BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị



tải về 4.74 Mb.
trang14/67
Chuyển đổi dữ liệu18.07.2016
Kích4.74 Mb.
#1917
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   67

Trả lời:

Theo quy định hiện hành của Nhà nước, cán bộ, viên chức đang công tác tại các đơn vị sự nghiệp (đang hưởng lương ngạch viên chức) được điều động về công tác tại các cơ quan hành chính Nhà nước đều phải chuyển xếp lại lương theo bảng lương các ngạch công chức để đảm bảo tương quan tiền lương chung của cán bộ, công chức làm việc ở các cơ quan hành chính Nhà nước trên phạm vi toàn quốc.

Tuy nhiên, quy định nói trên của Nhà nước đã tạo ra bất cập lớn ở trong ngành liên quan đến việc điều động cán bộ quản lý, giáo viên ở các trường về công tác ở các Phòng GD&ĐT, Sở GD&ĐT và Bộ GD&ĐT (gọi chung là cơ quan quản lý giáo dục các cấp), cũng như đối với cán bộ viên chức do yêu cầu, nhiệm vụ không trực tiếp giảng dạy, chuyển sang công tác ở các bộ phận gián tiếp như ý kiến quan tâm của cử tri. Cụ thể:

- Cán bộ quản lý, giáo viên giỏi, có nhiều kinh nghiệm công tác, được cấp có thẩm quyền điều động về công tác tại cơ quan quản lý giáo dục các cấp, thì thu nhập thực tế bị giảm đáng kể. Ví dụ: Một giáo viên giỏi trường THPT chuyên có 16 năm công tác, đang hưởng hệ số lương bậc 5, hệ số 3,66, nếu dạy ở trường được hưởng lương: 3,66 x 540.000đ = 1.976.400đ (1), tiền phụ cấp ưu đãi: 3,66 x 540.000đ x 70% = 1.383.480đ (2). Tổng: 1.976.400đ + 1.383.480đ = 3.359.880đ/ tháng; khi được điều về làm chuyên viên ở các cơ quan quản lý giáo dục, do không còn được hưởng phụ cấp ưu đãi nên thu nhập thực tế bị giảm 1.383.480đ/ tháng. Đối với cán bộ quản lý giáo dục các trường, ngoài việc không được hưởng phụ cấp ưu đãi, còn không được hưởng phụ cấp chức vụ lãnh đạo, nên thu nhập thực tế trên một tháng giảm tương đương số tiền lương được hưởng/tháng.

- Do tình hình thu nhập giảm đáng kể nói trên nên hầu hết cán bộ, giáo viên trẻ và giỏi không muốn về các cơ quan quản lý giáo dục các cấp công tác, dẫn tới cơ quan này hạn chế trong việc tuyển người giỏi, có trình độ về công tác và bị động về công tác; cán bộ, giáo viên đã được điều về công tác tại cơ quan quản lý giáo dục các cấp cũng chưa thực sự yên tâm công tác.

Trước tình hình trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều văn bản báo cáo, đề xuất với Chính phủ về giải pháp khắc phục. Tại phiên họp Quốc hội cuối năm 2006, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã báo cáo về tình hình đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục với Quốc hội cũng đã nêu thực trạng này và đề xuất Quốc hội cho phép ngành Giáo dục và Đào tạo được thực hiện trở lại chế độ phụ cấp thâm niên giáo dục đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.



7/ Cử tri tỉnh Ninh Bình kiến nghị: Xem xét việc hướng dẫn chuyển ngạch đối với giáo viên Trung học phổ thông (ngạch 15.113) không thuộc đối tượng được tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng sang ngạch giáo viên Trung học phổ thông cao cấp (ngạch 15.112).

Trả lời:

Theo Thông báo kết luận của Bộ trưởng Bộ Nội vụ tại cuộc họp giữa lãnh đạo Bộ Nội vụ và Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 16/3/2006 về những đề nghị của Bộ Giáo dục và Đào tạo về tiền lương và việc xét nâng ngạch, Bộ Nội vụ có ý kiến như sau: “Đồng ý cho Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục xét bổ nhiệm vào ngạch giáo viên trung học cao cấp năm 2006 và từ năm 2007 trở đi Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức thi theo quy định”.

Hiện nay, Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo đang xây dựng và hoàn thiện văn bản quy định về nội dung và hình thức thi nâng ngạch để trình Bộ trưởng ký ban hành.

8/ Cử tri tỉnh Lạng Sơn kiến nghị: Hiện nay, trường mầm non bán công chỉ được hai biên chế Nhà nước là Hiệu trưởng và Phó hiệu trưởng. Các giáo viên khác đều thuộc diện ngoài biên chế; mặt khác, mỗi địa phương lại có những quy định khác nhau về mức phụ cấp lương cho giáo viên mầm non ngoài biên chế, dẫn đến thiếu thống nhất và không bình đẳng. Đề nghị Nhà nước có chính sách phù hợp hơn đối với đội ngũ giáo viên mầm non.

Trả lời:

Do điều kiện ngân sách giáo dục còn hạn hẹp, mặc dù Chính phủ đã dành 20% tổng chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục nhưng hiện nay cả nước mới chỉ đang tập trung thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Năm học 2007 - 2008 với tỉ lệ học sinh học ở trường công lập cấp tiểu học là 99,42%, cấp trung học cơ sở là 98,83%; chi phí cho hai cấp học này đã chiếm khoảng 52,1% ngân sách toàn ngành giáo dục. Số còn lại được chia ra gồm: khối trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học chiếm khoảng 15,15%; trung học phổ thông chiếm khoảng 11,5%; giáo dục mầm non chiếm khoảng 7,35%; giáo dục đào tạo khác khoảng 13,9%. Do ngân sách dành cho mầm non còn ít như vậy nên hiện nay cơ sở giáo dục mầm non công lập chỉ đáp ứng một phần nhu cầu học tập của con em nhân dân. Năm học 2007 - 2008 có 25,81% trẻ dưới 3 tuổi và 47,39% trẻ 3 đến 5 tuổi học ở các cơ sở giáo dục mầm non công lập.

Để tạo điều kiện cho trẻ 5 tuổi được học mẫu giáo trước khi vào tiểu học, Chính phủ đã quyết định không chuyển các trường mầm non bán công ở vùng khó khăn thành trường tư thục mà chuyển thành trường công lập. Ở các trường này, các cô giáo được hưởng mọi chính sách của nhà nước. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quyết định xây dựng chương trình giáo dục phổ cập một năm trẻ 5 tuổi để đảm bảo hầu hết trẻ 5 tuổi đều được chăm sóc giáo dục trong các cơ sở giáo dục. Ở vùng khó khăn, trẻ đi học miễn phí.

Ở các trường tư thục, việc trả lương theo thỏa thuận giữa chủ các cơ sở giáo dục với giáo viên, căn cứ vào mức thu học phí của trường, do trường tự quyết định. Lương giáo viên mầm non công lập phụ thuộc chủ yếu vào trình độ đào tạo. Ngoài việc trả lương giáo viên mầm non ở các trường công lập theo quy định của Nhà nước, các địa phương cần có sự quan tâm và tạo điều kiện về ngân sách để chi hỗ trợ thêm thu nhập cho giáo viên.



9/ Cử tri tỉnh Đồng Nai kiến nghị: Tăng chế độ chính sách đối với giáo viên các cấp học hiện nay về tiền thưởng lễ tết, lương khoán; Bổ sung cán bộ chuyên trách về công tác phổ cập giáo dục ở cơ sở (hiện nay chỉ 01 giáo viên chuyên trách phải thực hiện 03 cấp học); Có chế độ phụ cấp ưu đãi đối với giáo viên chuyển sang làm công tác quản lý ở các phòng giáo dục cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Có giải pháp và lộ trình cải cách tiền lương cụ thể hơn đối với giáo viên các cấp học đến năm 2010 (giáo viên đủ sống bằng lương theo chiến lược cải cách giáo dục của Chính phủ).

Trả lời:

Những đề nghị của cử tri về chế độ phụ cấp ưu đãi cho giáo viên chuyển sang làm công tác quản lý ở các phòng giáo dục và đào tạo; tăng chế độ chính sách cho giáo viên các cấp học... Bộ Giáo dục và Đào tạo xin ghi nhận để đề xuất với Chính phủ.



10/ Cử tri các tỉnh Ninh Thuận, Bắc Ninh, Sóc Trăng, Cần Thơ, An Giang, Hà Nội, Hưng Yên, Cà Mau, Quảng Bình, Bình Định, TP. Hồ Chí Minh, Hải Dương và Quảng Ninh kiến nghị: Chương trình học của học sinh hiện nay chưa phù hợp và quá nặng, học sinh không tiếp thu kịp, đặc biệt là cấp tiểu học, khiến cho các em ít có thời gian tham gia vào các hoạt động vui chơi giải trí, ảnh hưởng đến việc phát triển tư duy nhận thức của các em. Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu xây dựng chương trình sách giáo khoa phù hợp với từng bậc học.

Trả lời:

Ngày 18/5/2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức đánh giá chương trình, sách giáo khoa ở tất cả các môn học, tất cả các cấp học với sự tham gia của giáo viên, cán bộ quản lí giáo dục các tỉnh, thành phố và một số tổ chức đánh giá độc lập như Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam, Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam. Tổng hợp các ý kiến đánh giá cho thấy: Chương trình và sách giáo khoa đã bám sát mục tiêu giáo dục quy định tại Luật giáo dục, thể hiện được quan điểm, đường lối giáo dục của Đảng, Nhà nước trong Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII, Nghị quyết 40/2000/QH10 của Quốc hội khoá X về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, Chỉ thị số 14/2001/CT-TTg ngày 11/6/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Nội dung và yêu cầu của chương trình, sách giáo khoa nhìn chung là phù hợp với trình độ phát triển tâm, sinh lí của học sinh. Tuy vậy, chương trình, sách giáo khoa của một số môn học còn có những nội dung chưa phù hợp, còn nặng, nhất là với học sinh ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Nhằm giảm mức độ "quá tải" và nâng cao hiệu quả của chương trình và sách giáo khoa phổ thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo thực hiện các hoạt động sau đây: Tinh giản những nội dung trùng lặp hoặc chưa thực sự cần thiết, chưa phù hợp với trình độ phát triển của học sinh; Tổ chức hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình cụ thể hơn để giúp giáo viên dạy đúng trọng tâm, tránh gây nặng nề quá tải, đồng thời giúp giáo viên, dạy học linh hoạt phù hợp với đối tượng học sinh; Điều chỉnh lại kế hoạch dạy học, rút bớt thời lượng học tập ở mỗi tuần, đảm bảo tối đa ở Tiểu học là 25 tiết/tuần, THCS là 28 tiết/tuần và THPT là 29 tiết/tuần. Đồng thời, Bộ Giáo dục và Đào tạo bắt đầu nghiên cứu để xây dựng một chương trình giáo dục phổ thông mới từ sau năm 2010. Chương trình giáo dục phổ thông sẽ được đổi mới một cách cơ bản theo hướng tích hợp các môn học, tạo cơ hội lựa chọn nội dung học tập nhiều hơn, đáp ứng tốt hơn nguyện vọng, nhu cầu phát triển năng lực của học sinh và yêu cầu của xã hội; dựa trên chuẩn chương trình quốc gia bộ sẽ có hướng dẫn thực hiện phù hợp với các vùng, miền khác nhau.

11/ Cử tri tỉnh Hải Dương kiến nghị: Sách giáo khoa môn Lịch sử lớp 8 còn in sai về một số biểu đồ. Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo cho kiểm tra lại.

Trả lời:

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã yêu cầu tác giả sách giáo khoa Lịch sử lớp 8 nghiêm túc rà soát lại toàn bộ các hình đã in trong sách giáo khoa Lịch sử lớp 8 (vì ý kiến góp ý không cụ thể hình nào sai). Kết quả là trong sách giáo khoa Lịch sử lớp 8 không có biểu đồ nào mà chỉ có một số lược đồ lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam. Các lược đồ này chỉ là lược đồ diễn tả một sự kiện hay tình hình lịch sử trong một không gian, thời gian nhất định... Vì thế, mức độ biểu hiện không yêu cầu chính xác tuyệt đối như đối với bản đồ trong sách giáo khoa Địa lí.



12/ Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Nên xã hội hoá việc biên soạn và xuất bản sách giáo khoa theo hướng mọi công dân đều có quyền tham gia biên soạn sách giáo khoa, và mọi nhà xuất bản hợp pháp ở Việt Nam đều có quyền xuất bản sách giáo khoa trên cơ sở đảm bảo các nguyên tắc:

a) Quy trình biên soạn sách giáo khoa hiện nay của chúng ta đang làm ngược, đáng lý ra phải xây dựng chuẩn kiến thức trước sau đó mới xây dựng chương trình viết sách giáo khoa.

b) Chỉ được in ấn, xuất bản phát hành sách giáo khoa sau khi bản thảo sách giáo khoa đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo thẩm định công nhận.

c) Chi phí, lỗ lãi trong khâu xuất bản, tiêu thụ sách giáo khoa do nhà xuất bản tự chịu trách nhiệm.

Trả lời:

Việc xây dựng chương trình của các bậc học ở phổ thông được tiến hành theo quy trình sau: Xây dựng mục tiêu của cấp học (Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông); Xây dựng kế hoạch giáo dục của cấp học (các môn học, thời lượng dành cho mỗi môn học ...); Xây dựng chương trình môn học bao gồm xác định mục tiêu môn học, xác định nội dung và mức độ ở từng bậc học, từng lớp học và hướng dẫn về phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập của học sinh; Biên soạn sách giáo khoa môn học.

Trên cơ sở đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các đơn vị chức năng của Bộ đề xuất danh sách tác giả sách giáo khoa (gồm các nhà giáo, các nhà sư phạm, nhà khoa học, giáo viên giỏi) để Bộ xem xét quyết định và giao nhiệm vụ biên soạn sách giáo khoa đảm bảo đúng chương trình đã ban hành với một quy trình chặt chẽ, sau đó Bộ tổ chức thẩm định bản thảo sách giáo khoa để đưa dạy thí điểm ở một số trường đại diện theo các vùng, miền. Sau khi dạy thí điểm, sách giáo khoa tiếp tục được chỉnh lí, hoàn thiện trình Hội đồng thẩm định quốc gia để thẩm định và duyệt cho xuất bản và sử dụng thống nhất ở tất cả các trường trong toàn quốc.

Năm 2003, trên cơ sở chương trình các cấp học: Chương trình tiểu học, Chương trình trung học cơ sở đã ban hành năm 2001 và 2002, Chương trình trung học phổ thông thí điểm ban hành năm 2003, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tiến hành hoàn thiện chương trình (bao gồm cả chuẩn kiến thức, kĩ năng) với mục đích đảm bảo sự kết nối và tính liên thông của mỗi môn học trong hệ thống giáo dục phổ thông.

Ngày 05/5/2006, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về Chương trình giáo dục phổ thông trong đó có chương trình của tất cả các môn học từ lớp 1 đến lớp 12, với đầy đủ nội dung về chuẩn kiến thức, kĩ năng, các yêu cầu về mức độ cần đạt về đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra, đánh giá...

Bộ Giáo dục và Đào tạo giao nhiệm vụ cho Nhà xuất bản Giáo dục tổ chức biên tập, in, phát hành sách giáo khoa đảm bảo cung ứng đầy đủ, đồng bộ và kịp thời cho học sinh, giáo viên ở tất cả các vùng miền trên toàn quốc, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo.

Là một doanh nghiệp Nhà nước, Nhà xuất bản Giáo dục tự chịu trách nhiệm thực hiện mọi chi phí trong khâu xuất bản, phát hành sách giáo khoa, Nhà nước không bù lỗ trong hoạt động này.

Về xã hội hoá trong việc xuất bản sách giáo khoa theo hướng mọi công dân đều có quyền tham gia biên soạn sách giáo khoa và mọi nhà xuất bản ở Việt Nam đều có quyền xuất bản sách giáo khoa như cử tri đề nghị, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang nghiên cứu để trình Quốc hội và Chính phủ một lộ trình thực hiện trong thời gian tới sau khi đã hoàn thành việc thay sách giáo khoa mới từ lớp 1 đến lớp 12 theo Nghị quyết 40/2000/QH10 của Quốc hội khóa X.

Để thực hiện việc này, trước hết phải sửa lại một số điểm trong Luật giáo dục, cụ thể là cho phép biên soạn nhiều bộ sách giáo khoa đối với mỗi chương trình, các bộ sách giáo khoa này do các tác giả, tập thể tác giả biên soạn với yêu cầu đảm bảo các tiêu chuẩn về chất lượng sách giáo khoa do Bộ quy định. Sau đó, Bộ sẽ tổ chức thẩm định để lựa chọn các bộ sách giáo khoa tốt được phép sử dụng trong các trường. Việc in, xuất bản, phát hành sách giáo khoa sẽ thực hiện theo đúng quy định của Luật xuất bản và phải đạt được mục tiêu cung ứng đầy đủ, kịp thời và đồng bộ sách giáo khoa cho học sinh, giáo viên ở mọi vùng miền trong cả nước và phải đảm bảo sách giáo khoa có giá bản lẻ hợp lí.

13/ Cử tri tỉnh Quảng Bình kiến nghị: Bộ Giáo dục và Đào tạo xem xét việc đầu tư để đưa chương trình tin học vào lớp 6 thì cần phải đầu tư để đào tạo giáo viên và hỗ trợ về cơ sở vật chất chứ không nên buộc học sinh đóng góp tiền để thuê giáo viên như hiện nay.

Trả lời:

a. Về vấn đề đầu tư để đào tạo giáo viên giảng dạy môn Tin học

Thực hiện Quyết định số 81/2001/QĐ-TTg ngày 24/5/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình hành động triển khai Chỉ thị số 58-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn 2001-2005, ngày 30/7/2001, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra Chỉ thị số 28/2001/CT-BGDĐT về việc tăng cường đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong Ngành Giáo dục và Đào tạo.

Từ nhiều năm nay, nhận thức được tầm quan trọng của Công nghệ thông tin trong công cuộc phát triển khoa học - công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có các chủ trương phát triển việc dạy - học tin học ở các cấp học, trong đó có trung học cơ sở. Môn Tin học ở THCS là môn tự chọn, chỉ triển khai ở nơi có điều kiện.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với các bộ, ngành có liên quan xây dựng Dự án “Đào tạo cán bộ tin học, đưa tin học vào nhà trường” thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo đến năm 2010 (đã được phê duyệt tại Quyết định số 07/2008/QĐ-TTg ngày 10/01/2008 của Thủ tướng Chính phủ) với mục tiêu: “Thực hiện chương trình đào tạo nhân lực công nghệ thông tin, ưu tiên đào tạo nhân lực phục vụ phát triển công nghiệp phần mềm, đẩy mạnh giảng dạy, ứng dụng công nghệ thông tin ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học. Đầu tư cho một số khoa công nghệ thông tin thuộc các trường đầu ngành để đạt chất lượng đào tạo tiên tiến trong khu vực. Tăng cường phòng máy tính, nối mạng Internet, tuyển chọn phần mềm giáo dục phục vụ ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học các môn học trong các cơ sở giáo dục đào tạo”.

Trong Công văn số 5690/BGD&ĐT-KHTC ngày 04/7/2006 của Bộ Giáo dục và Đào tạo “Về việc hướng dẫn thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo giai đoạn 2006 – 2010” đã ghi rõ nội dung chi Dự án đào tạo cán bộ tin học và đưa tin học vào nhà trường là: “ ... chuẩn hoá, cập nhật chương trình cho các chuyên ngành đào tạo thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin trong đó ưu tiên ngành công nghệ phần mềm ... bồi dưỡng nghiệp vụ cho giảng viên của các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và giáo viên dạy tin học trong trường phổ thông ...”.

Từ nhiều năm nay, các trường cao đẳng sư phạm tại các địa phương đều đã mở hệ Toán – Tin học hoặc Tin học – Công nghệ đào tạo giáo viên phục vụ việc giảng dạy tin học trong các trường trung học cơ sở; theo đó, cơ bản đã đáp ứng đủ số lượng giáo viên dạy Tin học trong các trường trung học cơ sở. Tuy nhiên, việc triển khai dạy tin học trong trường trung học cơ sở còn một số khó khăn sau:

- Cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy công nghệ thông tin: Hiện nay, hầu hết các địa phương mới chỉ có điều kiện tập trung đầu tư hệ thống máy tính cho trung học phổ thông; ở trung học cơ sở, trừ một số tỉnh được hưởng lợi từ các Dự án về giáo dục (như Dự án Việt-Bỉ, Dự án Phát triển giáo dục trung học cơ sở) đã được trang bị một số ít máy tính và nối mạng Internet, chủ yếu các trường vẫn phải thuê máy tính; học sinh học môn Tin học như là một môn học tự chọn và phải đóng tiền học phí.

- Giáo viên dạy 2 môn, thường dạy Toán (là môn chính) trong khi điều kiện dạy môn Tin học còn nhiều thiếu thốn.

- Những người có chuyên môn Tin học khá - giỏi thường ra làm cho các cơ sở tin học hoặc phụ trách tin học cho các doanh nghiệp - có thu nhập cao hơn.

Hè 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức bồi dưỡng giáo viên triển khai dạy học Tin học dưới hình thức môn học tự chọn ở trường trung học cơ sở theo 2 cấp độ: bồi dưỡng giáo viên cốt cán trung học cơ sở của các sở giáo dục và đào tạo (do báo cáo viên cấp Bộ đảm nhiệm) và tổ chức bồi dưỡng giáo viên trung học cơ sở (do báo cáo viên là cốt cán của các sở giáo dục và đào tạo đảm nhiệm).

Thực hiện Nghị quyết số 08/NQ-BCSĐ ngày 04/4/2007 của Ban Cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo, ngày 25/4/2007 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quyết định số 2061/QĐ-BGDĐT về việc thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình phát triển ngành sư phạm và các trường sư phạm từ năm 2007 đến năm 2015. Các chương trình hành động đã được triển khai và tạo những chuyển biến tích cực cho các trường sư phạm. Mạng lưới các trường, các khoa sư phạm đang dần được hoàn chỉnh; cơ sở vật chất cho các trường sư phạm được tăng cường; công tác tuyển sinh của các trường sư phạm được đổi mới. Bộ Giáo dục và Đào tạo đặc biệt quan tâm tới công tác đào tạo, bồi dưỡng giảng viên cho các trường sư phạm. Trong Đề án đào tạo 20.000 tiến sĩ, đối tượng được quan tâm hàng đầu là giảng viên các trường sư phạm. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã giao nhiệm vụ nghiên cứu tổng thể về đổi mới phương pháp dạy học (trong đó có giảng dạy tin học) ở các trường sư phạm cho Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam thực hiện. Thời gian tới, nhiều chương trình bồi dưỡng về kỹ năng dạy học theo tiêu chuẩn quốc tế sẽ được thực hiện với đội ngũ giảng viên các trường sư phạm, trong đó có dạy học môn Tin học”.

b. Việc đầu tư cơ sở vật chất để đưa chương trình tin học vào nhà trường nói chung và chương trình tin học lớp 6 nói riêng đã được Chính phủ phê duyệt thông qua Dự án đào tạo cán bộ tin học, đưa tin học vào nhà trường. Dự án đã được triển khai qua hai giai đoạn: giai đoạn I từ năm 2002 đến năm 2005 và giai đoạn II từ năm 2006 đến năm 2010. Nội dung đầu tư của Dự án giai đoạn II cụ thể như sau:

- Đào tạo cán bộ tin học với các nội dung: Chuẩn hoá, cập nhật chương trình cho các chuyên ngành đào tạo thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin trong đó ưu tiên ngành công nghệ phần mềm; Bồi dưỡng nghiệp vụ cho giảng viên của các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và giáo viên dạy tin học trong các trường phổ thông; Hỗ trợ tăng cường cơ sở vật chất: Mua sắm máy vi tính, thiết bị trình chiếu, phần mềm, tài liệu để phục vụ đào tạo, bồi dưỡng công nghệ thông tin.

- Đưa tin học vào nhà trường: Hỗ trợ kết nối Internet cho các trường phổ thông; Hỗ trợ mua sắm trang thiết bị phòng học đa phương tiện; Mua sắm trang thiết bị, phần mềm, tài liệu để phục vụ giảng dạy và học tập công nghệ thông tin trong nhà trường.

Trong những năm qua, đầu tư từ ngân sách Trung ương cho các địa phương thông qua Dự án trên không ngừng tăng lên: Năm 2006 là 58 tỷ đồng; năm 2007 là 120 tỷ đồng; năm 2008 là 133 tỷ đồng. Trong đó, phần đầu tư cho trang bị cơ sở vật chất chiếm tỷ trọng lớn.

Ngoài kinh phí do ngân sách Trung ương cấp, còn có kinh phí do các Bộ, ngành, các địa phương bổ sung và huy động; kinh phí đóng góp tự nguyện của các cá nhân, các tổ chức kinh tế - xã hội trong và ngoài nước.



14/ Cử tri tỉnh Ninh Thuận kiến nghị: Bộ Giáo dục và Đào tạo cần nghiên cứu, sớm đưa môn tiếng Anh vào giảng dạy chính thức ở các lớp cuối cấp tiểu học.

Trả lời:

Hiện nay, tiếng Anh đang được dạy và học với tư cách là môn học tự chọn ở trường tiểu học, từ lớp 3 đến lớp 5, theo chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Để giảng dạy chính thức một ngoại ngữ ở trường tiểu học cần có đủ các điều kiện cơ bản sau: cung cấp đầy đủ cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên ngoại ngữ được đào tạo chính quy có trình độ cao đẳng hoặc đại học; đảm bảo có đủ lượng thời gian thích hợp để dạy học theo yêu cầu của chương trình ngoại ngữ; đảm bảo học sinh được học liên tục theo chương trình ngoại ngữ từ tiểu học đến trung học phổ thông. Việc đưa tiếng Anh vào giảng dạy chính thức ở các lớp cuối cấp tiểu học sẽ được tính toán để thống nhất với các ngoại ngữ khác vì vấn đề dạy học ngoại ngữ liên quan đến hệ thống chương trình giáo dục phổ thông nói chung.

Trong thời gian qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tích cực xây dựng và hoàn thiện Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020” và hiện đang trình xin ý kiến Thủ tướng Chính phủ.

15/ Cử tri TP. Hồ Chí Minh kiến nghị: Chủ trương đẩy mạnh xã hội hoá ngành giáo dục là phù hợp nhưng cần quan tâm hàng đầu đến chất lượng dạy học. Cử tri bày tỏ băn khoăn trước việc cho phép mở nhiều trường Đại học và đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo kiểm tra kỹ về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên trước khi cấp phép mở trường Đại học.

Trả lời:

Bộ Giáo dục và Đào tạo hoàn toàn nhất trí với ý kiến của cử tri về việc cần quan tâm hàng đầu đến chất lượng giáo dục và cần kiểm tra kỹ về cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên trước khi cấp phép mở trường đại học.

Tuy vậy, về băn khoăn của cử tri, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng xin được giải trình thêm để cử tri được rõ:

Thực hiện Quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006 - 2020 theo Quyết định số 121/2007/QĐ-TTg ngày 27/7/2007 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao nhằm phấn đấu đến năm 2010 đạt tỷ lệ 200 sinh viên/1 vạn dân, năm 2015 đạt 300 sinh viên/1 vạn dân và đến năm 2020 đạt 450 sinh viên/1 vạn dân, việc thành lập các trường đại học, cao đẳng trong giai đoạn vừa qua và những năm tiếp theo là hết sức cần thiết, một mặt nhằm đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân, mặt khác nhằm đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế xã hội phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Theo thống kê, trong thời gian 5 năm, từ năm 2004 đến nay, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định thành lập 21 trường đại học, trong đó có 1 trường đại học công lập và 20 trường đại học tư thục.

Theo quy định hiện hành, quy trình thành lập trư­ờng đại học đ­ược thực hiện theo hai bước:

B­ước 1: Tổ chức, cá nhân xin thành lập trường xây dựng đề án thành lập trường theo Quy hoạch đã đ­ược Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và gửi về Bộ Giáo dục và Đào tạo. Bộ Giáo dục và Đào tạo xem xét, trình Thủ tướng xem xét, phê duyệt chủ tr­ương và cho phép lập đề án khả thi thành lập trường.

Sau khi có công văn đồng ý về chủ trương của Thủ tướng Chính phủ, chủ đề án xây dựng cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên và xây dựng đề án khả thi.

Bước 2: Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư­, Bộ Nội Vụ, Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan tổ chức thẩm định đề án; Nếu đề án đủ các điều kiện bảo đảm chất l­ượng đào tạo sẽ trình Thủ tướng xem xét, ra quyết định thành lập trường.

Quy trình trên, trong quá trình triển khai đã xuất hiện bất cập như sau: Công văn đồng ý về chủ trương thành lập trường của Thủ tướng Chính phủ chưa đủ cơ sở pháp lý để Uỷ ban nhân dân tỉnh cấp hoặc giao đất cho chủ đề án. Do vậy, chủ đề án gặp khó khăn khi mời giảng viên cơ hữu và không thể tiến hành việc xây dựng cơ sở vật chất của trường. Do không nhận được đất để xây dựng cơ sở vật chất nên trong giai đoạn đầu, các chủ đề án gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng cơ sở vật chất và đành phải thuê, mướn cơ sở vật chất.

Để khắc phục bất cập trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang trình Thủ tướng Chính phủ một số thay đổi trong quy trình thành lập trường theo hướng: Ra quyết định thành lập trường để chủ đề án có tư cách pháp nhân nhận đất để xây dựng trường và mời giảng viên cơ hữu. Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ cho phép mở ngành đào tạo và tuyển sinh khi chủ đề án chuẩn bị đầy đủ các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo. Theo quy trình trên thì Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ có cơ sở để yêu cầu chủ đề án chuẩn bị kỹ về cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên trước khi được cấp phép mở ngành đào tạo.

Vừa qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trình Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định thành lập một số trường đại học theo hướng trên. Đó là Trường Đại học Hòa Bình, Học viện chính sách và phát triển - các trường này tuy đã có quyết định thành lập nhưng chưa được mở ngành đào tạo và chưa được tuyển sinh.



16/ Cử tri các tỉnh Hải Dương, Hà Nam, Quảng Ninh, Hà Nội kiến nghị: Bộ Giáo dục và Đào tạo cần kiểm tra, xử lý tình trạng các trang thiết bị hỗ trợ cho giảng dạy và một số đồ dùng trong học tập ở các trường không được sử dụng đến, gây lãng phí rất lớn.

Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn số: 1588

tải về 4.74 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   67




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương