BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị



tải về 4.74 Mb.
trang56/67
Chuyển đổi dữ liệu18.07.2016
Kích4.74 Mb.
#1917
1   ...   52   53   54   55   56   57   58   59   ...   67

Trả lời (tại Công văn số 1168/BXD-QLN ngày 18 tháng 6 năm 2008):

Việc bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước cho người đang thuê theo Nghị định số 61/CP đã được các địa phương triển khai thực hiện trong gần 14 năm qua. Để đẩy nhanh tiến độ bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước, trong những năm 2005 - 2007, Thủ tướng Chính phủ đã quy định mốc thời gian cho việc kết thúc bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước. Tuy nhiên, theo báo cáo của các địa phương đến nay vẫn còn nhiều nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước chưa bán và người dân vẫn có nhu cầu mua.

Để tạo điều kiện cho các địa phương còn có nhiều nhà ở thuộc sở hữu nhà nước chưa bán, được tiếp tục bán nhà ở cho người đang thuê theo Nghị định số 61/CP, Bộ Xây dựng đã chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Văn bản số 827/TTg-KTN ngày 29/5/2008 cho phép UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được tiếp tục bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước (theo quy định tại Nghị định số 61/CP và các văn bản hướng dẫn thực hiện, Nghị quyết số 23/2006/NQ-CP ngày 7/9/2006, Nghị quyết số 48/2007/NQ-CP ngày 30/8/2007 của Chính phủ) đến hết năm 2010.

3/ Cử tri tỉnh Phú Yên kiến nghị: “Cử tri đề nghị chỉ đạo các cơ quan chức năng triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ về cải thiện nhà cho người có công với Cách mạng theo quy định tại Quyết định 117/2007/QĐ-TTg ngày 25/7/2007”.

Trả lời (tại Công văn số 1169/BXD-QLN ngày 18 tháng 6 năm 2008):

Hỗ trợ người có công với cách mạng cải thiện nhà ở là một trong những chính sách Nhà nước ta nhằm góp phần tạo điều kiện về nhà ở cho những người thuộc diện chính sách, trong đó có đối tượng là những cán bộ hoạt động cách mạng trong khoảng thời gian từ ngày 01/01/1945 đến trước Tổng khởi nghĩa 19/8/1945 (sau đây gọi tắt là cán bộ Tiền khởi nghĩa).

Ngày 25/7/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 117/2007/QĐ-TTg, trong đó có quy định đối tượng là cán bộ Tiền khởi nghĩa nếu thuộc diện được hỗ trợ và có đủ các điều kiện như đã quy định tại Quyết định này thì được hưởng hỗ trợ 25 triệu đồng.

Thực hiện nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ giao, ngày 16/8/2007, Bộ Xây dựng đã có Công văn số 1787/BXD-QLN đôn đốc và hướng dẫn các địa phương khẩn trương triển khai thực hiện Quyết định số 117/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong đó Công văn đã nêu rõ UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khẩn trương chỉ đạo cơ quan quản lý nhà và cơ quan liên quan của địa phương tiến hành lập danh sách, tổng hợp số lượng đối tượng được hỗ trợ gửi Bộ Tài chính để được cấp kinh phí thực hiện.

Ngày 22/2/2008, Bộ Xây dựng đã tổ chức cuộc họp với Bộ Tài chính, Bộ lao động thương binh và xã hội để trao đổi về việc hướng dẫn các địa phương thực hiện Quyết định số 117/2007/QĐ-TTg, trong đó có vấn đề về kinh phí thực hiện việc hỗ trợ theo Quyết định này. Tiếp đó, về vấn đề này, ngày 7/4/2008, Bộ Xây dựng có văn bản số 621/BXD-QLN ngày 7/4/2008 (trả lời Công văn số 1933/VPCP-KTTH ngày 26/3/2008 của Văn phòng Chính phủ) nhất trí với đề xuất của Bộ Tài chính về nguyên tắc áp dụng kinh phí hỗ trợ bằng tiền cho đối tượng cán bộ Tiền khởi nghĩa theo Quyết định số 117/2007/QĐ-TTg.

Trong thời gian tới, căn cứ chức năng nhiệm vụ của mình, Bộ Xây dựng sẽ phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tiếp tục đôn đốc, hướng dẫn các địa phương triển khai thực hiện Quyết định nêu trên.



4/ Cử tri thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị: “Đề nghị hướng dẫn cụ thể chủ trương “cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài được quyền sử dụng nhà ở tại Việt Nam”, đồng thời đơn giản hóa thủ tục trong việc thực hiện các giao dịch về nhà ở, đất ở, góp phần phát triển thị trường bất động sản lành mạnh, đúng hướng”.

Trả lời (tại Công văn số 1170/BXD-QLN ngày 18 tháng 6 năm 2008):

Vấn đề sở hữu và thực hiện các giao dịch về nhà ở tại Việt Nam của người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã được quy định cụ thể trong Luật Nhà ở và Nghị định số 90/2006/NĐ-CP ngày 06/9/2006 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở.

Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện, nhiều ý kiến cho rằng cần bổ sung đối tượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam, đồng thời quy định rõ thủ tục xác định giấy tờ chứng minh đối tượng thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Để xử lý vướng mắc này, Bộ Xây dựng đang hoàn thiện dự thảo Nghị quyết để báo cáo Chính phủ trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định bổ sung đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Sau khi Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua Nghị quyết, Bộ Xây dựng sẽ trình Chính phủ hướng dẫn cụ thể các địa phương thực hiện (dự kiến sẽ trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong tháng 6/2008).

5/ Cử tri tỉnh Cao Bằng kiến nghị: “Chính phủ cần có văn bản pháp luật cụ thể về quản lý nhà vắng chủ, cụ thể là nhà người Hoa. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, công trình xây dựng cần được xem xét cùng với giấy chứng nhận quyền sở hữu đất để tránh phiền hà cho dân”.

Trả lời (tại Công văn số 1196/BXD-QLN ngày 23 tháng 6 năm 2008):

Về việc quản lý nhà vắng chủ, ngày 26/11/2003 Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 23/2003/QH11, tiếp đó Chính phủ đã ban hành Nghị định số 127/2005/NĐ-CP ngày 10/10/2005 và Bộ Xây dựng đã có Thông tư số 19/2005/TT-BXD ngày 01/12/2005. Theo đó, đối với nhà đất thuộc diện thực hiện chính sách quản lý nhà vắng chủ, không phân biệt đối tượng chủ sở hữu là ai đều thuộc diện xác lập sở hữu toàn dân. Như vậy, Nhà nước đã có các quy định cụ thể về việc quản lý nhà vắng chủ, kể cả nhà của người Hoa.

Về vấn đề cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất, trong Luật Nhà ở đã có quy định thống nhất cấp một loại giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở cùng với quyền sử dụng đất ở. Tuy nhiên, để thực hiện Nghị quyết số 07/2007/QH12 ngày 12/11/2007 của Quốc hội về việc thống nhất cấp một loại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cùng với quyền sử dụng đất cùng với quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, Bộ Xây dựng đang phối hợp với Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành có liên quan xây dựng Luật đăng ký bất động sản để báo cáo Chính phủ trình Quốc hội thông qua trong thời gian tới.

6/ Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: “Cùng với sự phát triển đất nước, việc phân hóa giàu nghèo đang diễn ra gay gắt, trong đó vấn đề bức xúc nhất là: nhà ở cho người có thu nhập thấp, với thu nhập như hiện nay các đối tượng cán bộ, công nhân viên chức, người lao động có thu nhập thấp không thể tự giải quyết nhà ở cho mình. Cử tri kiến nghị Nhà nước cần có chính sách cụ thể về vấn đề nhà ở xã hội và đưa chỉ tiêu xây dựng nhà ở xã hội cho người có thu nhập thấp vào chỉ tiêu phát triển kinh tế-xã hội hàng năm ở Trung ương và địa phương”.

Trả lời (tại Công văn số 1209/BXD-QLN ngày 24 tháng 6 năm 2008):

Việc chăm lo giải quyết nhà ở cho cán bộ, công nhân viên chức và lao động có thu nhập thấp là một trong những vấn đề quan trọng được Đảng và Nhà nước rất quan tâm. Trước năm 1991, Nhà nước đầu tư xây dựng nhà ở để phân phối cho cán bộ, công chức, viên chức. Sau khi có Pháp lệnh nhà ở năm 1991 được ban hành, Nhà nước không bố trí ngân sách để đầu tư phát triển nhà ở; trong khi đó các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế mới chỉ quan tâm đầu tư nhà ở phục vụ cho mục đích thương mại. Chính vì vậy, một bộ phận cán bộ, công nhân viên chức, người lao động có thu nhập thấp vẫn gặp khó khăn về nhà ở.

Nhằm giải quyết vấn đề này, Luật Nhà ở được Quốc hội thông qua năm 2005 đã quy định về việc phát triển quỹ nhà ở xã hội để cho các đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân làm việc tại các khu công nghiệp tập trung thuê hoặc thuê mua. Trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có nhiều chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội (như miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp; ưu đãi về đầu tư…) nhằm khuyến kích các tổ chức, cá nhân tham gia phát triển nhà ở xã hội. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua vẫn chưa thu hút được các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư xây dựng nhà xã hội. Nguyên nhân là việc xây dựng nhà ở xã hội cần chi phí đầu tư lớn, song lợi nhuận thấp và thời gian thu hồi vốn dài…

Bộ Xây dựng đồng tình với ý kiến của cử tri tỉnh Bình Định về việc xây dựng nhà ở xã hội, chủ yếu phải do Nhà nước đầu tư và chỉ tiêu phát triển nhà ở xã hội cho người có thu nhập thấp phải được đưa vào chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội hàng năm ở Trung ương và địa phương. Bộ Xây dựng đã kiến nghị và được Chính phủ thống nhất chỉ tiêu phát triển nhà ở trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2008 để trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp cuối năm 2007.

Để thực hiện Chương trình phát triển nhà ở xã hội theo quy định của Luật Nhà ở, tháng 5 năm 2008 Thủ tướng Chính phủ đã cho phép hai địa phương là thành phố Hà Nội và tỉnh Bình Dương triển khai thí điểm một số dự án phát triển nhà ở xã hội trên địa bàn bằng nguồn vốn ngân sách. Đồng thời, Bộ Xây dựng đang nghiên cứu Đề án “Chương trình đầu tư xây dựng nhà ở xã hội từ nguồn vốn Nhà nước để cho cán bộ, công nhân viên chức và các hộ có thu nhập thấp thuê hoặc thuê mua theo quy định của Luật Nhà ở” và sẽ trình Thủ tướng Chính phủ xem xét phê duyệt trong tháng 7 năm 2008 làm cơ sở để thực hiện trên phạm vi cả nước.

7/ Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: “Tình trạng nhà ở cho công nhân làm trong các khu công nghiệp vừa qua chưa được quan tâm đúng mức. Do đó, nhiều công nhân gặp khó khăn về nhà ở. Đề nghị Chính phủ có chính sách nhà ở cho công nhân, khi cấp giấy phép cho các doanh nghiệp hoạt động phải có điều khoản quy định cho chủ doanh nghiệp phải giải quyết nhà ở cho người lao động. Chính phủ nên chỉ đạo cho các địa phương khi xây dựng các khu công nghiệp phải dành quỹ đất cho các doanh nghiệp xây dựng khu nhà ở tập trung cho công nhân tránh tình trạng công nhân phải đi thuê nhà ở chật chội, tạm thời và không đảm bảo an ninh trật tự”.

Trả lời (tại Công văn số 1210/BXD-QLN ngày 24 tháng 6 năm 2008):

Việc chăm lo giải quyết nhà ở cho công nhân làm việc trong các khu công nghiệp tập trung được Nhà nước rất quan tâm. Trước thời điểm Luật Nhà ở năm 2005 được ban hành, Chính phủ đã ban hành chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng nhà ở để đáp ứng nhu cầu về nhà ở cho các đối tượng có thu nhập thấp, trong đó có công nhân làm việc tại các khu công nghiệp tập trung (Nghị định số 71/2001/NĐ-CP ngày 05 tháng 10 năm 2001 của Chính phủ).

Luật Nhà ở được Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 đã quy định cụ thể về việc đầu tư xây dựng nhà ở xã hội. Trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành cũng đã có quy định về chính sách khuyến khích, ưu đãi khi đầu tư xây dựng nhà ở cho người lao động làm việc tại các khu công nghiệp tập trung (Luật Nhà ở, Luật Đầu tư, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn do cơ quan có thẩm quyền ban hành). Theo đó, việc đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân khu công nghiệp được miễn tiền sử dụng đất và miễn giảm tối đa các loại thuế phải nộp theo quy định. Doanh nghiệp đầu tư sản xuất trong khu công nghiệp khi tham gia xây dựng nhà ở cho công nhân làm việc trong đơn vị của mình thì được hoạch toán vốn đầu tư xây dựng nhà ở vào chi phí sản xuất.

Mặc dù vậy, trong thời gian qua nhà ở xã hội cho công nhân làm việc trong các khu công nghiệp tập trung vẫn chưa thu hút được nhiều tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp tham gia đầu tư xây dựng. Nguyên nhân là việc xây dựng nhà ở xã hội cần chi phí đầu tư lớn, lợi nhuận thấp, thời gian thu hồi vốn dài… Do đó, thực tế vẫn còn nhiều người lao động trong các khu công nghiệp gặp khó khăn về nhà ở, phải đi thuê nhà ở chật chội, tạm thời và không đảm bảo an ninh trật tự như ý kiến phản ánh của cử tri đã nêu.

Để khắc phục những bất cập về chất lượng nhà ở cho công nhân thuê tại các khu công nghiệp tập trung, Bộ Xây dựng đã ban hành Quyết định số 17/2006/QĐ-BXD ngày 7/6/2006 quy định tạm thời về điều kiện tối thiểu của nhà ở cho người lao động thuê để ở.

Về quỹ đất để xây dựng nhà ở tại các khu công nghiệp tập trung, tại Nghị định số 90/2006/NĐ-CP ngày 6/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở đã quy định Uỷ ban nhân dân các cấp có thẩm quyền khi lập, phê duyệt quy hoạch xây dựng khu kinh tế, khu công nghiệp khu chế xuất, khu công nghệ cao trên địa bàn cần xác định và bố trí quỹ đất để xây dựng nhà ở xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu nhà ở cho người lao động làm việc tại khu vực này. Về ý kiến cần quy định điều khoản trước khi cấp giấy phép hoạt động, chủ doanh nghiệp phải giải quyết nhà ở cho người lao động, Bộ Xây dựng sẽ nghiên cứu kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động.

Thời gian tới, Bộ Xây dựng sẽ tiếp tục nghiên cứu, đề xuất việc sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho công nhân làm việc trong các khu công nghiệp tập trung, đôn đốc, hướng dẫn ở các địa phương đẩy mạnh việc khuyến khích đầu tư phát triển nhà ở xã hội. Đồng thời Bộ Xây dựng cũng đang khẩn trương xây dựng Đề án phát triển nhà ở cho công nhân làm việc tại các khu công nghiệp tập trung thuê để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét phê duyệt.

8/ Cử tri thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị:

- Về trách nhiệm của doanh nghiệp dành quỹ đất ở để phát triển nhà ở xã hội: điều chỉnh quy định tại Khoản 2 Điều 20 Nghị định 90/2006/NĐ-CP theo hướng chỉ nên áp dụng quy định các chủ đầu tư dành đến 20% quỹ đất ở của dự án để phát triển nhà ở xã hội đối với dự án đầu tư xây dựng khu đô thị mới, có quy mô từ 50 ha trở lên, vì trong khu đô thị cần có quy hoạch nhà ở xã hội, nhà ở cho người có thu nhập thấp.



- Đối với Hà Nội và TP Hồ Chí Minh không hạn chế nhà ở xã hội 6 tầng, không thang máy. Việc này nên giao cho UBND thành phố quyết định để sử dụng hiệu quả quỹ đất ở”.

Trả lời (tại Công văn số 1211/BXD-QLN ngày 24 tháng 6 năm 2008):

1. Về quỹ đất ở để phát triển nhà ở xã hội:

Việc quy định chủ đầu tư các dự án phát triển nhà ở thương mại và khu đô thị mới có trách nhiệm dành một phần diện tích đất đã đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật để phát triển nhà ở xã hội là một trong những giải pháp nhằm tạo quỹ đất đầu tư xây dựng nhà ở xã hội đối với các địa phương. Quy định này nhằm thực hiện chủ trương gắn việc phát triển nhà ở xã hội thương mại, nhằm gắn các chủ đầu tư khu đô thị mới với trách nhiệm xã hội, đồng thời tạo điều kiện cho các hộ dân trong các dự án nhà ở xã hội được sử dụng hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội chung và được thụ hưởng lợi ích của quá trình đô thị hoá.

Trên thực tế, rất nhiều dự án phát triển nhà ở thương mại ở các địa phương có quy mô sử dụng đất dưới 50 ha (chưa đủ quy mô của khu đô thị mới). Tại các đô thị nhỏ có rất ít hoặc hầu như không có dự án phát triển khu đô thị mới, nhưng vẫn cần phải có quỹ đất phát triển nhà ở xã hội. Vì vậy, để đảm bảo sự phát triển đồng bộ nhà ở xã hội gắn với việc phát triển nhà ở thương mại, tại Khoản 2 Điều 20, Nghị định 90/2006/NĐ-CP ngày 06/9/2006 đã quy định không chỉ đối với các dự án khu đô thị mới mà kể cả các dự án phát triển nhà ở thương mại có quy mô từ 10 ha trở lên, chủ đầu tư đều có trách nhiệm dành một phần diện tích đất đã đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật nhưng tối đa không quá 20% để chính quyền địa phương phát triển nhà ở xã hội (nếu UBND cấp tỉnh có yêu cầu). Nhưng các chủ đầu tư được Nhà nước hoàn trả chi phí bồi thường giải phóng mặt bằng và chi phí đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật của phần diện tích đất giao lại cho Nhà nước. Mặt khác, để phù hợp với điều kiện của từng địa phương và từng dự án cụ thể, Nghị định số 90/2006/NĐ-CP đã quy định giao cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh được xem xét, quyết định tỷ lệ diện tích đất ở đã được chủ đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật của các dự án phát triển nhà ở thương mại và khu đô thị mới trên địa bàn dành để phát triển nhà ở xã hội (không phải bắt buộc tất cả các dự án đều phải dành quỹ đất này).

2. Về tiêu chuẩn thiết kế nhà ở xã hội:

Việc quy định tiêu chuẩn thiết kế nhà ở xã hội là nhà ở chung cư không quá 6 tầng với diện tích căn hộ từ 30m2 đến 60m2 nhằm đảm bảo tiền thuê và chi phí quản lý sử dụng hàng tháng thấp, phù hợp với khả năng chi trả của các đối tượng thu nhập thấp. Theo tính toán, nếu đầu tư xây dựng nhà ở trên 6 tầng và có thang máy, chi phí xây dựng và đặc biệt là chi phí phần móng công trình sẽ tăng (bình quân từ 15 - 20%). Như vậy, cộng với chi phí vận hành, bảo trì, khấu hao để thu hồi vốn đầu tư sẽ dẫn tới tình trạng tiền thuê nhà hàng tháng cao hơn rất nhiều so với khả năng chi trả của các đối tượng có thu nhập thấp.

Mặt khác, cần phân định rõ khái niệm nhà ở xã hội và nhà ở giá rẻ cho người thu nhập thấp theo phương thức kinh doanh. Các chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội thì được hưởng các ưu đãi theo quy định của pháp luật về nhà ở nhưng phải cho thuê, thuê mua đúng đối tượng, theo khung giá mà Nhà nước quy định. Còn việc đầu tư xây dựng nhà ở giá rẻ cho người có thu nhập thấp theo phương thức kinh doanh do chủ đầu tư quyết định và không bị hạn chế về chiều cao và diện tích như đối với nhà ở xã hội.

Vì vậy, để đảm bảo hiệu quả khai thác sử dụng đất đai trong quá trình phát triển nhà ở xã hội, chính quyền các địa phương cần lựa chọn vị trí phù hợp với quy hoạch đô thị. Đối với các khu vực trung tâm, đất mặt đường có nhiều lợi thế kinh doanh, nên dành để đấu thầu, đấu giá nhằm tạo nguồn tài chính để xây dựng nhà ở xã hội.



9/ Cử tri thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị:

- Về phê duyệt dự án nhà ở: bỏ quy định dự án đầu tư nhà ở có nguồn gốc vốn tư nhân phải được Ủy ban nhân dân thành phố (hoặc UBND quận hoặc huyện) phê duyệt. Nhanh chóng có quy chế về đấu thầu dự án có quyền sử dụng đất.



- Về điều kiện năng lực tài chính của chủ đầu tư dự án phát triển nhà ở: Điều chỉnh khoản 2.b, Điều 12 Nghị định 90/CP ngày 06/9/2006 của Chính phủ, theo hướng nếu chủ đầu tư đã bồi thường giải phóng mặt bằng xong thì coi như đã có năng lực tài chính để thực hiện dự án (vì theo Nghị định 90/CP, chủ đầu tư phải có phương án tài chính khả thi để thực hiện dự án nhà ở được Ngân hàng hoặc tổ chức tài chính thỏa thuận tài trợ; nếu không có phương án tài chính khả thi thì phải có nguồn vốn tài chính chủ sở hữu không thấp hơn 15% tổng chi phí đầu tư xây dựng hạ tầng của dự án)”.

Trả lời (tại Công văn số 1212/BXD-QLN ngày 24 tháng 6 năm 2008):

Các dự án phát triển nhà ở cũng như dự án đô thị mới có đặc thù riêng so với các dự án đầu tư xây dựng công trình khác, bởi vì trong đó có hai nội dung quan trọng thuộc trách nhiệm và quyền hạn của Nhà nước là quy hoạch chi tiết xây dựng 1/500 và cơ chế đầu tư (bao gồm cơ chế sử dụng và nộp tiền sử dụng đất, cơ chế đầu tư các công trình hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, phương án đền bù giải phóng mặt bằng, cơ chế quản lý dự án sau đầu tư…). Thực chất các dự án này là kinh doanh đất có hạ tầng. Các chủ đầu tư dự án phát triển nhà ở trước tiên phải lập quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 và trình Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền phê duyệt, chủ đầu tư lập dự án đầu tư, trong đó có đề xuất cơ chế đầu tư. Sau khi có quy hoạch được phê duyệt, cơ chế đầu tư được chấp thuận thì chủ đầu tư phê duyệt quyết định đầu tư.

Do đó, để đảm bảo công tác quản lý Nhà nước và hiệu quả của dự án phát triển nhà ở, Bộ Xây dựng đã thống nhất chỉ đạo các địa phương thực hiện theo hướng đối với các dự án phát triển nhà ở thương mại không có nguồn vốn Nhà nước thì Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng 1/500, chấp thuận về cơ chế đầu tư còn việc quyết định đầu tư thuộc thẩm quyền của chủ đầu tư.

Về cơ chế đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư các dự án khu đô thị mới và dự án nhà ở đã được quy định cụ thể tại Nghị định số 02/2006/NĐ-CP ngày 05 tháng 01 năm 2006, Nghị định số 90/2006/NĐ-CP ngày 06/9/2006 của Chính phủ và Thông tư số 04/2006/TT-BXD ngày 18/8/2006 của Bộ Xây dựng về Hướng dẫn thực hiện Quy chế khu đô thị mới.

2. Việc quy định điều kiện năng lực tài chính đối với các chủ đầu tư dự án là cần thiết, nhằm đảm bảo các dự án khả thi, triển khai hiệu quả, đúng tiến độ. Pháp luật về kinh doanh bất động sản và Nghị định số 90/2006/NĐ-CP quy định đối với dự án có diện tích đất dưới 20 ha thì chủ đầu tư phải đảm bảo có vốn sở hữu không thấp hơn 15% tổng mức đầu tư của dự án, các dự án có diện tích đất từ 20ha trở lên thì chủ đầu tư phải có vốn sở hữu không thể thấp hơn 20% tổng mức đầu tư. Tuy nhiên, tổng mức đầu tư của từng dự án cụ thể được tính toán khác nhau. Đối với chủ đầu tư dự án là chủ đầu tư cấp 1 (chỉ đầu tư kinh doanh hạ tầng) thì trong tổng mức đầu tư của dự án chỉ tính phần vốn đầu tư các công trình hạ tầng kỹ thuật, chi phí sử dụng đất, chi phí bồi thường giải phóng mặt bằng, không tính chi phí đầu tư các công trình xây dựng khác. Trường hợp chủ đầu tư đã có quyền sử dụng đất đã có quyền sử dụng đất và đã thực hiện đền bù giải phóng mặt bằng thì trong tổng mức đầu tư không tính các khoản chi phí sử dụng đất, đền bù và giải phóng mặt bằng khi xác định tỷ lệ vốn sở hữu nhà đầu tư phải đảm bảo theo quy định trên. Việc xác định tỷ lệ vốn sở hữu nêu trên đã được quy định cụ thể tại Thông tư số 13/2008/TT-BXD ngày 21/5/2008 của Bộ Xây dựng hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 153/2007/NĐ-CP ngày 15/10/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật kinh doanh bất động sản.

10/ Cử tri tỉnh Thanh Hoá kiến nghị: “Đề nghị Bộ Xây dựng xem xét điều chỉnh Thông tư 02/2007/TT-BXD ngày 14/02/2007 (về việc hướng dẫn một số nội dung về lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư, xây dựng, giấy phép xây dựng và tổ chức các Ban quản lý dự án) đảm bảo không mâu thuẫn với các văn bản khác và phù hợp với thực tế, để các địa phương, đơn vị dễ thực hiện”.

Trả lời (tại Công văn số 1302/BXD-HĐXD ngày 04 tháng 7 năm 2008):

Thông tư số 02/2005/TT-BXD ngày 14/02/2007 của Bộ Xây dựng là nhằm hướng dẫn một số nội dung về lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình, cấp phép xây dựng và tổ chức quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình theo quy định của Chính phủ tại Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 7/2/2005 và Nghị định số 112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2005/NĐ-CP. Theo đó nội dung của Thông tư số 02/2007/TT-BXD có những nội dung chính như sau:

Phần 1: Hướng dẫn về lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình trong đó giải thích và hướng dẫn rõ hơn về:

- Chủ đầu tư đối với dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước.

- Trách nhiệm của chủ đầu tư trong việc lập dự án, thẩm quyền thẩm định dự án đầu tư xây dựng công trình; trình tự, thủ tục thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình.

Phần 2: Hướng dẫn về cấp phép xây dựng:

Nội dung phần này của Thông tư chỉ xác định rõ hơn, cụ thể hơn các trường hợp xin phép xây dựng; hồ sơ xin cấp phép; nội dung giấy phép thẩm quyền cấp phép và trường hợp điều chỉnh giấy phép xây dựng.

Phần 3: Hướng dẫn về tổ chức quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình:

Nội dung phần này đã giải thích, hướng dẫn rõ hơn Ban quản lý dự án là do chủ đầu tư thành lập để giúp chủ đầu tư quản lý thực hiện dự án. Ban quản lý dự án không đồng thời là chủ đầu tư. Bộ Xây dựng cũng đã có văn bản số 1394/BXD-PC ngày 28/6/2007 gửi Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan liên quan hướng dẫn cụ thể hơn về việc thành lập Ban quản lý dự án và xử lý tình huống chuyển tiếp của Ban quản lý dự án phù hợp với tình hình cụ thể ở mỗi Bộ, ngành và địa phương.

Như vậy, những nội dung trong Thông tư số 02/2007/TT-BXD hoàn toàn phù hợp với các quy định của Luật Xây dựng và Nghị định của Chính phủ, không có nội dung nào trái hoặc mâu thuẫn với các văn bản quy phạm pháp luật khác. Trong quá trình thực hiện, Bộ Xây dựng chưa nhận được phản ánh về những mâu thuẫn cụ thể giữa nội dung hướng dẫn trong Thông tư số 02/2007/TT-BXD với các văn bản khác. Riêng về việc chuyển đổi các Ban quản lý dự án làm chủ đầu tư đã được thành lập trước đây ở một số địa phương còn gặp phải khó khăn, chủ yếu do chưa giải quyết được vấn đề nhân sự. Để tháo gỡ khó khăn này, Bộ Xây dựng đã có văn bản số 1394/BXD-PC nêu trên để xử lý các tình huống cho phù hợp với tình hình cụ thể ở các địa phương. Đến nay, hầu như không còn phản ánh gì về những vướng mắc này.

Đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hoá trong khi thực hiện chức năng giám sát, nếu phát hiện thấy trong văn bản hướng dẫn thực hiện Luật và Nghị định của Bộ Xây dựng có vướng mắc, mâu thuẫn hoặc bất cập với các quy định khác của pháp luật thì có thể phản ánh bằng văn bản về Bộ Xây dựng nêu cụ thể những nội dung này để Bộ Xây dựng nghiên cứu, điều chỉnh kịp thời.

11/ Cử tri tỉnh Lạng Sơn kiến nghị: “Đề nghị khi sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực xây dựng cơ bản phải kịp thời, đồng bộ, thống nhất để không ảnh hưởng đến tiến độ thi công các công trình”.


Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn số: 1588

tải về 4.74 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   52   53   54   55   56   57   58   59   ...   67




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương