BỘ giáo dục và ĐÀo tạo tài liệu giáo dục về TÀi nguyên và MÔi trưỜng biểN, ĐẢo cho học sinh trung học phổ thôNG



tải về 0.93 Mb.
trang2/11
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích0.93 Mb.
#30674
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11

- Quần đảo Hoàng Sa

Hình 1.3. Quần đảo Hoàng Sa

Quần đảo nằm trong khoảng vĩ độ 15o45’ - 17o15’B, kinh độ 111o-113oĐ, án ngữ ngang cửa Vịnh Bắc Bộ, cách đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) hơn 120 hải lí, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) khoảng 140 hải lí. Gồm trên 30 hòn đảo, bãi đá ngầm, cồn san hô, bãi cát nằm rải trên một vùng biển rộng từ tây sang đông khoảng 100 hải lí, từ Bắc xuống Nam khoảng 85 hải lí, chiếm một diện tích khoảng 15.000km2.

Các đảo của quần đảo Hoàng Sa chia thành 2 nhóm:

+ Nhóm phía Đông có tên là nhóm An Vĩnh gồm 8 hòn đảo nhỏ và một số mỏm đá san hô mới nhô lên khỏi mặt nước. Trong đó, lớn nhất là đảo Phú Lâm và đảo Linh Côn, diện tích mỗi đảo khoảng 1,5km2; trên đảo có nhiều cây cối, xung quanh có những bãi san hô và bãi cát ngầm. Các đảo nhỏ khác có diện tích từ 0,4km2 trở xuống, một số đảo có bờ cát trắng hoặc bãi san hô viền quanh.

+ Nhóm đảo phía Tây gồm 15 đảo nhỏ nằm sát liền nhau, cong như hình lưỡi liềm nên có tên là nhóm đảo Lưỡi Liềm. Đảo lớn nhất là đảo Hoàng Sa, diện tích gần 1km2; các đảo khác có diện tích từ 0,5km2 trở xuống. Trên đảo Hoàng Sa cây cối xanh tươi, có chỗ cây lớn mọc thành rừng, phần nhiều là dừa và phi lao. Ở phía Đông đảo Hoàng Sa có một cầu tàu bằng đá và bê tông dài khoảng 180m, do một công ti Nhật Bản được nhà cầm quyền Pháp trước đây cho phép khai thác phân chim xây dựng, nay vẫn còn nguyên dấu tích. Cũng trên đảo này có một trạm khí tượng được xây dựng và hoạt động từ năm 1938 đến năm 1947, được đăng kí vào mạng lưới của Tổ chức Khí tượng thế giới, mang số hiệu khu vực của Việt Nam.

Tổng diện tích phần nổi của các đảo trong quần đảo Hoàng Sa là khoảng 10km2. Ngoài các đảo còn có những cồn san hô, vành đai san hô bao bọc một vùng nước tạo thành đầm nước giữa biển khơi. Có cồn dài tới 30km, rộng 10km, như cồn Cát Vàng.

Quần đảo Hoàng Sa có khí hậu nóng quanh năm, nhiệt độ trung bình tháng 1 là 23oC, tháng 7 là 28oC. Một năm chia làm 2 mùa: mùa khô từ tháng 1 đến tháng 6, mùa mưa từ tháng 7 đến tháng 12. Lượng mưa trung bình hằng năm khoảng 1170mm. Từ tháng 6 đến tháng 8 thường có bão đi qua.

Thảm thực vật của quần đảo Hoàng Sa rất đa dạng. Có đảo cây cối um tùm, nhưng có đảo chỉ có cây nhỏ, cây bụi và cỏ dại. Thực vật phần lớn thuộc các loài có nguồn gốc ở duyên hải miền Trung do nhiều triều Vua trước đây của nước ta đã ra lệnh đem các loài cây ra trồng để thuyền bè qua lại dễ nhận biết, tránh bỏ tai nạn.

Trên các đảo có nguồn phốt phát vôi do phân chim tích tụ lâu ngày bị phân hóa, đây là nguồn phân bón có giá trị lớn. Hải sản ở Hoàng Sa có tôm hùm, hải sâm, đồi mồi, rau câu... Cát ở đây chứa tới 40% can xi, do những vụn san hô vỡ ra mà thành. Vùng biển Hoàng Sa cũng có triển vọng lớn về dầu khí.



- Quần đảo Trường Sa

Quần đảo Trường Sa ở về phía Đông Nam nước ta, trong khoảng vĩ độ 6o50 - 12o00B, kinh độ 111o30 - 117o20’Đ, cách vịnh Cam Ranh (Khánh Hòa) khoảng 250 hải lí, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) trên 600 hải lí và cách đảo Đài Loan khoảng 960 hải lí.

Quần đảo gồm hơn 100 hòn đảo, đá, cồn san hô và bãi san hô, nằm rải trên một vùng biển rộng, từ Tây sang Đông khoảng gần 350 hải lí, từ Bắc xuống Nam khoảng hơn 360 hải lí, chiếm một diện tích biển khoảng 160.000 - 180.000km2.

Các đảo của quần đảo Trường Sa thấp hơn các đảo của quần đảo Hoàng Sa, độ cao trung bình trên mặt nước từ 3 đến 5m. Đảo lớn nhất là đảo Ba Bình (rộng khoảng 0,6km2), tiếp đến là các đảo Song Tử Tây, Trường Sa, Nam Yết, Song Tử Đông, Thị Tứ, Loại Ta, Sinh Tồn... Ngoài ra còn có các bãi đá ngầm. Các đảo ở đây cũng có vành san hô ngầm, rộng hàng trăm mét, che chở cho đảo khỏi bị sóng đánh tràn lên. Tổng diện tích phần nổi của tất cả các đảo, đá, cồn, bãi ở quần đảo Trường Sa khoảng 10km2, tương đương quần đảo Hoàng Sa, nhưng quần đảo Trường Sa trải ra trên một vùng biển rộng gấp hơn 10 lần quần đảo Hoàng Sa.



Hình 1.4. Thị trấn Trường Sa nhìn từ phía biển

Đảo Song Tử Tây nằm cách bờ biển nước ta khoảng 450km, tấm bia chủ quyền của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam được đặt ở gần trung tâm của đảo. Trên đảo Trường Sa và đảo Song Tử Tây có đài khí tượng theo dõi và thông báo các số liệu về thời tiết của vùng biển này cho mạng lưới quan trắc khí tượng thế giới. Trên các đảo Song Tử Tây, An Bang, Đá Tây có đèn biển của Tổng Công ti bảo đảm Hàng hải Việt Nam.

Khí hậu, thời tiết của vùng biển quần đảo Trường Sa khác biệt lớn so với các vùng ven bờ: mùa hạ mát hơn và mùa đông ấm hơn. Một năm có thể chia làm 2 mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4. Lượng mưa trung bình lớn, hơn 2500mm/năm. Hằng năm ở quần đảo Trường Sa có tới 130 ngày có gió mạnh từ cấp 6 trở lên. Hiện tượng dông rất phổ biến, có thể nói quanh năm, tháng nào cũng có dông. Bão lớn cũng thường đi qua, tập trung vào các tháng mùa mưa.

Một số đảo trong quần đảo có nước ngầm như ở các đảo Song Tử Tây, Trường Sa, Song Tử Đông.

Chất đất trên các đảo là cát san hô, có lẫn những lớp phân chim và mùn cây, có bề dày từ 5 đến 10cm. Trên các đảo có nhiều loại cây xanh như cây phong ba, phi lao, bàng vuông và một số loại dây leo, cỏ dại.

Nguồn lợi hải sản của quần đảo Trường Sa rất phong phú, với nhiều loại cá tập trung với mật độ cao; đặc biệt có vích là loài động vật quý hiếm và cá ngừ đại dương có giá trị kinh tế cao.

Ngoài phốt phát vôi, đá san hô... thì theo các chuyên gia, khu vực quần đảo Trường Sa cũng có dầu khí với trữ lượng khá lớn.



Hình 1.5. Trồng rau xanh ở Trường Sa



- Quần đảo Vân Hải

Là nhóm đảo ở phía đông vịnh Hạ Long, cách thành phố Hạ Long gần 50km. Lớn nhất là đảo Trà Bản, dài 30km. Phía nam đảo là vịnh Vân Đồn rộng gần 100km2, nơi có thương cảng Vân Đồn xưa kia nổi tiếng là phồn thịnh và sầm uất.



- Đảo Cát Bà

Nằm ở phía đông thành phố Hải Phòng, diện tích khoảng 277km2, gồm 1 đảo lớn và 366 đảo đá lớn nhỏ rải rác vây quanh. Trên đảo Cát Bà có vườn quốc gia cùng tên.



- Quần đảo Cô Tô

Nằm ở khoảng vĩ độ 21o00B và kinh độ 107o45Đ, thuộc tỉnh Quảng Ninh, gồm 29 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó 2 đảo lớn nhất là Cô Tô và Thanh Lam. Đảo Cô Tô nổi tiếng về nghề nuôi trai lấy ngọc.



- Đảo Bạch Long Vĩ

Nằm khoảng vĩ độ 20o07’B và kinh độ 107o45’Đ, cách thành phố Hải Phòng 70 hải lí được coi là tiền đồn ngoài cùng phía Đông Bắc của Tổ quốc. Đảo rộng khoảng 2,5km2, giàu sản vật biển: cá, tôm và đặc biệt là bào ngư.



- Đảo Cồn Cỏ

Thuộc tỉnh Quảng Trị, có vĩ độ 17o10’ và kinh độ 107o21’Đ, cách đất liền hơn 20 hải lí. Diện tích gần 4km2. Là một trong những đảo có đa dạng sinh học bậc nhất ở nước ta.



- Đảo Lý Sơn

Còn có tên là Cù Lao Ré, thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Đảo dài trên 8km, rộng khoảng 2,5km. Dân cư đông đúc, làm nghề đánh bắt hải sản, trồng tỏi...



Hình 1.6. Đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi



- Quần đảo Phú Quý

Ở ngoài khơi bờ biển Bình Thuận. Gồm gần 10 hòn đảo lớn nhỏ và một số bãi cạn nằm rải rác trong vùng biển kéo dài khoảng kinh độ 108o20’-109o20’Đ và vĩ độ 9o50’ - 10o45’B. Lớn nhất là đảo Phú Quý (còn gọi là Cù Lao Thu), dài 6,5km, rộng khoảng 3,5km. Đảo Hòn Hải trong quần đảo được chọn là một điểm để xác định đường cơ sở tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam.



- Quần đảo Côn Sơn

Nằm cách Vũng Tàu 98 hải lí và cửa sông Hậu 45 hải lí. Gồm 16 hòn đảo lớn nhỏ với diện tích tổng cộng khoảng 70km2. Đảo lớn nhất là Côn Đảo, tiếp đến là Hòn Bảy Cạnh, Hòn Bà... Đây là quần đảo khá trù phú, đất đai màu mỡ, nhiều hải sản.



- Hòn Khoai

Nằm cách mũi Cà Mau khoảng 7 hải lí. Diện tích gần 5km2. Là một thắng cảnh của tỉnh Cà Mau.



- Đảo Phú Quốc

Là hòn đảo lớn nhất nước ta, nằm ở vùng biển Tây Nam đất nước, thuộc tỉnh Kiên Giang. Diện tích gần 568km2, chiều dài nhất khoảng 50km, chiều rộng nhất gần 30km. Quanh đảo Phú Quốc còn có hàng chục đảo nhỏ, tổng diện tích các đảo này chỉ bằng 2/3 diện tích đảo chính. Đảo Phú Quốc có ý nghĩa về nhiều mặt: vị trí chiến lược, kinh tế (đánh cá, trồng hồ tiêu, du lịch,...).



- Quần đảo Nam Du

Thuộc tỉnh Kiên Giang, nằm khoảng vĩ độ 9o40’B, kinh độ 104o2’Đ, cách bờ biển hơn 27 hải lí. Gồm 21 đảo đá lớn nhỏ, diện tích tổng cộng khoảng 11km2, quây quần trong một vùng biển rộng 60km2. Đảo lớn nhất là Nam Du, dài gần 6km, nơi rộng nhất khoảng 1,5km.



- Quần đảo Thổ Chu

Thuộc tỉnh Cà Mau, nằm cách mũi Cà mau khoảng 85 hải lí về phía Tây Bắc. Gồm 9 đảo lớn nhỏ, rải rác trên một vùng biển rộng khoảng 50km2. Đảo lớn nhất là Thổ Chu. Hòn Nhạn là đảo nằm xa bờ nhất của quần đảo, được chọn làm điểm chuẩn A1 để vạch đường cơ sở tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam.



3. Một số vấn đề cơ bản của Chiến lược biển, đảo Việt Nam đến năm 2020

Thế kỉ 21 được thế giới xem là thế kỉ của đại dương. Bước vào thế kỉ 21, giống như nhiều quốc gia khác, Việt Nam đang hướng mạnh ra biển để tăng cường tiềm lực kinh tế của mình. Khai thác biển để phát triển kinh tế là cách làm đầy hứa hẹn, mang tình chiến lược và được đánh giá là có vai trò ngày càng quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội nước ta.

Trên cơ sở đó, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã thông qua nghị quyết về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”.

3.1. Các quan điểm chỉ đạo về định hướng chiến lược biển, đảo Việt Nam đến năm 2020

- Một là, nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giầu từ biển trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn.

- Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo quốc phòng - an ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường, kết hợp giữa phát triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

- Ba là, khai thác mọi người lực để phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường biển trên tinh thần chủ động, tích cực mở cửa, phát huy đầy đủ và có hiệu quả các nguồn lực bên trong; tranh thủ hợp tác quốc tế, thu hút mạnh các nguồn lực bên ngoài theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước.



3.2. Mục tiêu của chiến lược biển, đảo Việt Nam đến năm 2020

- Mục tiêu tổng quát:

Đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho đất nước giàu mạnh.

- Mục tiêu cụ thể:

+ Xây dựng và phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học - công nghệ, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh; phấn đấu đến năm 2020 kinh tế trên biển và ven biển đóng góp khoảng 53-55% tổng GDP của cả nước.

+ Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống nhân dân vùng biển và ven biển để có thu nhập bình quân đầu người cao gấp hai lần so với thu nhập bình quân chung của cả nước.

+ Cùng với xây dựng một số thương cảng quốc tế có tầm cỡ khu vực, hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, sẽ xây dựng một số khu kinh tế mạnh ở ven biển

+ Xây dựng cơ quan quản lí tổng hợp thống nhất về biển có hiệu lực, hiệu quả, mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực về biển.



3.3. Những định hướng của chiến lược biển, đảo Việt Nam đến năm 2020

- Về kinh tế - xã hội

+ Đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản về tài nguyên biển và bảo vệ môi trường biển; phát triển khoa học - công nghệ biển; xây dựng kết cấu hạ tầng biển gắn với phát triển mạnh các ngành dịch vụ; xây dựng tuyến đường ven biển, trong đó có một số đoạn cao tốc và các tuyến vận tải cao tốc trên biển.

+ Hình thành một số lĩnh vực kinh tế mạnh gắn với xây dựng các trung tâm kinh tế để ra biển, làm động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước.

+ Đến năm 2020, phát triển thành công, có bước đột phá về kinh tế biển, ven biển gồm: khai thác, chế biến dầu khí; kinh tế hàng hải; khai thác và chế biến hải sản; phát triển du lịch và kinh tế hải đảo; xây dựng các khu kinh tế, các khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất ven biển gắn với phát triển các khu đô thị ven biển.

+ Trước mắt, sẽ đầu tư phát triển du lịch biển, xây dựng cảng biển, phát triển công nghiệp đóng tàu, phát triển những ngành dịch vụ mũi nhọn như vận tải biển, các khu kinh tế ven biển; tạo các điều kiện cần thiết bảo đảm an ninh, an toàn cho người dân hoạt động, sinh sống trên biển, đảo và ở những vùng thường bị thiên tai.

- Về quốc phòng, an ninh đối ngoại:

+ Phát huy sức mạnh tổng hợp, giữ vững độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, vùng trời Tổ quốc.

+ Kết hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp đấu tranh chính trị, ngoại giao, pháp lí, kinh tế, quốc phòng trong quản lí vùng trời, bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc gắn với thế trận an ninh nhân dân.

+ Xây dựng lực lượng vũ trang, nòng cốt là hải quân, không quân, cảnh sát biển, biên phòng, dân quân tự vệ biển mạnh, làm chỗ dựa vững chắc cho ngư dân và các thành phần kinh tế sản xuất và khai thác tài nguyên biển.

+ Sớm xây dựng chính sách đặc biệt để thu hút và khuyến khích mạnh mẽ nhân dân ra đảo định cư lâu dài và làm ăn dài ngày trên biển, phát triển kinh tế kết hợp làm nhiệm vụ bảo vệ vùng biển của Tổ quốc.

- Về phát triển khoa học - công nghệ biển:

+ Xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ biển đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới, phục vụ hiệu quả quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

+ Đẩy mạnh nghiên cứu và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ứng dụng khoa học - công nghệ, phục vụ công tác điều tra cơ bản, dự báo thiên tai và khai thác tài nguyên biển; nhanh chóng nâng cao tiềm lực khoa học - công nghệ cho nghiên cứu và khai thác tài nguyên biển, đáp ứng được yêu cầu giai đoạn phát triển mới của đất nước.

- Về xây dựng kết cấu hạ tầng biển

+ Phát triển mạnh hệ thống cảng biển quốc gia, xây dựng đồng bộ một số cảng đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế, đặc biệt chú trọng các cảng nước sâu ở cả 3 miền của đất nước, tạo những cửa mở lớn vươn ra biển thông thương với thế giới.

+ Tăng cường đầu tư chiều sâu, cải tiến đồng bộ và hiện đại hóa cơ sở vật chất kĩ thuật, sớm khắc phục tình trạng lạc hậu về trình độ kĩ thuật - công nghệ các cảng; tăng nhanh năng lực bốc xếp hàng hóa, giảm thiểu tối đa chi phí, bảo đảm có sức cạnh tranh cao trong hội nhập kinh tế quốc tế.

+ Sớm hoàn chỉnh khai thác có hiệu quả hệ thống sân bay ven biển, xây dựng tuyến đường ven biển và đường cao tốc Bắc - Nam trên biển...



4. Định hướng phát triển kinh tế biển, đảo Việt Nam

4.1. Thực trạng kinh tế biển, đảo Việt nam

- Trong những năm qua, đất nước chúng ta đã có nhiều nỗ lực trong việc phát triển kinh tế biển. Kinh tế biển Việt Nam đã và đang đóng góp phần không nhỏ vào nền kinh tế chung của đất nước. Một số ngành kinh tế biển đã đạt được những thành tựu to lớn: Khai thác hải sản và nuôi trồng thủy sản nước lợ là lĩnh vực kinh tế đặc trưng của biển đã đóng góp khoảng 4,5 tỉ USD trong tổng giá trị thủy sản xuất khẩu năm 2008, tạo việc làm cho hơn 1 triệu lao động đánh cá trực tiếp và nuôi trồng thủy sản, cùng 50 vạn lao động dịch vụ liên quan. Mức khai thác dầu khí năm 2008 là 14,9 triệu tấn dầu và 7,5 tỉ mét khối khí, kim ngạch xuất khẩu dầu đạt 10,4 tỉ USD, là ngành đóng góp lớn nhất vào GDP kinh tế biển hiện nay.

Kinh tế trên một số đảo đã có bước phát triển nhờ chính sách di dân và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trên các đảo.

- Tuy nhiên, quy mô phát triển kinh tế biển nước ta như hiện nay là chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh vốn có. Cơ sở hạ tầng các vùng biển, ven biển và hải đảo nhìn chung còn yếu kém, lạc hậu. Hệ thống cảng biển nhỏ bé, manh mún, thiết bị nhìn chung còn lạc hậu và chưa đồng bộ nên hiệu quả thấp. Các chỉ tiêu hàng hóa thông qua cảng trên đầu người rất thấp so với các nước trong khu vực.

Đến nay Việt Nam vẫn chưa có đường bộ cao tốc chạy dọc theo bờ biển, nối liền các thành phố, khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển thành một hệ thống kinh tế biển liên hoàn. Các thành phố, thị trấn, khu công nghiệp, khu kinh tế ven biển mới đang trong thời kì xây dựng. Hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, đào tạo nhân lực cho kinh tế biển, các cơ sở quan trắc, dự báo, cảnh báo thời tiết, thiên tai, các trung tâm tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn còn nhỏ bé, trang thiết bị thô sơ... Việc sử dụng biển và hải đảo chưa thật hiệu quả, thiếu bền vững. Trình độ khai thác biển của nước ta đang ở tình trạng lạc hậu bậc nhất trong khu vực.

4.2. Một số định hướng về phát triển kinh tế biển, đảo

Định hướng chung về phát triển kinh tế biển của Việt Nam trong những năm tới là:

- Xây dựng Việt Nam trở thành một quốc gia mạnh về kinh tế biển, có cơ cấu kinh tế hiện đại, thực sự làm động lực thúc đẩy kinh tế cả nước phát triển với tốc độ nhanh. Tạo sự kết hợp kinh tế ven biển, kinh tế trên biển và kinh tế hải đảo với các khu vực nội địa để phát triển nhanh, ổn định và bền vững.

- Mở cửa, hợp tác quốc tế để phát triển kinh tế biển và vùng ven biển một cách toàn diện. Phát huy triệt để và có hiệu quả các nguồn lực bên trong, kết hợp với tranh thủ sự hợp tác và thu hút các nguồn lực từ bên ngoài theo nguyên tắc cùng có lợi, tôn trọng chủ quyền và trên tinh thần chủ động, tích cực mở cửa, hội nhập.

- Coi phát triển kinh tế biển và vùng ven biển là động lực để hỗ trợ, thúc đẩy các vùng khác cùng phát triển. Kinh tế biển và vùng ven biển là “hạt nhân” tạo sự chuyển biến cơ bản và toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế biển và vùng ven biển với bảo vệ tài nguyên môi trường sinh thái, tái tạo và phát triển các nguồn tài nguyên biển, đảm bảo sự phát triển bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường sống của vùng biển, ven biển và các hải đảo.

4.3. Giải pháp phát triển kinh tế biển, đảo ở Việt Nam

Kinh tế biển Việt Nam hiện đã có bước chuyển biến đáng kể. Ngoài các ngành nghề truyền thống, đã xuất hiện nhiều ngành kinh tế biển gắn với công nghệ - kỹ thuật hiện đại như khai thác dầu khí, đánh bắt xa bờ, vận tải biển, du lịch biển - đảo và tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn... Tuy nhiên, điểm mấu chốt trong chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam là hội nhập quốc tế.

Mục tiêu thực hiện chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 là phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển; làm giàu từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển gắn với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn. Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế biển đóng góp khoảng 53 - 55% GDP, 55 - 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân vùng biển và ven biển.



Để xây dựng một nền khoa học kinh tế biển hiện đại, một quốc gia mạnh về biển với tầm nhìn dài hạn, Việt Nam cần phải triển khai hàng loạt các giải pháp nghiên cứu về biển, cả chiến lược, chính sách lẫn khoa học - công nghệ, bao gồm:

Thứ nhất, phát triển mạnh giao thông vận tải biển để đáp ứng nhu cầu xuất, nhập khẩu hàng hoá. Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển giao thông vận tải biển. Hệ thống cảng của nước ta gồm cảng biển và cảng sông với khoảng trên 90 cảng lớn nhỏ và được phân bố tương đối đều dọc theo bờ biển từ Bắc vào Nam. Hệ thống cảng biển Việt Nam được chía thành 6 nhóm: 1) Nhóm cảng biển phía bắc; 2) Nhóm cảng biển Bắc Trung Bộ; 3) Nhóm cảng biển Trung Trung Bộ; 4) Nhóm cảng biển Nam Trung Bộ; 5) Nhóm cảng vùng Đông Nam Bộ; và 6) Nhóm cảng đồng bằng sông Cửu Long. Cùng với hệ thống cảng, kho bãi, biển Việt Nam thông với hai đại dương lớn là Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Những điều kiện thuận lợi này là cơ sở quan trọng để phát triển giao thông vận tải biển. Vận chuyển hàng hoá bằng đường biển đã tăng 6 lần trong giai đoạn (1995-2006).

Thứ hai, tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo, huấn luyện thuyền viên. Việt Nam ước tính thiếu hụt khoảng 800 thuyền viên vào năm 2010. Nếu tính cả sĩ quan tham gia vào thị trường xuất khẩu thì sự thiếu hụt lên tới 1000 người. Để giảm thiểu sự thiếu hụt này, nhà nước cần xây dựng Trung tâm đào tạo huấn luyện thuyền viên dựa trên nguồn kinh phí tài trợ của nhà nước và của tư nhân, đồng thời hợp tác với nước ngoài để đào tạo nguồn nhân lực theo tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó, cần phát triển dịch vụ hàng hải và hiện đại cơ sở vật chất kỹ thuật cho khâu quản lý điều hành nhằm bảo đảm an toàn hàng hải và dịch vụ hàng hải. Phát triển thương mại biển, đảo và vùng ven biển có trọng điểm để sớm hình thành một số trung tâm thương mại mạnh tại một số khu vực biển. Duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hải sản cao, ổn định và bền vững, cải thiện cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng mặt hàng chế tạo, sản phẩm chế biến.

Thứ ba, tập trung phát triển du lịch đảo và du lịch ven biển. Du lịch và giải trí biển là một lĩnh vực hoạt động kinh tế biển. Các hoạt động kinh tế biển đã đóng góp giải quyết đáng kể về thu nhập cũng như giảm thất nghiệp, xoá đói nghèo, bảo đảm an ninh quốc gia vùng biển. Du lịch biển có tiềm năng kinh doanh lớn. Vùng biển và ven biển tập trung tới ¾ khu du lịch tổng hợp và hơn ½ khu du lịch chuyên đề nhưng ngành du lịch biển vẫn chưa có những sản phẩm dịch vụ đặc sắc, có tính cạnh tranh cao so với khu vực và quốc tế, chưa có khu du lịch biển tổng hợp đạt qui mô và trình độ quốc tế. Những năm gần đây, du lịch, nghỉ dưỡng cũng như giải trí biển đã được mở rộng đáng kể. Việt Nam có nhiều trung tâm du lịch biển quan trọng, có vị trí địa lý thuận lợi, nằm trển tuyến du lịch quốc tế Đông Nam Á. Doanh thu du lịch biển tăng 5 lần giai đoạn (2000 – 2006), Mục tiêu năm 2010 thu hút hoảng 4-5 triệu lượt khách quốc tế, 20 - 30 triệu lượt khách trong nước đến du lịch biển.

Thứ tư, tăng cường khai thác năng lượng, khoáng sản, thuỷ sản biển. Đẩy mạnh sản xuất muối biển trên cơ sở thâm canh, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất các đồng muối hiện có.

Mặc dù ngành khai thác dầu thô và khí thiên nhiên trên biển Việt Nam mới được bắt đầu từ năm 1986, nhưng hiện đang đứng ở vị trí thứ 4 ở Đông Nam Á và thứ 44 trong Cộng đồng các quốc gia khai thác dầu mỏ trên thế giới. Ngành dầu khí là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn có tiềm lực kỹ thuật, vật chất lớn và hiện đại nhất trong nhũng ngành khai thác biển, đồng thời cũng là một trong những ngành xuất khẩu thu được nhiều ngoại tệ nhất. Cần đẩy mạnh phát triển công nghiệp ven biển, trước hết là dầu mỏ, khí đốt, than, quặng kim loại, chuẩn bị điều kiện khai thác khoáng sản ở biển sâu sau năm 2010. Bên cạnh khai thác khoáng sản biển, thì thủy sản cũng đóng vai trò quan trọng vì thuỷ sản là nguồn tài nguyên tài tạo, phát triển dựa trên nền tảng của các hệ sinh thái. Kinh tế thuỷ sản bảo đảm và cải thiện kế sinh nhai cho dân cư sống ở vùng nông thôn ven biển và hải đảo. Tiếp tục phát triển nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản để đến năm 2010 đạt tổng sản lượng 4 triệu tấn. Mở rộng thêm diện tích những nơi thuận lợi nhất cho nghề muối, đưa diện tích các đồng muối lên 30- 35 nghìn ha vào năm 2010.



Thứ năm, phát triển kết cấu hạ tầng biển trên cơ sở đầu tư nâng cấp các cụm cảng, đáp ứng yêu cầu xuất nhập khẩu. Nâng công suất cụm cảng phía Bắc lên 60 - 70 triệu tấn, miền Trung 40 - 50 triệu tấn/năm, miền Nam 90 - 100 triệu tấn vào năm 2010. Nâng cấp và chuẩn bị điều kiện xây mới một số sân bay ven biển. Khẩn trương xây dựng các cảng biển nước sâu, qui mô lớn có thể tiếp nhận các tàu biển trọng tải lớn từ 50.000 – 100.000 DWT. Ngành hàng hải Việt Nam cần 4-5 tỉ USD từ nay đến năm 2015 để đầu tư phát triển cảng biển. Năm 2008, cảng biển Nam Ninh (cảng đầu tiên đạt tiêu chuẩn quốc tế ở phía bắc) chính thức được đưa vào khai thác đã đánh dấu sự phát triển mới của ngành vận tải biển Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.

Tóm lại, mục tiêu của Cộng đồng quốc tế nói chung và của từng quốc gia ven biển nói riêng là phát triển bền vững như Chương trình nghị sự 21 của Liên hợp quốc đã đưa ra. Phát triển kinh tế biển Việt Nam hiện chưa được coi là bền vững. Vì vậy, để phá triển một nền kinh tế biển hiệu quả, bền vững và có khả năng hội nhập quốc tê cần có một phương pháp quản lý biển tổng hợp, đảm bảo được an ninh sinh thái và an ninh xã hội ở vùng biển đảo và ven biển. Thêm nữa là phải thay đổi cách tư duy về quản lý và khai thác tài nguyên biển, phải chinh phục biển và chế ngự biển khơi, có như vậy, mục tiêu “trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển vào năm 2020” của Chính phủ Việt Nam mới có khả năng thành hiện thực.



Каталог: userfiles -> file
file -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
file -> 29 Thủ tục công nhận tuyến du lịch cộng đồng
file -> BÀi phát biểu củA ĐẠi diện sinh viên nhà trưỜng sv nguyễn Thị Trang Lớp K56ktb
file -> CỦa bộ trưỞng bộ VĂn hóa thông tin về việc thành lập tạp chí di sản văn hóa thuộc cục bảo tồn bảo tàng bộ trưỞng bộ VĂn hóa thông tin
file -> BỘ VĂn hoá, thể thao và du lịCH
file -> UỶ ban quốc phòng và an ninh cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
file -> Số: 38/2009/QĐ-ttg CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
file -> BỘ VĂn hoá, thể thao và du lịch cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
file -> KỲ HỌp thứ TÁM, quốc hội khóa XIII (20/10/2014 – 28/11/2014)
file -> UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ SÁU quốc hội khoá XII

tải về 0.93 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương