BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị



tải về 4.74 Mb.
trang66/67
Chuyển đổi dữ liệu18.07.2016
Kích4.74 Mb.
#1917
1   ...   59   60   61   62   63   64   65   66   67

Trả lời:

Về vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao thấy rằng: Trong những năm gần đây, nhận thức rõ hiệu quả của công tác tuyên truyền, phổ biến, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho người dân thông qua các phiên tòa hình sự được xét xử lưu động và xuất phát từ yêu cầu của tình hình chính trị, trật tự xã hội, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành nhiều văn bản để yêu cầu các Tòa án tăng cường xét xử lưu động các vụ án hình sự. Tòa án nhân dân tối cao cũng đề ra định mức về số lượng các vụ án cần xét xử lưu động trong từng năm để các Tòa án địa phương có kế hoạch chủ động thực hiện. Đối với các loại tội phạm về ma túy, do tính chất phức tạp và số lượng vụ án ngày càng gia tăng, nên Tòa án nhân dân tối cao xác định công tác giáo dục pháp luật cần được tăng cường cùng chất lượng xét xử. Tại Công văn số 150/TATC-VP ngày 01-6-2007, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã yêu cầu các Tòa án chủ động phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng lựa chọn một số vụ án trọng điểm về ma túy, các vụ án chống người thi hành công vụ trong công tác phòng, chống ma túy để đưa ra xét xử lưu động tại nơi xảy ra vụ án, phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng kịp thời tuyên truyền về kết quả xét xử. Các vụ án phạm tội đối với trẻ em hoặc người chưa thành niên, Tòa án nhân dân tối cao thường xuyên quán triệt các Tòa án tăng cường tổ chức việc xét xử lưu động. Do đó, trong những năm gần đây số lượng các vụ án hình sự xét xử lưu động liên tục tăng nhanh (cụ thể: năm 2003 xét xử lưu động 1.500 vụ; năm 2004 xét xử lưu động 2.000 vụ; năm 2005 xét xử lưu động 2.500 vụ; năm 2006 xét xử lưu động 3.600 vụ).

Mặc dù đạt được một số kết quả như đã nêu ở trên, nhưng ngành Tòa án luôn quán triệt việc tăng cường hơn nữa công tác xét xử lưu động các vụ án hình sự, thể hiện rõ tính nghiêm minh của pháp luật, qua đó răn đe, giáo dục, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân.

II. CÁC Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỦA CỬ TRI VỀ VIỆC THI HÀNH VÀ HƯỚNG DẪN THI HÀNH PHÁP LUẬT:

1/ Cử tri tỉnh Điện Biên kiến nghị: Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét, hướng dẫn thủ tục, thẩm quyền tạm hoãn thi hành án phạt tù đối với những trường hợp đương sự có đủ điều kiện hoãn, nhưng án chưa có hiệu lực pháp luật mà đương sự đang bị tạm giam, tạm giữ.

Trả lời:

Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau: Theo quy định tại khoản 1 Điều 255 của Bộ luật tố tụng hình sự thì những bản án và quyết định được thi hành là những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật, bao gồm:

- Những bản án và quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm;

- Những bản án và quyết định của Toà án cấp phúc thẩm;

- Những quyết định của Toà án giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

Như vậy, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì không có trường hợp người bị kết án phạt tù phải đi chấp hành hình phạt khi bản án, quyết định của Toà án chưa có hiệu lực pháp luật; do đó không có thủ tục hoãn thi hành hình phạt tù trong trường hợp này.

Tuy nhiên, đối với trường hợp sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo bị tạm giam và bản án sơ thẩm bị kháng cáo hoặc kháng nghị (bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật) thì theo quy định tại Điều 243 của Bộ luật tố tụng hình sự, “sau khi nhận hồ sơ vụ án, Toà án cấp phúc thẩm có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn...”. Việc Toà án cấp phúc thẩm áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn phải tuân thủ quy định tại Điều 88 của Bộ luật tố tụng hình sự; cụ thể là:

... Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây:



a) Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;

b) Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;

c) Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia”.

2/ Cử tri tỉnh Phú Thọ kiến nghị: Mẫu biểu Quyết định mở thủ tục thanh lý theo quy định tại khoản 1, Điều 81 và mẫu số 7 tại Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP là chưa phù hợp với thực tế giải quyết phá sản. Trong thực tế ở giai đoạn này phần lớn các khoản nợ có bảo đảm của doanh nghiệp vẫn chưa được xử lý, các khoản nợ thu từ người mắc nợ chưa thu hồi, do vậy, các vấn đề này cần được thể hiện trong quyết định mở thủ tục thanh lý”.

Trả lời:

Về vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao xin có ý kiến như sau: Theo Điều 35, Luật Phá sản quy định về xử lý các khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố thì: Trường hợp Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục thanh lý đối với doanh nghiệp, hợp tác xã thì các khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố được xác lập trước khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được ưu tiên thanh toán bằng tài sản đó; nếu giá trị tài sản thế chấp hoặc cầm cố không đủ thanh toán số nợ thì phần nợ còn lại sẽ được thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; nếu giá trị của tài sản thế chấp hoặc cầm cố lớn hơn số nợ thì phần chênh lệch được nhập vào giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã.

Căn cứ vào các quy định tại Điều 35 như nêu trên, thì đối với các khoản nợ có bảo đảm của doanh nghiệp, hợp tác xã đều được thanh toán bằng chính tài sản đó; còn trong trường hợp giá trị tài sản thế chấp hoặc cầm cố của các khoản nợ được bảo đảm không đủ thanh toán số nợ thì phần nợ còn lại sẽ được thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã, khi xử lý phần nợ này cần xác định các khoản nợ không có bảo đảm. Việc xác định thứ tự phân chia tài sản của các khoản nợ không có bảo đảm được thực hiện theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 37 Luật Phá sản và các nội dung này đã được thể hiện đầy đủ trong phần hướng dẫn ghi Phương án phân chia tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã tại điểm 2, mẫu số 07 của Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP. Như vậy, mẫu số 07 của Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP phù hợp với thực tiễn, không cần thiết phải bổ sung, sửa đổi với mẫu này.

3/ Cử tri tỉnh Điện Biên kiến nghị:“Trong thực tế xét xử hiện nay, nhiều bị đơn dân sự (nhất là các trường hợp nghiện hút) có mặt tại địa bàn nhưng cố tình không nhận giấy triệu tập, không ký vào biên bản hoặc sổ giao nhận văn bản tố tụng và cố tình trốn tránh không đến Tòa án theo giấy triệu tập, gây khó khăn cho công tác xét xử của Tòa án. Đề nghị Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét, hướng dẫn cho áp dụng thủ tục niêm yết công khai theo điều 154 Bộ luật tố tụng dân sự và xem xét áp dụng biện pháp dẫn giải ra Tòa như đối với người làm chứng”.

Trả lời:

Đối với vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao thấy rằng: Trường hợp đương sự có mặt tại địa bàn nhưng cố tình không nhận giấy triệu tập, không ký vào biên bản hoặc sổ giao nhận văn bản tố tụng thuộc trường hợp đương sự cố tình không nhận văn bản tố tụng, do đó người thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo phải lập biên bản về việc từ chối nhận văn bản tố tụng có xác nhận của tổ trưởng tổ dân phố, Uỷ ban nhân dân, công an xã, phường, thị trấn về việc người đó từ chối nhận văn bản tố tụng (theo khoản 6 Điều 152 Bộ luật tố tụng dân sự). Như vậy, việc tống đạt đã hợp lệ, đúng quy định của pháp luật tố tụng. Trong trường hợp bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ (khoản 2 Điều 200 Bộ luật tố tụng dân sự).

Trong Bộ luật tố tụng dân sự không quy định trường hợp dẫn giải bị đơn cố tình trốn tránh không đến Tòa án theo giấy triệu tập như đối với người làm chứng; do đó, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao không thể hướng dẫn trái với các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

4/ Cử tri thành phố Hà Nội kiến nghị: “Hàng năm ngành Tòa án nhân dân thành phố Hà nội phải giải quyết rất nhiều vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động có liên quan đến pháp nhân và công dân Việt Nam ở nước ngoài nhất là từ khi có Nghị quyết 1037 ngày 27-7-2006 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01-7-1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia; do đó việc Tòa án nhân dân phải ủy thác tư pháp tăng lên rất nhiều. Tuy nhiên, phần lớn việc ủy thác tư pháp không có kết quả hoặc có kết quả nhưng rất chậm không bảo đảm được thời hạn ủy thác được quy định theo Điều 93 Bộ luật tố tụng dân sự là 30 ngày nên ảnh hưởng rất nhiều đến tiến độ giải quyết các vụ án. Hiện nay các văn bản của cơ quan tổ chức, cá nhân nước ngoài thông qua thư điện tử hoặc fax gửi đến Tòa án cũng không được coi là chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự vì các văn bản đó chưa được hợp pháp hóa (mặc dù nước ta đã có Luật giao dịch điện tử có hiệu lực từ ngày 01-3-2006). Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến giải quyết các vụ án chậm chễ, để án tồn đọng. Đề nghị các cơ quan có thẩm quyền sớm có hướng dẫn, chỉ đạo việc ủy thác tư pháp được thực hiện đúng quy định của pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi để Tòa án giải quyết các vụ án trong thời hạn pháp luật quy định”.

Trả lời:

Về vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao xin có ý kiến như sau: Trong trường hợp việc thu thập chứng cứ phải được tiến hành ở ngoài lãnh thổ Việt Nam (theo khoản 4 Điều 93 của Bộ luật tố tụng dân sự), thì Hội đồng xét xử phải tiến hành ủy thác tư pháp. Thủ tục ủy thác tư pháp được thực hiện theo quy định tại Chương XXXVI của Bộ luật tố tụng dân sự về tương trợ tư pháp trong tố tụng dân sự và các quy định tương ứng của Luật Tương trợ tư pháp.

Trường hợp việc ủy thác tư pháp để thu thập chứng cứ được tiến hành trước khi mở phiên tòa sơ thẩm hoặc phúc thẩm và đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại Điều 179 của Bộ luật tố tụng dân sự đối với phiên tòa sơ thẩm hoặc Điều 258 của Bộ luật tố tụng dân sự đối với phiên tòa phúc thẩm mà việc ủy thác thu thập chứng cứ chưa có kết quả thì Tòa án cần xem xét quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử. Trong trường hợp cần phải chờ kết quả ủy thác thu thập chứng cứ mà đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử (kể cả thời gian gia hạn), thì Tòa án cần xác định đây là “vụ án có tính chất phức tạp” và căn cứ vào điểm a tiểu mục 1.3 mục 1 Phần II Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 4 Điều 189 của Bộ luật tố tụng dân sự để ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.

Trường hợp việc ủy thác tư pháp để thu thập chứng cứ được tiến hành tại phiên tòa sơ thẩm hoặc tại phiên tòa phúc thẩm mà xét thấy cần phải tiến hành ủy thác để thu thập chứng cứ, thì Tòa án cần căn cứ vào khoản 4 Điều 189 của Bộ luật tố tụng dân sự (hoặc Điều 259 của Bộ luật tố tụng dân sự đối với phiên tòa xét xử phúc thẩm) để ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án.

Mặt khác, Luật Giao dịch điện tử được Quốc hội thông qua ngày 29-11-2005 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01-3-2006) có quy định về giá trị pháp lý của giao dịch điện tử, chữ ký điện tử và giá trị chứng cứ của thông điệp dữ liệu… Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 2 của Luật giao dịch điện tử về đối tượng áp dụng thì Luật giao dịch điện tử chỉ áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân lựa chọn giao dịch bằng phương tiện điện tử. Từ khi Luật Giao dịch điện tử có hiệu lực đến nay, vẫn chưa có văn bản quy định việc lựa chọn giao dịch bằng phương tiện điện tử trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nói chung cũng như hoạt động thu thập chứng cứ nói riêng. Do đó, trong khi chưa có quy định hướng dẫn việc công nhận giấy tờ, tài liệu dưới hình thức giao dịch điện tử theo quy định của Luật Giao dịch điện tử thì việc công nhận giấy tờ, tài liệu do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài lập, cấp hoặc xác nhận vẫn được thực hiện theo quy định tại Điều 418 của Bộ luật tố tụng dân sự và các quy định của pháp luật về ủy thác tư pháp trong tố tụng dân sự.

III. CÁC Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỦA CỬ TRI LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TỔ CHỨC, ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CHẾ ĐỘ, CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁN BỘ NGÀNH TÒA ÁN VÀ CƠ SỞ VẬT CHẤT PHỤC VỤ CÔNG TÁC XÉT XỬ:

1/ Cử tri các tỉnh Điện Biên, Nam Định, Quảng Ninh và thành phố Hà Nội về chế độ tiền lương, phụ cấp của cán bộ, công chức ngành Tòa án kiến nghị:

- Ý kiến, kiến nghị của cử tri tỉnh Điện Biên: “Trong công tác xét xử, Thẩm phán hoàn toàn chịu trách nhiệm đối với bản án do mình trực tiếp xét xử. Tuy nhiên, về hệ số lương khởi điểm của Thẩm phán và Thư ký Toà án nhân dân cấp huyện bằng nhau (2,34) là không hợp lý với trách nhiệm của từng người nhất là trách nhiệm của Thẩm phán khi tăng thẩm quyền xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 33 Bộ luật tố tụng dân sự. Đề nghị Nhà nước xem xét điều chỉnh mức lương khởi điểm của Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện cho phù hợp với trách nhiệm khi tăng thẩm quyền xét xử”.

- Ý kiến, kiến nghị của cử tri tỉnh Nam Định: Hiện nay thẩm quyền xét xử của Toà án cấp huyện được tăng thêm công việc nhiều nhưng mức lương và phụ cấp trách nhiệm của Thẩm phán và Thư ký Toà án nhân dân cấp huyện so với cấp tỉnh và cấp trung ương còn thấp. Đồng thời cũng cần có sự hỗ trợ kinh phí để tăng cường công tác xét xử lưu động để mang tính giáo dục và răn đe các tội phạm khác.

- Ý kiến, kiến nghị của cử tri tỉnh Quảng Ninh: “đề nghị tăng mức phụ cấp cho Thư ký tòa án từ 20% lên 30% bằng mức phụ cấp của Thẩm phán vì thực tế Thư ký tòa án cũng phải làm việc vất vả như Thẩm phán”.

- Ý kiến, kiến nghị của cử tri thành phố Hà Nội: “Cử tri ngành Tòa án cho rằng các quy định tại Điều 44 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 (chế độ tiền lương, phụ cấp, giấy chứng minh, trang phục đối với cán bộ, công chức Tòa án và chế độ ưu tiên đối với Thẩm phán do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định) và Điều 17 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 2002 (Mục 1. Thẩm phán có thang bảng lương riêng, được hưởng phụ cấp trách nhiệm và các phụ cấp khác do pháp luật quy định. Mục 2. Thẩm phán khi đi làm nhiệm vụ được miễn phí cầu, phà, đường theo quy định của pháp luật) chưa được thực hiện đầy đủ. Thẩm phán vẫn chưa được xếp thang, bậc lương riêng. Đối với Thư ký khi mới được tuyển dụng vào ngành Tòa án chỉ có hệ số lương 2,34 với mức lương khoảng trên 1,2 triệu đồng/tháng nên gặp nhiều khó khăn trong đời sống. Đối với ngạch công chức khác cũng có trách nhiệm năng nề nhưng hiện nay các ngạch công chức này chưa được hưởng phụ cấp trách nhiệm như các chức danh tư pháp khác. Trong khi cán bộ, thẩm phán thường bị đe dọa, tố cáo thậm trí có trường hợp bị tạt axít gây thương tích. Do vậy đã có hiện tượng cán bộ Tòa án xin chuyển công tác hoặc bỏ việc. Đề nghị Quốc hội và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sớm xây dựng chế độ tiền lương, phụ cấp trách nhiệm, các ưu đãi đối với Thẩm phán và các chức danh tư pháp khác; đồng thời có cơ chế đặc thù bảo vệ uy tín, danh dự, tính mạng và sức khỏe của cán bộ Tòa án…



Trả lời:

Về các vấn đề mà cử tri các tỉnh Điện Biên, Nam Định, Quảng Ninh và thành phố Hà Nội nêu ở trên, Tòa án nhân dân tối cao thấy rằng: Hiện nay chế độ tiền lương đối với Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký Toà án các cấp được thực hiện theo quy định tại Bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ ngành Toà án, ngành Kiểm sát (ban hành kèm theo Nghị quyết số 730/2004/NQ-UBTVQH11 ngày 30-9-2004 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội).

Theo văn bản này thì mức lương của Thẩm phán và cán bộ, công chức ngành Tòa án cũng giống như mức lương của cán bộ, công chức hành chính nhà nước. Cụ thể lương của Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao giống như ngạch chuyên viên cao cấp; lương của Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh giống như ngạch chuyên viên chính; Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện giống như các ngạch chuyên viên. Các ngạch Thư ký Toà án, chuyên viên và các chức danh công chức, viên chức khác công tác trong ngành Toà án cũng xếp lương như các ngạch công chức có cùng trình độ đào tạo trong các cơ quan hành chính nhà nước.

Ngoài tiền lương, Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký Toà án được hưởng phụ cấp trách nhiệm nghề nghiệp với mức 20% tiền lương đối với Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; 25% tiền lương đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh; 30% tiền lương đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện, 15% tiền lương đối với Thẩm tra viên cao cấp, 20% tiền lương đối với Thẩm tra viên chính, 25% tiền lương đối với Thẩm tra viên và 20% tiền lương đối với Thư ký Toà án.

Theo bảng lương và phụ cấp nêu trên thì chức danh Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện có 9 bậc lương, trong đó bậc khởi điểm (bậc 1) có hệ số là 2,34 và bậc cuối cùng (bậc 9) có hệ số là 4,98 (giống như các ngạch chuyên viên, Kiểm tra viên, Thanh tra viên, Kiểm tra viên hải quan, Kiểm soát viên ngân hàng, Kiểm soát viên thị trường, Kiểm soát viên thuế...). Nếu tính thu nhập thực tế, một người có trình độ đại học luật sau 05 năm công tác tốt tại Toà án (trong đó có 1 năm học lớp nghiệp vụ xét xử) được bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện có hệ số lương là 2,34, tính thành tiền lương thực tế được nhận là 2.34 x 540.000 đồng = 1.263.000 đồng/tháng cộng với phụ cấp trách nhiệm nghề nghiệp 30% tiền lương là 379.000 đồng/tháng. Tính tổng cộng, thu nhập thực tế của Thẩm phán huyện hưởng lương bậc 1 là: 1.263.000 + 379.000 = 1.642.000 đồng. Nếu trừ các khoản bảo hiểm xã hội, công đoàn phí, đảng phí, bảo hiểm y tế thì chỉ còn khoảng 1.500.000 ngàn đồng. Tương tự, một người sau 10 -15 năm công tác được bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh có hệ số lương là 4,40 thì tổng thu nhập thực tế từ tiền lương và phụ cấp trách nhiệm vào khoảng 2.700.000 đồng/tháng. Đối với Thư ký Toà án có trình độ cử nhân luật, được tuyển dụng vào làm Thư ký Tòa án thì được xếp lương với hệ số 2,34 hưởng 85%, và được hưởng 20% phụ cấp, thì tổng thu nhập thực tế khoảng 1.285.000 đồng (trừ các khoản bảo hiểm xã hội, công đoàn phí, y tế thì còn khoảng 1.100.000 đồng). Nếu người này không có nhà riêng phải thuê nhà để ở với mức tiền thuê nhà là 500.000/tháng thì chỉ còn khoảng 600.000 đồng/tháng để chi tiêu cho các nhu cầu ăn, mặc, đi lại…

Với quy định hiện hành như vậy cho thấy còn nhiều bất hợp lý, cụ thể là:



Thứ nhất, việc quy định ngạch, bậc lương của Thẩm phán và các ngạch công chức khác làm công tác xét xử giống như ngạch, bậc lương của cán bộ, công chức hành chính là bất hợp lý, không phù hợp với vị trí, vai trò, trách nhiệm cao của Toà án và tính chất lao động phức tạp, nặng nhọc, đặc thù của Toà án như phân tích nêu trên và thực sự chưa bù đắp được hao tổn về sức lao động, kiến thức và trí tuệ mà những người làm công tác xét xử đang bỏ ra. Tất cả Thẩm phán ở các cấp Tòa án đều làm nhiệm vụ xét xử, nhưng sự chênh lệch mức lương của Thẩm phán các cấp là quá lớn, bất hợp lý (cụ thể như bậc lương cao nhất của Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện chỉ bằng bậc lương khởi điểm của Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh mới bổ nhiệm...)

Thứ hai, do chế độ tiền lương đối với Thẩm phán ở nước ta còn thấp nên chưa thể hiện đúng sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động xét xử và yêu cầu công tác phòng chống tham nhũng và cải cách tư pháp ở nước ta theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng và Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020.

Thứ ba, chế độ tiền lương thấp thực sự không khuyến khích, động viên được cán bộ, công chức Toà án yên tâm công tác, tận tụy với nghề, nâng cao tinh thần trách nhiệm và thái độ phục vụ nhân dân, phấn đấu rèn luyện tu dưỡng đạo đức, kiên quyết đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực như yêu cầu đề ra đối với công tác Toà án.

Thứ tư, chế độ tiền lương thấp như hiện nay không phù hợp với quy định của ngạch lương riêng đối với công chức Thẩm phán ngành Tòa án theo quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, chưa phải là bảo đảm hữu hiệu để Toà án thực hiện nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Có thể thấy rằng đa số các nước trên thế giới và khu vực đều quy định nhiệm kỳ và chế độ tiền lương đối với Thẩm phán và các ngạch cán bộ khác làm công tác xét xử cao hơn mặt bằng chung để tạo nên những điều kiện cần thiết bảo đảm thực hiện nguyên tắc độc lập khi xét xử của Thẩm phán và là yếu tố phòng tránh tiêu cực trong hoạt động tư pháp.

Thứ năm, do chế độ tiền lương thấp, trách nhiệm nghề nghiệp, cường độ lao động đòi hỏi cao, công việc căng thẳng, thường xuyên đối mặt với các vi phạm pháp luật, mặt trái của xã hội, nên hiện nay đang có xu hướng sinh viên tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật không muốn vào Toà án làm việc; một số trường hợp được đào tạo chính quy, trong nước và nước ngoài, có kiến thức chuyên môn và ngoại ngữ giỏi xin ra khỏi ngành. Ngành Toà án hiện nay đang thiếu cán bộ theo biên chế được giao và theo nhu cầu công việc, nếu không xử lý thoả đáng vấn đề tiền lương và các chế độ chính sách khác đối với cán bộ công chức ngành Toà án thì sẽ khó tạo ra được những điều kiện cần thiết để thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cho Toà án; đội ngũ cán bộ ngành Toà án vốn đã mỏng sẽ trở nên ngày càng thiếu.

Thấy được những bất cập nêu trên, Toà án nhân dân tối cao đã đề nghị Ban Chỉ đạo cải cách Tư pháp trung ương xem xét chính sách tiền lương và phụ cấp đối với ngạch cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân. Trước mắt, trong khi chờ Nhà nước thực hiện việc cải cách chính sách tiền lương theo lộ trình cải cách hành chính, để giải quyết kịp thời những khó khăn trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của cán bộ, công chức ngành Tòa án, đồng thời động viên, khuyến khích họ yên tâm, gắn bó và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, Tòa án nhân dân tối cao đã có Tờ trình Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ có chế độ trợ cấp tạm thời và nâng phụ cấp trách nhiệm nghề nghiệp cho Thẩm phán và cán bộ, công chức ngành Toà án nhân dân theo hướng: quy định một mức phụ cấp trách nhiệm nghề nghiệp chung đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp, đồng thời nâng mức phụ cấp trách nhiệm nghề nghiệp đối với cán bộ, công chức ngành Tòa án, cụ thể: Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp được hưởng mức phụ cấp trách nhiệm nghề nghiệp là 50% tiền lương; Thẩm tra viên cao cấp, Thẩm tra viên chính, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án được hưởng mức phụ cấp trách nhiệm nghề nghiệp là 30% tiền lương; các cán bộ công chức khác làm việc trong ngành được hưởng mức phụ cấp trách nhiệm nghề nghiệp là 20% tiền lương. Về chế độ trợ cấp tạm thời: đối với Thẩm phán Tòa án các cấp mức 700.000 đồng/tháng/người; đối với cán bộ, công chức khác làm việc trong ngành Tòa án mức 500.000 đồng/tháng/người.

Về lâu dài, việc đổi mới chế độ tiền lương, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân cần được cải tiến nhằm thực hiện các Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về chính sách chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân; tạo điều kiện thuận lợi để tiến hành cải cách tư pháp, phòng chống tham nhũng tiêu cực trong nội bộ ngành Tòa án nhân dân và xây dựng đội ngũ cán bộ Tòa án trong sạch vững mạnh; đảm bảo chế độ tiền lương phù hợp với vị trí, chức năng nhiệm vụ của ngành Toà án trong hệ thống các cơ quan tư pháp và tương xứng với cường độ lao động đặc thù của Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án; bảo đảm cho cán bộ, công chức Tòa án có cuộc sống bằng tiền lương và các khoản phụ cấp đặc thù; nâng cao trách nhiệm và tạo động lực để khuyến khích Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân tận tâm, tận lực, yêu nghề, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Để đạt được các mục tiêu đó, Tòa án nhân dân tối cao đã đề nghị các cấp có thẩm quyền xem xét, về đổi mới chế độ tiền lương và phụ cấp đối với Thẩm phán và cán bộ công chức ngành Tòa án theo hướng:

- Về chế độ tiền lương: Xác định rõ mối quan hệ tiền lương giữa các khu vực Tư pháp (Tòa án, Kiểm sát), lực lượng vũ trang, hành chính, các bậc lương chuyên môn nghiệp vụ đối với Thẩm phán, cán bộ công chức ngành Tòa án thuộc Bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ ngành Tòa án nhất là đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện phải được thiết kế cao hơn các bậc lương, thang lương thuộc Bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ thuộc các cơ quan hành chính Nhà nước ít nhất từ 2 bậc trở lên và chỉ thấp hơn các chức danh tương ứng thuộc Bảng lương của lực lượng vũ trang.

- Về chế độ phụ cấp thâm niên nghề: Hiện nay, Đảng và Nhà nước đã quan tâm cho một số ngành được hưởng chế độ phụ cấp thâm niên nghề như sĩ quan và quân nhân chuyên nghiệp thuộc quân đội nhân dân; sĩ quan và hạ sĩ quan hưởng lương thuộc công an nhân dân; công chức hải quan và người làm công tác cơ yếu trong tổ chức cơ yếu (Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14-12-2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang), đề nghị Nhà nước cho cán bộ, công chức ngành Toà án nhân dân được hưởng phụ cấp thâm niên nghề.

- Về Chế độ nhà công vụ và một số chế độ chính sách khác: Để tạo điều kiện cho Thẩm phán, cán bộ, công chức thuộc diện luân chuyển, biệt phái an tâm, phấn khởi hoàn thành tốt nhiện vụ, đề nghị các cấp có thẩm quyền xem xét cấp kinh phí xây dựng nhà công vụ, hỗ trợ đối với Thẩm phán trong thời gian luân chuyển, biệt phái tăng cường công tác xét xử, cụ thể: Thẩm phán thuộc diện luân chuyển, biệt phái có nhà công vụ để ở, được hỗ trợ thêm mỗi tháng bằng mức tiền lương tối thiểu và được hưởng các loại phụ cấp theo địa phương nơi được luân chuyển biệt phái.



2/ Cử tri tỉnh Hòa Bình kiến nghị: Cử tri ngành Toà án nhân dân tỉnh kiến nghị về chất lượng đào tạo cán bộ ngành Tòa án chưa được quan tâm, nhiều sinh viên sau khi ra trường chưa bảo đảm được chất lượng và đáp ứng yêu cầu công việc. Đề nghị Chính phủ quan tâm xem xét chất lượng đào tạo cán bộ ngành Toà án nhân dân ở các tỉnh.

Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn số: 1588

tải về 4.74 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   59   60   61   62   63   64   65   66   67




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương