BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị



tải về 4.74 Mb.
trang13/67
Chuyển đổi dữ liệu18.07.2016
Kích4.74 Mb.
#1917
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   67

Trong giáo dục, mỗi phương pháp kiểm tra, đánh giá đều có mặt ưu điểm và mặt hạn chế nhất định. Chẳng hạn, đối với phương pháp tự luận truyền thống, ưu điểm nổi bật là đánh giá được khả năng diễn đạt, đặc biệt là khả năng tư duy trừu tượng; ra đề thi tự luận ít tốn công sức. Tuy nhiên, phương pháp này hạn chế ở chỗ: dễ quay cóp, chấm thi mất nhiều công sức, thời gian và dễ thiên lệch, không đồng đều về mức độ (do phụ thuộc chủ quan của người chấm, chấm nhiều bài)... Đối với thi trắc nghiệm, đây là phương pháp có nhiều ưu điểm như: đề thi phủ kín nội dung môn học, hạn chế việc quay cóp trong phòng thi; bài thi trắc nghiệm được chấm bằng máy với sự giám sát chặt chẽ, đảm bảo kết quả chấm khách quan, chính xác, giảm bớt tốn kém, căng thẳng trong kỳ thi. Về hạn chế, việc ra đề thi trắc nghiệm khá công phu, thường phải xây dựng ngân hàng câu trắc nghiệm quanh năm để từ đó ra đề; khâu in sao đề trắc nghiệm tốn nhiều vật liệu, thời gian, công sức và đòi hỏi phương tiện, kỹ thuật cao.


Trong quá trình cải tiến thi cử, Bộ Giáo dục và Đào tạo không chủ trương áp dụng trắc nghiệm tràn lan, mà thực hiện theo lộ trình, có sự điều chỉnh bổ sung cần thiết để thi, kiểm tra đánh giá thực sự là động lực thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học, góp phần nâng cao chất lượng, tác động tích cực tới toàn bộ quá trình dạy học.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quyết định và thông báo rộng rãi cho các địa phương, đơn vị, từ nay đến năm 2010, giữ ổn định các môn thi trắc nghiệm như năm 2007 (áp dụng thi trắc nghiệm 100% đối với 4 môn Ngoại ngữ, Vật lí, Hóa học và Sinh học); đồng thời tiếp tục đánh giá, rút kinh nghiệm để xác định các bước triển khai tiếp theo từ kỳ thi năm 2011. Đây là một điều chỉnh cần thiết để tiếp tục thực hiện lộ trình đổi mới thi, tuyển sinh và kiểm tra, đánh giá kết quả dạy học hướng tới mục đích đã nêu.



3/ Cử tri tỉnh Lạng Sơn đề nghị: Thực hiện việc đổi mới chương trình giáo dục thông qua khảo sát đánh giá việc thực hiện chương trình sách giáo khoa mới, việc phân ban Trung học phổ thông chỉ nên thực hiện một chương trình chuẩn, có biện pháp kiểm định đối với học sinh “ngồi nhầm lớp”.

Trả lời:

a. Về đổi mới chương trình giáo dục thông qua khảo sát đánh giá việc thực hiện chương trình sách giáo khoa mới

Thực hiện Nghị quyết 40/2000/QH10 của Quốc hội và Chỉ thị 14/2001/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, từ năm học 2002-2003, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) triển khai đại trà chương trình, sách giáo khoa mới ở cấp Tiểu học, cấp THCS và từ năm học 2006-2007 đã thực hiện ở cấp THPT.

Qua quá trình thực hiện, tháng 5/2008 Bộ GDĐT đã tổ chức để giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục ở 64 tỉnh, thành phố và một số tổ chức xã hội (Hội Cựu Giáo chức Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam, Liên hiệp các hội KHKT Việt Nam) đánh giá một cách toàn diện chương trình, sách giáo khoa ở tất cả các môn học và tất cả các lớp học. Kết quả đánh giá chung là: về cơ bản, chương trình giáo dục các cấp học, môn học đã đảm bảo được tính chính xác, khoa học, hiện đại, cập nhật và tiếp cận được trình độ giáo dục ở các nước phát triển trong khu vực, đáp ứng xu thế phát triển xã hội Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế; nội dung và yêu cầu của chương trình ở nhiều môn học phù hợp với trình độ phát triển tâm sinh lý học sinh; chương trình có chú ý đến sự phân hoá trình độ nhận thức của học sinh, chú ý đến tính liên thông giữa các môn học, cấp học; đảm bảo nguyên tắc kế thừa và phát triển từ các chương trình giáo dục trước đây. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, chương trình còn bộc lộ một số hạn chế: Chương trình một số môn học còn tương đối nặng, hàn lâm đối với phần đông học sinh; một số nội dung trong chương trình ở một số môn học chưa thực sự cơ bản; chương trình còn quy định cứng, không có độ mở cần thiết để giáo viên có thể vận dụng linh hoạt, phù hợp với việc giảng dạy đối với các vùng, miền có trình độ phát triển hinh tế - xã hội và trình độ phát triển giáo dục khác nhau.

Qua đánh giá cho thấy, có thể ổn định chương trình trong những năm tới nhưng cần phải chỉnh sửa những chi tiết chưa phù hợp và điều chỉnh biện pháp tổ chức thực hiện chương trình. Đối với một số hạn chế, thiếu sót của chương trình mà điều kiện hiện tại chưa thể khắc phục ngay, cần được tổ chức nghiên cứu thấu đáo để chuẩn bị xây dựng chương trình giáo dục mới trong khoảng 7-8 năm tới sẽ áp dụng trong phạm vi toàn quốc. Chương trình giáo dục phổ thông mới được đổi mới một cách cơ bản theo hướng tích hợp, phân hoá, tăng cường hoạt động xã hội của học sinh nhằm xây dựng nền học vấn phổ thông cơ bản, vững chắc, phát huy năng lực người học, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và nhu cầu học tập của mỗi học sinh. Dựa trên chuẩn chương trình, hướng dẫn thực hiện phù hợp với các vùng, miền khác nhau. Xây dựng các nội dung giáo dục địa phương phù hợp với nhu cầu và điều kiện các vùng miền, đặc biệt đối với học sinh dân tộc thiểu số.



b. Việc phân ban trung học phổ thông chỉ nên thực hiện một chương trình chuẩn

Luật giáo dục năm 2005 đã quy định: "Giáo dục trung học phổ thông phải củng cố, phát triển những nội dung đã học ở trung học cơ sở, hoàn thành nội dung giáo dục phổ thông; ngoài nội dung chủ yếu nhằm bảo đảm chuẩn kiến thức phổ thông, cơ bản, toàn diện và hướng nghiệp cho mọi học sinh còn có nội dung nâng cao ở một số môn học để phát triển năng lực, đáp ứng nguyện vọng của học sinh".

Căn cứ quy định trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Chương trình giáo dục phổ thông kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05/5/2006. Đối với cấp THPT, tất cả các môn học và hoạt động giáo dục đều có chương trình chuẩn, riêng 8 môn học: Toán, Vật lí, Hoá học, Sinh học, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí, Ngoại ngữ còn có thêm chương trình nâng cao để lựa chọn cho phù hợp với năng lực, nguyện vọng của học sinh và điều kiện tổ chức dạy học của nhà trường.

Tại phiên họp của Hội đồng Quốc gia giáo dục ngày 20/5/2006, Thủ tướng Chính phủ đã kết luận: "Thực hiện phân hóa ở trung học phổ thông là cần thiết và phù hợp với xu thế chung của thế giới...". Để thực hiện chủ trương này, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Chỉ thị số 25/2006/CT-TTg ngày 01/8/2006 về thực hiện phân ban trung học phổ thông.

Để từng bước hiện đại hóa giáo dục và hội nhập với thế giới, cần thực hiện dạy học phân hóa ở cấp THPT. Thực tiễn giáo dục nước ta và kinh nghiệm của thế giới cho thấy, việc dạy học phân hóa ở cấp THPT là phù hợp với yêu cầu phát triển ở các vùng miền với trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau và các nhóm đối tượng có năng lực, nguyện vọng khác nhau để chuẩn bị tốt hơn cho học sinh tiếp tục học lên sau phổ thông và đi vào cuộc sống.

c. Biện pháp kiểm định đối với học sinh “ngồi nhầm lớp”

Theo Điều 17, Luật giáo dục năm 2005 đã quy định: Kiểm định chất lượng giáo dục là biện pháp chủ yếu nhằm xác định mức độ thực hiện mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục đối với nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Như vậy, việc kiểm định chất lượng giáo dục chỉ thực hiện đối với cơ sở đào tạo (nhà trường) và chương trình đào tạo, không có quy định nào nói về việc kiểm định đối với học sinh. Trên thế giới cũng không có nước nào thực hiện việc đó.

Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang triển khai việc kiểm định chất lượng giáo dục đối với các trường. Việc kiểm định chất lượng giáo dục là một trong những biện pháp quan trọng để đảm bảo chất lượng giáo dục trong các nhà trường góp phần khắc phục tình trạng “học sinh không đạt chuẩn được lên lớp".

4/ Cử tri Thành phố Hà Nội (bao gồm cả Hà Tây cũ), Hải Phòng và các tỉnh Quảng Nam, Bình Định, Thái Nguyên, Thái Bình, Quảng Ninh, Đắk Lắk, Bắc Ninh, Phú Thọ kiến nghị: Giáo dục mầm non có vai trò quyết định đến sự hình thành nền tảng phát triển thể lực, trí tuệ và nhân cách của thế hệ trẻ. Tuy nhiên hiện nay giáo dục mầm non chưa được coi trọng đúng mức. Các nhà trẻ, mẫu giáo trong các cơ quan xí nghiệp bị giải tán, các trường mầm non bị bán công hoá, các trường mầm non bán công bị tư thục hoá; chính sách đối với giáo viên mầm non chưa thoả đáng… Đề nghị Nhà nước bổ sung quy định “trẻ em từ 0 đến 6 tuổi được chăm sóc miễn phí về y tế và giáo dục” vào Luật giáo dục và Luật bảo vệ chăm sóc trẻ em. Nhà nước cần bố trí mạng lưới các trường mầm non ở các địa bàn dân cư (phường, xã, khu đô thị) phù hợp để đảm bảo việc nuôi dạy trẻ em từ 0 đến 6 tuổi được chu đáo và khoa học. Quy mô trường mầm non không nên quá lớn. Nên chọn mô hình trường mầm non quy mô nhỏ đủ điều kiện chăm sóc khoảng từ 100 đến 500 học sinh để phù hợp với điều kiện quản lý và mặt bằng ở các khu dân cư. Nhà nước nên bỏ chủ trương tư thục hoá các trường bán công mà nên làm ngược lại, nên chuyển các trường bán công sang trường công lập; mở rộng việc đào tạo và sử dụng đội ngũ giáo viên mầm non (mẫu giáo và nhà trẻ) có đủ trình độ chuyên môn và đạo đức; đảm bảo cuộc sống vật chất và tinh thần ổn định để giáo viên yên tâm hoàn thành nhiệm vụ.

Trả lời:

a. Về việc bổ sung Luật giáo dục năm 2005 và Luật bảo vệ chăm sóc trẻ em với nội dung: Trẻ em từ 0 đến 6 tuổi được chăm sóc miễn phí về y tế và giáo dục.

Điều 15, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 đã quy định: “Trẻ em có quyền được chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ. Trẻ em dưới sáu tuổi được chăm sóc sức khoẻ ban đầu, được khám bệnh, chữa bệnh không phải trả tiền tại các cơ sở y tế công lập”.

Luật giáo dục 2005 có quy định riêng về quyền của trẻ em và chính sách đối với trẻ em tại cơ sở giáo dục mầm non (Điều 84) và tại Điều 105 quy định: “...Học sinh tiểu học trường công lập không phải đóng học phí”.

Như vậy, trẻ em dưới 6 tuổi được chăm sóc y tế miễn phí tại các cơ sở y tế công lập, nhưng lại chưa được miễn phí khi đến nhà trẻ công lập. Ngân sách giáo dục trong những năm qua đã tăng đáng kể, nhưng chưa đủ điều kiện để có thể miễn phí cho trẻ đến cơ sở giáo dục mầm non công lập. Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang xây dựng Đề án phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi nhằm chuẩn bị tâm thế, chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ vào học lớp 1, theo đó sẽ miễn phí cho các đối tượng trẻ em thuộc diện chính sách, thuộc gia đình nghèo ở các địa phương.

b. Về việc bố trí mạng lưới các trường mầm non ở các địa bàn dân cư (phường, xã, khu đô thị) phù hợp để đảm bảo việc nuôi dạy trẻ em từ 0 đến 6 tuổi được chu đáo và khoa học. Quy mô trường mầm non không nên quá lớn. Nên chọn mô hình trường mầm non quy mô nhỏ đủ điều kiện chăm sóc khoảng từ 100 đến 500 học sinh. Quy mô này phù hợp với điều kiện quản lý và mặt bằng ở các khu dân cư:

Từ năm 2006, thực hiện Quyết định số 149/2006/QĐ-TTg ngày 23/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương rà soát lại quy hoạch mạng lưới các trường mầm non trên địa bàn gắn liền với việc bố trí cụm dân cư ở từng xã, phường, khu đô thị, nhằm đảm bảo đầy đủ và thuận lợi nhất cho việc nuôi dạy các cháu lứa tuổi mầm non.

Để đảm bảo các tiêu chí về chất lượng chăm sóc giáo dục mầm non, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Điều lệ trường mầm non (kèm theo Quyết định số 14/2008/QĐ-BGDĐT ngày 07/4/2008) về việc Quy định chi tiết các yêu cầu về trường, lớp, cơ sở vật chất, chương trình và các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ em, giáo viên và nhân viên v.v… đối với trường mầm non, trường mẫu giáo, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập, trong đó quy định diện tích sử dụng đất bình quân tối thiểu cho một trẻ, yêu cầu về các phòng chức năng (phòng sinh hoạt, phòng ngủ, phòng vệ sinh, hiên chơi, nhà bếp) và các quy định số trẻ tối đa trong nhóm trẻ.

c. Về việc bỏ chủ trương tư thục hoá các trường bán công mà nên làm ngược lại, nên chuyển các trường bán công sang trường công lập:

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tham mưu với Chính phủ và đang xây dựng văn bản hướng dẫn các cơ sở giáo dục bán công chuyển sang các cơ sở giáo dục công lập thực hiện cơ chế tự chủ về tài chính theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với sự nghiệp công lập.

Ở những nơi có nhu cầu học tập lớn, khả năng chi trả của các gia đình cao, trường công lập có thể tự chủ tài chính, không cần sự hỗ trợ thường xuyên của Nhà nước. Bên cạnh đó, Bộ khuyến khích thành lập trường tư thục mới khi có đủ các điều kiện đảm bảo theo quy định của Luật giáo dục.

d. Mở rộng việc đào tạo và sử dụng đội ngũ giáo viên mầm non (mẫu giáo và nhà trẻ). Đảm bảo các cô giáo mầm non có trình độ chuyên môn và đạo đức nhà giáo, có cuộc sống vật chất và tinh thần ổn định để yên tâm hoàn thành nhiệm vụ của mình:

Để triển khai thực hiện Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg ngày 11/01/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005-2010” trong đó, có đối tượng là giáo viên thuộc hệ thống giáo dục mầm non, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tổ chức thực hiện các nhiệm vụ sau đây:

- Chỉ đạo thực hiện các chế độ, chính sách đối với giáo viên mầm non theo đúng quy định của Nhà nước, đặc biệt là chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiền lương; xây dựng các chính sách tạo sự bình đẳng giữa giáo viên công tác ở các cơ sở giáo dục mầm non công lập và ngoài công lập theo Quyết định số 161/2002/QĐ-TTg ngày 15/11/2002 và Quyết định 149/2006/QĐ-TTg ngày 23/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ.

- Mở rộng quy mô đào tạo giáo viên mầm non: Thông tư liên tịch số 71/2007/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 28/11/2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ về hướng dẫn định mức biên chế sự nghiệp trong các cơ sở giáo giáo mầm non công lập, trong đó quy định đối với nhóm trẻ, bình quân mỗi giáo viên nuôi dạy 8 trẻ, đối với lớp mẫu giáo không có bán trú 20-25 trẻ/cô, lớp có bán trú 25-30 trẻ/cô. Để đảm bảo số lượng giáo viên nhà trẻ, mẫu giáo theo quy định mới, các cơ sở đào tạo giáo viên mầm non sẽ mở rộng quy mô đào tạo đối với giáo viên nhà trẻ, mẫu giáo.

- Nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên mầm non: Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục có các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên như: ban hành Quyết định số 62/2007/QĐ-BGDĐT ngày 26/10/2007 về việc quy định và hình thức tuyển dụng giáo viên trong các cơ sở giáo dục mầm non, các cơ sở giáo dục phổ thông công lập và trung tâm giáo dục thường xuyên; ban hành Quyết định 02/2008/QĐ-BGDĐT ngày 22/01/2008 Quy định “Chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non”, trong đó nêu rõ những yêu cầu về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, các yêu cầu về phẩm chất đạo đức, kiến thức, kỹ năng sư phạm. Trên cơ sở chuẩn nghề nghiệp giáo viên, các cơ sở giáo dục mầm non sẽ thực hiện đánh giá xếp loại giáo viên nhằm xây dựng đội ngũ giáo viên mầm non đảm bảo theo chuẩn, đáp ứng yêu cầu thực tế.

Hiện nay, nhiều địa phương đã có quyết định (bằng văn bản) về phụ cấp đối với giáo viên mầm non ngoài công lập từ ngân sách, cụ thể như Thái Nguyên, Hà Nam... nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đội ngũ giáo viên mầm non không thuộc biên chế sự nghiệp Nhà nước. Đối với giáo viên trong biên chế được hưởng chế độ tiền lương, phụ cấp ưu đãi, phụ cấp khu vực (đối với vùng kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn) theo quy định của Nhà nước. Nhìn chung, đời sống giáo viên mầm non đã được cải thiện một bước.

5/ Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Mô hình trường ba bậc học (Trung học phổ thông, Trung học cơ sở, Tiểu học) lớp ghép vẫn tồn tại ở các huyện miền núi; phòng công vụ, phòng thí nghiệm, nhà ở cho giáo viên… chưa được đầu tư xây dựng, chế độ phụ cấp, trợ cấp cho học sinh dân tộc thiểu số tại các trường nội trú, bán trú thấp, nhiều em học sinh bỏ học, trong khi khả năng ngân sách tỉnh có hạn. Đề nghị Chính phủ quan tâm chỉ đạo, tăng cường chính sách hỗ trợ, nhằm bảo đảm phát triển giáo dục miền núi.

Trả lời:

a. Về mô hình trường ba bậc học (Trung học phổ thông, Trung học cơ sở, Tiểu học) lớp ghép vẫn tồn tại các huyện miền núi:

Tại Khoản 6, Điều 19, Nghị định 75/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật giáo dục có nêu: a) ... Mỗi xã, hoặc cụm xã có ít nhất một trường trung học cơ sở, có thể có trường phổ thông có nhiều cấp học (tiểu học, trung học cơ sở) và b) Mỗi quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có ít nhất một trường phổ thông; có một trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện; có thể có trường phổ thông có nhiều cấp học....

Điều 14, Điều lệ trường Tiểu học, ban hành kèm theo Quyết định số 51/2007/QĐ-BGDĐT ngày 31/8/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo tại quy định ở những địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn có thể tổ chức lớp ghép.

Loại hình trường phổ thông có nhiều cấp học và lớp ghép đang là một thực tế tồn tại khách quan tại nhiều tỉnh miền núi, hiện chưa thể xoá bỏ được. Việc cho phép thành lập loại hình trường phổ thông có nhiều cấp học và tổ chức lớp ghép nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh những vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được đi học.



b. Việc đầu tư xây dựng nhà công vụ cho giáo viên, phòng thí nghiệm

- Về nhà công vụ cho giáo viên: Ngày 01/02/2008 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 20/2008/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án kiên cố hoá trường, lớp học và nhà ở công vụ cho giáo viên giai đoạn 2008-2012, theo đó, sẽ xây dựng 1,6 triệu m2 với số vốn đầu tư khoảng 2.800 tỷ đồng. Hiện nay, Đề án đang được triển khai đồng bộ trong tất cả các địa phương theo danh mục đã được Chính phủ phê duyệt.

Bên cạnh việc triển khai Đề án nói trên, Dự án Phát triển Giáo dục Trung học cơ sở giai đoạn II (2005-2011) đã có kế hoạch đầu tư xây dựng 362 phòng ở cho giáo viên của 137 trường trung học cơ sở ở những vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, với tổng kinh phí khoảng 37 tỷ đồng. Đến nay, sau hơn 2 năm thực hiện kế hoạch đã có 150 phòng ở cho giáo viên, 212 phòng đang được triển khai xây dựng. Cuộc vận động “Hỗ trợ giáo dục miền núi, vùng sâu, vùng xa” do Bộ Giáo dục và Đào tạo và Công đoàn giáo dục Việt Nam phát động với mục tiêu chính là xây dựng nhà ở công vụ cho giáo viên, số tiền đã huy động được là 124,24 tỷ đồng và đã xây mới 1.270 nhà ở công vụ, hơn 3 vạn giáo viên đã có nhà ở mới. Ngoài các nguồn ngân sách Nhà nước cấp cho địa phương, còn có sự hỗ trợ của các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, nhà hảo tâm trong và ngoài nước, để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học, trong đó có nhà ở công vụ cho giáo viên.



- Về phòng thí nghiệm, phòng học bộ môn: Trong những năm qua, ngoài ngân sách Nhà nước thực hiện thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo còn có một số dự án vốn vay ưu đãi của Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á, viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước như: Nhật Bản, Bỉ, Canada, Đan Mạch … nhằm đầu tư cơ sở vật chất như phòng thí nghiệm, phòng học bộ môn tại các cơ sở giáo dục phổ thông trên toàn quốc. Cụ thể như sau:

+ Dự án Phát triển Giáo dục Trung học cơ sở giai đoạn II (2005-2011): Dự án sẽ đầu tư xây dựng 273 phòng thí nghiệm, phòng học bộ môn của 252 trường trung học cơ sở thuộc 28 tỉnh với tổng kinh phí đầu tư khoảng 74 tỷ đồng. Đến nay, qua hơn 2 năm thực hiện, đã có 110 phòng học bộ môn, phòng thí nghiệm đã hoàn thành xây dựng và đưa vào sử dụng, còn lại 163 phòng đang được triển khai xây dựng.

+ Dự án Phát triển Giáo dục trung học phổ thông (2003-2009): Dự án sẽ đầu tư xây dựng phòng thí nghiệm, phòng học bộ môn của 168 trường trung học phổ thông thuộc 22 tỉnh thuộc vùng khó khăn với tổng kinh phí đầu tư khoảng 87 tỷ đồng. Đến nay, qua hơn 4 năm thực hiện đã có 231 phòng học bộ môn thí nghiệm đã hoàn thành xây dựng và đưa vào sử dụng, còn lại 90 phòng đang được triển khai xây dựng.

Ngoài nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp cho địa phương và các Dự án nêu trên, nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước đã huy động sự hỗ trợ của các tổ chức xã hội, doanh nghiệp trong và ngoài nước, các nhà hảo tâm để đầu tư xây dựng phòng thí nghiệm, phòng học bộ môn trong các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông như: Hà Nội, Hải Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu...



c. Chế độ phụ cấp, trợ cấp cho học sinh dân tộc thiểu số tại các trường nội trú, bán trú:

Đối với học sinh là người dân tộc thiểu số đang học trong các trường phổ thông dân tộc nội trú, được Nhà nước bao cấp về nhà ở, miễn học phí và được nhận học bổng chính sách bằng 80% mức lương tối thiểu (Thông tư Liên tịch số 23/2008/TTLT/BGDĐT-BLĐTBXH-BTC ngày 28/4/2008). Với những học sinh này, Nhà nước đã có sự quan tâm kịp thời và tạo điều kiện cần thiết nhất để các em có thể theo học. Tuy nhiên, trong điều kiện giá cả tăng cao như hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo mong muốn các địa phương và gia đình học sinh cùng chia sẻ và hỗ trợ để các em có điều kiện theo học.

Đối với học sinh là người dân tộc thiểu số đang theo học tại các trường bán trú và học sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số đang học hệ chính quy, tập trung tại các trường đào tạo công lập, hiện đang được hưởng trợ cấp với mức là 140.000 đồng/người/tháng (Quyết định số 112/2007/QĐ-TTg ngày 20/7/2007 của Thủ tướng Chính phủ). Hiện nay, trước sự biến động của giá cả trên thị trường thì mức trợ cấp xã hội đối với học sinh, sinh viên như trên là quá thấp. Trước tình hình này, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có văn bản đề nghị Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội chủ trì soạn thảo văn bản trình Chính phủ về việc điều chỉnh, nâng mức trợ cấp xã hội, mở rộng phạm vi điều chỉnh đối với người học hệ giáo dục chính quy, tập trung trong các trường đào tạo ngoài công lập. Trên cơ sở đó, Liên Bộ: Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội có hướng dẫn cụ thể các địa phương, các trường để thực hiện kịp thời.

d. Việc tăng cường chính sách hỗ trợ, nhằm bảo đảm phát triển giáo dục miền núi

Đảng và Nhà nước luôn quan tâm và có chính sách ưu tiên đối với vùng miền núi, vùng khó khăn và đặc biệt quan tâm tới vùng dân tộc thiểu số. Mức chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước cấp cho giáo dục miền núi, vùng cao, hải đảo là mức cao nhất so với các khu vực khác. Ngoài ra, Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ học sinh ở các khu vực miền núi, vùng khó khăn như: miễn, giảm học phí, hỗ trợ học phẩm, cấp phát và cho mượn sách giáo khoa miễn phí...Đối với ngành giáo dục đào tạo, còn thực hiện Dự án Hỗ trợ giáo dục miền núi, vùng dân tộc ít người và vùng có nhiều khó khăn (trong khuôn khổ Chương trình mục tiêu quốc gia đến năm 2010) và ưu tiên thực hiện nhiều dự án bằng các nguồn vốn Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) như: Dự án xây dựng các trường Tiểu học miền núi phía Bắc (ODA Nhật bản); Dự án giáo dục tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn (Vốn vay ngân hàng thế giới); Dự án phát triển giáo dục trung học phổ thông vùng khó khăn nhất (Vốn vay ngân hàng phát triển Châu Á), Viện trợ của UNICEF...nhằm tăng cường cơ sở vật chất trường, lớp học, tạo điều kiện cho học sinh miền núi, vùng dân tộc, vùng khó khăn được đến trường. Các dự án này cùng với nguồn kinh phí xây dựng cơ bản tập trung, trong những năm qua đã cải thiện đáng kể cơ sở vật chất trường học khu vực miền núi, đặc biệt là xây dựng được hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú cấp tỉnh và cấp huyện, tạo điều kiện cho con em người dân tộc thiểu số có chỗ học tập và sinh hoạt.

Mặc dù đã được quan tâm đầu tư, nhưng giáo dục ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều khó khăn như: Qui mô trường phổ thông dân tộc nội trú còn chưa đáp ứng được nhu cầu học tập của học sinh; Mức học bổng cho học sinh dân tộc thiểu số còn thấp; Chưa có chế độ hỗ trợ thống nhất đối với học sinh nội trú dân nuôi; Chế độ đãi ngộ đối với giáo viên công tác tại miền núi, vùng dân tộc còn chưa thoả đáng...

Để giải quyết những khó khăn trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đổi mới cơ chế tài chính giáo dục đào tạo, trong đó đề xuất cơ chế ưu tiên hỗ trợ ngân sách cho giáo dục phổ cập, ban hành chính sách tiếp tục hỗ trợ học sinh, nhất là học sinh miền núi, vùng đồng bào dân tộc, vùng có nhiều khó khăn, giúp học sinh được thụ hưởng giáo dục với chất lượng ngày càng cao, tạo điều kiện đào tạo nguồn nhân lực cho địa phương.



6/ Cử tri các tỉnh Vĩnh Long và Phú Yên kiến nghị: Bộ Giáo dục và Đào tạo quan tâm đến chế độ lương của cán bộ gián tiếp trong ngành giáo dục, nhất là những người làm công tác quản lý ở Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT vì lương của họ thấp hơn lương của giáo viên khi đứng lớp trực tiếp giảng dạy. Như vậy, nếu điều động thì phần nào ảnh hưởng cuộc sống, từ đó kéo theo ảnh hưởng đến công tác tổ chức, nhân sự của ngành. Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo sớm có chính sách điều chỉnh điểm bất hợp lý này.

Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn số: 1588

tải về 4.74 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   67




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương