượng là học sinh tốt nghiệp các trường trung học cơ sở dân tộc nội trú và trung học phổ thông dân tộc nội trú, kể cả nội trú dân nuôi được cử tuyển học nghề nội trú, trong đó ưu tiên con em các dân tộc thiểu số ở khu vực đặc biệt khó khăn được hưởng chính sách dạy nghề nội trú. Thông qua chính sách này, học sinh dân tộc thiểu số nội trú được miễn học phí và các loại lệ phí thi, tuyển sinh; được hưởng học bổng, trợ cấp xã hội và các chính sách khác tạo điều kiện giúp học sinh dân tộc thiểu số được học nghề.

- Chính sách tín dụng đối với học sinh, sinh viên

Chính sách tín dụng đối với học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn theo học tại các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và tại các cơ sở đào tạo nghề được quy định tại Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ.

Chính sách này đã đề cập đến nhiều đối tượng người học có hoàn cảnh khó khăn như: HSSV mồ côi cả cha lẫn mẹ hoặc chỉ mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại không có khả năng lao động; HSSV là thành viên của hộ gia đình nghèo theo tiêu chuẩn quy định; Hộ gia đình có mức thu nhập bình quân đầu người tối đa bằng 150% mức thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình nghèo; Học sinh, sinh viên mà gia đình gặp khó khăn về tài chính. Nhờ chính sách này, người học thuộc diện khó khăn đã có cơ hội, điều kiện theo học. Hiện nay đã có 6,7 % người vay là người học nghề.

- Chính sách dạy nghề cho bộ đội xuất ngũ

Ngày 9/10/2009, Thủ tướng Chính phủ đó ban hành Quyết định số 121/2009/QĐ-TTg về cơ chế hoạt động của các cơ sở dạy nghề thuộc Bộ Quốc phũng và chính sách hỗ trợ bộ đội xuất ngũ học nghề. Tại Quyết định này, Thủ tướng Chính phủ quy định bộ đội xuất ngũ học nghề trình độ trung cấp nghề, trình độ cao đẳng nghề được học nghề theo cơ chế đặt hàng đối với các cơ sở dạy nghề theo quy định tại Quyết định số 39/2008/QĐ-TTg ngày 14/3/2008; được vay vốn học nghề theo quy định tại Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27/9/2007; bộ đội xuất ngũ học nghề trình độ sơ cấp được cấp ‘‘Thẻ học nghề’’ có giá trị tối đa bằng 12 tháng tiền lương tối thiểu chung tại thời điểm học nghề và cú giỏ trị sử dụng trong 01 năm kể từ ngày cấp thẻ.



- Chính sách dạy nghề cho người nghèo

Chính sách dạy nghề cho người nghèo đã được quan tâm thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006-2010 (Quyết định số 20/2007/QĐ-TTg ngày 05/02/2007 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư liên tịch số 44/2010/TTLT/BTC-BLĐTBXH ngày 29/3/2010 của liên Bộ Tài chính và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội). Theo chính sách này, không chỉ người nghèo khi tham gia học nghề được hỗ trợ mà cả những cơ sở dạy nghề cho người nghèo, doanh nghiệp dạy nghề và tổ chức việc làm cho người nghèo cũng được các chính sách hỗ trợ của nhà nước.



- Chính sách dạy nghề cho người tàn tật, khuyết tật

Chính sách này được quy định tại Thông tư số 19/2005/TTLT/BLĐTBXH-BTC-BKHĐT ngày 19/3/2005 của liên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội - Bộ Tài chính - Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn thi hành Nghị định số 81/CP ngày 23/11/1995 và Nghị định số 116/2004/NĐ-CP ngày 23/4/2004 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động là người tàn tật và các quy định hiện hành. Thông qua chính sách này, người khuyết tật, tàn tật có nhiều cơ hội tiếp cận với việc học nghề.



- Chính sách dạy nghề cho thanh niên

Chính sách học nghề và tạo việc làm cho thanh niên giai đoạn 2008 - 2015 (đã được phê duyệt tại Quyết định số 103/2008/QĐ-TTg ngày 21 tháng 7 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ) đang mở ra triển vọng mới về dạy nghề, tạo bước đột phá tăng về số lượng, nâng cao chất lượng dạy nghê cho thanh niên, giúp thanh niên học nghề, lập nghiệp.

Chính sách này nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện cho thanh niên vay vốn học nghề, tạo việc làm và đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo các chính sách hiện hành của nhà nước; hỗ trợ đầu tư nâng cao năng lực và hiện đại hóa 10 trung tâm giới thiệu việc làm và dạy nghề trọng điểm của Đoàn thanh niên; tập huấn 60.000 lượt cán bộ đoàn các cấp về tư vấn học nghề, việc làm; tỷ lệ thanh niên được tiếp cận thông tin tư vấn, giới thiệu việc làm đạt 50% vào năm 2010 và 75% vào năm 2015; 100% thanh niên có nhu cầu lập doanh nghiệp được cung cấp kiến thức khởi sự doanh nghiệp.

- Chính sách dạy nghề cho phụ nữ

Chính sách hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai đoạn 2010 – 2015 cũng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thông qua Quyết định số 295/QĐ-TTg ngày 26/2/2010. Chính sách này đã tăng cơ hội học nghề, tạo việc làm cho phụ nữ; đặc biệt phụ nữ khu vực nông thôn, phụ nữ độ tuổi trung niên, phụ nữ dân tộc thiểu số vùng đặc biệt khó khăn, vùng di dời, giải tỏa. Mặc khác, chính sách này cũng huy động mọi nguồn lực trong xã hội quan tâm dạy nghề, tạo việc làm cho phụ nữ; chú trọng đầu tư phát triển các cơ sở dạy nghề thu hút nhiều lao động nữ, đặc biệt là các cơ sở dạy nghề thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam



- Chính sách dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn

Chính sách hỗ trợ dạy nghề cho lao động nông thôn được thực hiện từ năm 2005 theo Quyết định số 81/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư số 06/2006/TTLT-BTC-BLĐTBX ngày 19/01/2006 của liên bộ Tài chính, lao động Thương binh và Xã hội nhằm phát triển dạy nghề cho LĐNT, góp phần tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo cho lao động nông thôn. Để phát triển và nhân rộng những kết quả đó, năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1956/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” với nguồn lực kinh phí lớn hơn nữa nhằm tạo ra sự thay đổi căn bản trong nông nghiệp, nông dân và nông thôn.



4. Chính sách của nhà nước về dạy nghề cho lao động nông thôn

4.1. Định hướng chính sách về dạy nghề cho lao động nông thôn

Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 18/3/2002 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về ”Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn” đã xác định hai trong 5 nhiệm vụ trọng tâm là: nâng cao hiệu lực của chính quyền cơ sở; xây dựng đội ngũ chính quyền cơ sở.

Nghị quyết số 26/NQ-TW ngày 5/8/2008 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đặt ra một trong những nhiệm vụ và giải pháp quan trọng là: “Hình thành Chương trình mục tiêu quốc gia về đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo hàng năm đào tạo khoảng 1 triệu lao động nông thôn. Thực hiện tốt việc xã hội hoá công tác đào tạo nghề. Đến năm 2020 lao động nông nghiệp còn khoảng dưới 30% lao động xă hội; tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%”.

Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28/10/2008 của Chính phủ ban hành chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 26/NQ-TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã đặt ra nhiệm vụ: tập trung xây dựng kế hoạch và giải pháp đào tạo cho bộ phận con em nông dân đủ trình độ, năng lực vào làm việc ở các cơ sở công nghiệp, thủ công nghiệp, dịch vụ và chuyển nghề; bộ phận nông dân còn tiếp tục sản xuất nông nghiệp được đào tạo về kiến thức và kỹ năng để thực hành sản xuất nông nghiệp hiện đại; đồng thời tập trung đào tạo nâng cao kiến thức cho cán bộ quản lý, cán bộ cơ sở.

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục xác định: ”Phát triển nông - lâm - ngư nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông thôn ”Triển khai có hiệu quả Chương trình đào tạo nghề cho 1 triệu lao động nông thôn mỗi năm”.

4.2. Các chính sách dạy nghề cho lao động nông thôn

Cụ thể hóa các chủ trương, đường lối trên, ngày 27/11/2009, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục có Quyết định số 1956/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” để thúc đẩy hơn nữa chính sách này. Đề án ”Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” làm cụ thể hơn các chính sách cho người học, cho người dạy và cho cơ sở đào tạo tham gia dạy nghề cho lao động nông thôn, cụ thể:



a) Chính sách cho người học

* Đối tượng

Đối tượng người học được thụ hưởng chính sách dạy nghề cho lao động nông thôn trong Đề án 1956 bao gồm rất nhiều đối tượng, bao gồm:

- Lao động khu vực nông thôn (ở các xã);

- Lao động ở các Thị trấn thuộc Huyện, phường thuộc Quận, phường của Thị xã, Thành phố thuộc Tỉnh nhưng đang làm nông nghiệp (nông - lâm - ngư nghiệp) và những hộ mất đất canh tác hiện chưa có việc làm.

Các đối tượng người học nêu trên có độ tuổi từ đủ 15 tuổi đến 60 tuổi đối với nam và từ đủ 15 tuổi đến 55 tuổi đối với nữ và có khả năng lao động ...

* Chính sách

Mỗi đối tượng lao động nông thôn học nghề, đều có những chính sách tương ứng, cụ thể:

- Lao động nông thôn thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, người tàn tật, người bị thu hồi đất canh tác được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn (trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng) với mức tối đa 03 triệu đồng/người/khóa học (mức hỗ trợ cụ thể theo từng nghề và thời gian học nghề thực tế); hỗ trợ tiền ăn với mức 15.000 đồng/ngày thực học/người; hỗ trợ tiền đi lại theo giá vé giao thông công cộng với mức tối đa không quá 200.000 đồng/người/khóa học đối với người học nghề xa nơi cư trú từ 15 km trở lên;

- Lao động nông thôn thuộc diện hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn (trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng) với mức tối đa 2,5 triệu đồng/người/khóa học (mức hỗ trợ cụ thể theo từng nghề và thời gian học nghề thực tế);

- Lao động nông thôn khác được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn (trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng) với mức tối đa 02 triệu đồng/người/khóa học (mức hỗ trợ cụ thể theo từng nghề và thời gian học nghề thực tế);

- Lao động nông thôn học nghề được vay để học theo quy định hiện hành về tín dụng đối với học sinh, sinh viên. Lao động nông thôn làm việc ổn định ở nông thôn sau khi học nghề được ngân sách hỗ trợ 100% lãi suất đối với khoản vay để học nghề;

- Lao động nông thôn là người dân tộc thiểu số thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, hộ nghèo và hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo các khóa học trình độ trung cấp nghề, cao đẳng nghề được hưởng chính sách dạy nghề đối với học sinh dân tộc thiểu số nội trú;

- Lao động nông thôn sau khi học nghề được vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm để tự tạo việc làm.

Mỗi lao động nông thôn chỉ được hỗ trợ học nghề một lần theo chính sách của Đề án 1956. Những người đã được hỗ trợ học nghề theo các chính sách khác của Nhà nước thì không được tiếp tục hỗ trợ học nghề theo chính sách của Đề án này.

Riêng những người đã được hỗ trợ học nghề nhưng bị mất việc làm do nguyên nhân khách quan thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định tiếp tục hỗ trợ học nghề để chuyển đổi việc làm theo chính sách của Đề án này nhưng tối đa không quá 03 lần.



c) Chính sách đối với giáo viên/người dạy nghề

* Đối tượng

Tham gia dạy nghề cho lao động nông thôn không chỉ là giáo viên trong các cơ sở dạy nghề, cơ sở giáo dục ... mà còn là:

- Tiến sỹ khoa học, tiến sỹ, thạc sỹ, kỹ sư có chuyên môn phù hợp;

- Cán bộ kỹ thuật có trình độ trung cấp trở lên, người lao động có trình độ tay nghề từ bậc 3/7 hoặc tương đương trở lên làm việc trong các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh và các trung tâm khuyến nông - lâm - ngư;

- Nghệ nhân là người thợ giỏi xuất sắc được cơ quan có thẩm quyền từ cấp tỉnh trở lên phong tặng danh hiệu nghệ nhân;

- Nông dân sản xuất giỏi là thành viên chủ chốt của hộ nông dân đạt danh hiệu sản xuất, kinh doanh giỏi cấp cơ sở trở lên theo Quy định số 135 QĐ/HND ngày 4/4/2008 của Ban chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.



* Chính sách

Giáo viên/người dạy nghề tham gia dạy nghề, quản lý dạy nghề cho lao động nông thôn được hưởng các chính sách sau:

- Giáo viên, cán bộ quản lý dạy nghề thường xuyên phải xuống thôn, bản, phum, sóc thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn để dạy nghề với thời gian từ 15 ngày trở lên trong tháng được hưởng phụ cấp lưu động hệ số 0,2 so với mức lương tối thiểu chung như đối với giáo viên thực hiện công tác xóa mù chữ, phổ cập giáo dục thường xuyên phải xuống thôn, bản, phum, sóc;

- Giáo viên của các cơ sở dạy nghề công lập ở các huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số được giải quyết nhà công vụ như đối với giáo viên ở các cơ sở giáo dục mầm non đến các cấp học phổ thông;

- Người dạy nghề (cán bộ kỹ thuật, kỹ sư, người lao động có tay nghề cao tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh và các trung tâm khuyến nông, lâm, ngư, nông dân sản xuất giỏi tham gia dạy nghề lao động nông thôn) được trả tiền công giảng dạy với mức tối thiểu 25.000 đồng/giờ; người dạy nghề là các tiến sĩ khoa học, tiến sĩ trong lĩnh vực nông nghiệp, nghệ nhân cấp tỉnh trở lên được trả tiền công giảng dạy với mức tối thiểu 300.000 đồng/buổi. Mức cụ thể do cơ sở dạy nghề quyết định;

d) Chính sách đối với cơ sở đào tạo nghề cho lao động nông thôn

* Đối tượng

Để thu hút năng lực xã hội vào đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đối tượng cơ sở đào tạo nghề được mỏ rộng:

- Các trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề;

- Trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp của các Bộ, ngành, tổ chức chính trị - xã hội, địa phương, doanh nghiệp và cơ sở tư thục;

- Các viện nghiên cứu;

- Trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp, trung tâm học tập cộng đồng;

- Trung tâm khuyến nông, lâm, ngư, trang trại, nông trường, lâm trường, doanh nghiệp, hợp tác xã và các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ …

* Chính sách

Các cơ sở đào tạo nêu trên, nếu đủ điều kiện thì được tham gia dạy nghề cho lao động nông thôn bằng nguồn kinh phí quy định trong Đề án 1956 và được cung cấp chương trình, giáo trình, học liệu và bồi dưỡng giáo viên dạy nghề.

Ngoài ra, Nhà nước còn có những chính sách riêng cho một số loại hình cơ sở dạy nghề đặc thù, nhằm tạo điều kiện để các cơ sở dạy nghề này phát triển, cụ thể:

- 61 huyện nghèo được đầu tư cơ sở vật chất thiết bị dạy nghề cho trung tâm dạy nghề theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo;

- 30 huyện có tỷ lệ hộ nghèo từ 30 – 50% mới thành lập trung tâm dạy nghề năm 2009 được hỗ trợ đầu tư phòng học lý thuyết, xưởng thực hành, ký túc xá, nhà công vụ cho giáo viên, nhà ăn, ô tô bán tải hoặc thuyền máy để chuyên chở thiết bị, cán bộ, giáo viên đi dạy nghề lưu động, thiết bị dạy nghề cho 4 nghề phổ biến và 3 - 5 nghề đặc thù của địa phương. Mức đầu tư tối đa 12,5 tỷ đồng/trung tâm;

- 74 huyện miền núi, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số mới thành lập trung tâm dạy nghề năm 2009 được hỗ trợ đầu tư xưởng thực hành, ký túc xá; nhà công vụ cho giáo viên, nhà ăn, ô tô bán tải hoặc thuyền máy để chuyên chở thiết bị, cán bộ, giáo viên đi dạy nghề lưu động, thiết bị dạy nghề cho 3 nghề phổ biến và 3 - 4 nghề đặc thù của địa phương; Mức đầu tư tối đa 9 tỷ đồng/trung tâm.

- 116 huyện đồng bằng mới thành lập trung tâm dạy nghề năm 2009 được hỗ trợ kinh phí đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề với mức 5 tỷ đồng/trung tâm.

- 09 trường trung cấp nghề thủ công mỹ nghệ ở 09 tỉnh tập trung nhiều làng nghề truyền thống được hỗ trợ đầu tư xây dựng và thiết bị dạy nghề với mức đầu tư 25 tỷ đồng/trường;

- Tiếp tục hỗ trợ đầu tư thiết bị dạy nghề cho các trung tâm dạy nghề công lập huyện được đầu tư giai đoạn 2006 – 2009 nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu đảm bảo chất lượng dạy nghề. Mức hỗ trợ 3 tỷ đồng/trung tâm;

- Hỗ trợ kinh phí mua sắm thiết bị dạy nghề cho 100 trung tâm giáo dục thường xuyên ở những huyện chưa có trung tâm dạy nghề để tham gia dạy nghề cho lao động nông thôn. Mức hỗ trợ 1 tỷ đồng/trung tâm;

Như vậy, từ quan điểm, chủ trương đến những chính sách cụ thể, Đảng và Nhà nước ta thời gian qua đã tạo nhiều điều kiện để dạy nghề phát triển. Nói chính xác hơn là Đảng, Nhà nước đã có nhiều chính sách cho các đối tượng, nhất là lao động nông thôn có cơ hội được học nghề, tạo việc làm, góp phần cải thiện thu nhập, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước.

Chuyên đề 4

QUY ĐỊNH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ DẠY NGHỀ VÀ TRÁCH NHIỆM

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DẠY NGHỀ Ở CÁC CẤP

I. Những quy định của pháp luật về dạy nghề trong Luật Giáo dục 2005 và Luật Dạy nghề

1. Dạy nghề trong Luật Giáo dục

Theo quy định tại Luật Giáo dục 2005, dạy nghề là một cấp học trong giáo dục nghề nghiệp và được thực hiện dưới một năm đối với đào tạo nghề trình độ sơ cấp, từ một đến ba năm đối với đào tạo nghề trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng. Các cơ sở dạy nghề bao gồm trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề, lớp dạy nghề.



2. Dạy nghề trong Luật Dạy nghề

Luật Dạy nghề được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, Kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29/11/2006 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2006 để quy định về tổ chức, hoạt động của cơ sở dạy nghề; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động dạy nghề. Luật Dạy nghề được áp dụng đối với tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động dạy nghề tại Việt Nam.



a) Khái niệm về dạy nghề

Dạy nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá học.



b) Mục tiêu dạy nghề

Mục tiêu dạy nghề là đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có năng lực thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.



c) Các trình độ đào tạo trong dạy nghề

Dạy nghề có ba trình độ đào tạo là sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề. Dạy nghề bao gồm dạy nghề chính quy và dạy nghề thường xuyên.




tải về 5.01 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   48




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương