An Mai Đỗ O. Cist



tải về 0.63 Mb.
trang18/21
Chuyển đổi dữ liệu26.12.2017
Kích0.63 Mb.
#35092
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   21

11.LINH ĐẠO ĐỜI TU


Có thể nói, mỗi thánh lập dòng đều có linh đạo riêng nhằm hướng dẫn đời sống của các môn sinh, con cái mình. Suy rộng ra, mỗi thánh đều có linh đạo riêng, nghĩa là có một con đường tâm linh riêng để đạt đến chính Chúa. Một cách phổ quát hơn, đời sống mỗi người làm nên một linh đạo độc đáo vì mỗi chúng ta là duy nhất. Tuy nhiên, lược lại hạnh tích các thánh và quan sát hành trình tâm linh của mỗi người, chúng ta vẫn nhận ra điểm rất chung là: tất cả đều họa lại cách nào đó gương mặt của Đức Kitô trong cuộc đời mình; nhờ việc theo sát Đức Kitô mà mỗi người sống đời thánh hiến nhắm đến.

11.1. Thuật ngữ


Linh ở đây, được qui về chiều kích thiêng liêng. Còn chữ Đạo lại được truyền thống Đông Phương đưa vào nền triết lý sâu xa. Theo Trung Hoa, Đạo được chiết tự từ hai bộ “Xược” và bộ “Thu”. Xược nghĩa là bước đi hay con đường. Thu là đầu hay là chính yếu. Như thế, linh đạo được hiểu là con đường thiêng liêng chính yếu giúp con người hướng thượng. Cũng theo truyền thống này đạo là con đường vĩnh cửu đưa đến bình an nội tâm và hài hòa với tha nhân. Ngoài ra, theo quan niệm của Lão Tử, Đạo còn nhắm đến Thực Tại Tối Linh.

Sau đó, chữ Đạo trong tiếng Trung Hoa được người Nhật Bản đổi thành Do, nghĩa là nghệ thuật như kyudo (nghệ thuật bắn cung), chado (nghệ thuật uống trà hay trà đạo). Đối với người Nhật, những nghệ thuật này không phải là những sở thích hay thú tiêu khiển đơn thuần. Chúng là những phương pháp rèn luyện tinh thần, không những có mục đích đem lại sự hài hòa nội tâm, mà còn có mục đích tập trung năng lực và hành động một cách thanh thản trong phút hiện tại. Chúng ta cũng thấy chữ Do trong các môn võ thuật tại Việt Nam như Judo hay Akido, những phương pháp rèn luyện thân thể này không chỉ là những phương pháp tự vệ mà còn là một con đường tâm linh toàn diện nhằm đạt đến sự hài hòa trong mọi tương quan. Do đó, để huấn luyện các môn nghệ thuật này, người Nhật không bắt đầu với những kỹ năng thực hành, mà bắt đầu với thiền định.(52)

Có thể nói, từ những quan niệm trên đều được kết tụ trong Kitô giáo và cụ thể nơi Chúa Giêsu. Thật vậy, Người đã công bố Tôi là con đường. Còn nói theo Đông Phương Tôi là Đạo. Người nói tiếp Tôi là sự thật và là sự sống. Như thế, Đạo ấy là Đạo Sống Thật. Đạo này sẽ dẫn đến đâu ? Người nói tiếp: Không ai có thể đến được với Cha mà không qua Tôi (x. Ga 14,6). Qua đó, Chúa Giêsu muốn mặc khải Chúa Cha là cùng đích của muôn loài, và Người là chiếc cầu nối giữa đôi bên. Như thế, Người trở thành linh đạo cho con người mọi thời muốn hướng về Chúa Cha. Nói cách khác, chúng ta phải qui về chính đời sống của Đức Kitô. Cũng vậy, lời mời gọi trở về nguồn để canh tân và thích nghi theo tinh thần cộng đồng Vatican II, nguồn ấy phải hiểu là chính Đức Kitô.

11.2.Tự hủy


Trong tông huấn Đời sống thánh hiến, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã giới thiệu viễn cảnh tốt đẹp tại núi Tabor, nơi Chúa Giêsu thực hiện cuộc biến hình. Có thể nói, cuộc hiển dung ấy là cùng đích của mọi kitô nhắm đến, cách riêng các tu sĩ được mời gọi sống chiều kích chiêm niệm ngay tại đời này khởi đi từ kinh nghiệm của các tông đồ.

Việc các ông đi xuống núi là một cuộc trở về với thực tại đời thường, nơi đó, các ông sẽ chứng kiến chính cái chết đau thương của Thầy mình. Viễn tượng ấy chính là niềm hy vọng cuối cùng cho niềm tin của các ông. Để rồi, chính các ông cũng sống lại chính kinh nghiệm đau thương của Chúa Giêsu trong cuộc đời mình.

Có thể nói, linh đạo tự hủy của Chúa Giêsu là nền tảng cho mọi linh đạo đời tu. Thật vậy, Thiên Chúa vốn giàu sang phú quí lại trở nên nghèo để lấy cái nghèo của mình mà làm cho chúng ta trở nên giàu có. Thiên Chúa đã trở nên nghèo trong việc mang lấy thân xác phàm nhân vốn yếu hèn tội lỗi. Để có thể, cùng vui với người vui, khóc với người khóc. Chúa Giêsu vì yêu thương nhân loại muốn cứu con người nên đã chọn cách đi xuống tận cùng thân phận con người để kéo con người lên. Không ai có thể cảm nhận sự kinh tởm của tội lỗi bằng Người. Không ai có thể cứu vớt con người khỏi tình trạng ấy ngoài Người. Đó là lý do khiến Người chọn con đường tự hủy, xuống trần gian cứu chuộc con người.

Truyện kể rằng có chàng thanh niên chẳng may sa xuống hố sâu bị thương, khóc kêu la thảm thiết, nhiều người nghe thấy đến chứng kiến cảnh tượng thương tâm này. Mọi người đều cảm thương chàng thanh niên nhưng không ai ra tay cứu giúp.

Khi ấy, một nhà toán học nói rằng: “Thật là may mắn cho anh ta, rơi xuống độ cao như thế mà còn sống sót”, rồi ông bỏ đi. Một bác sĩ đứng đó cũng lên tiếng: “Thật đáng thương, có lẽ anh ta mất nhiều máu lắm nhỉ ?”, rồi cũng bỏ đi. Một nhà đạo đức đứng đó, cũng thêm lời: “Chịu khổ đời này đi nhé, đời sau Chúa thưởng công !”, rồi cũng bỏ đi. Sau đó, một chàng thanh niên nhảy xuống, đỡ người ấy dậy, vác trên vai và tìm cách đưa người ấy lên trong sự thán phục của mọi người. Chàng thanh niên quảng đại ấy chính là Chúa Giêsu. Người đã hạ mình xuống để nâng loài người sa ngã lên. Tình yêu ấy còn được kéo dài và lớn mãi tới chân thập giá. Nơi đó, tình yêu của một Vị Thiên Chúa bị lột trần. Ấy là tột đỉnh của mầu nhiệm tự hủy mà mỗi tu sĩ hằng chiêm ngắm và sẽ kinh nghiệm nơi thân xác mình trong cuộc hiện sinh này.

Linh đạo tự hủy này chính là kinh nghiệm cuộc sống của Chúa Giêsu, thế nên, nó không được viết ra bằng chữ viết nhưng bằng giá máu châu báu của Người. Linh đạo này không đơn thuần là những chỉ dẫn trong đời sống tâm linh mà còn là không gian giúp tái tạo một cuộc gặp gỡ với Đấng yêu thương mình. Linh đạo trên giấy trắng mực đen một ngày sẽ lỗi thời nhưng hình ảnh một Con Người sống động sẽ không bao giờ phai mờ trong tâm trí chúng ta. Một cuộc gặp gỡ yêu thương như thế sẽ không khép lại ở hai người nhưng mở ra luôn mãi cho mọi tương giao khác. Vì đó là tiêu chuẩn đánh giá một nhân cách lành mạnh.

Làm cách nào giúp tu sĩ sống linh đạo Tự hủy này ?

Thiết nghĩ, một tư tưởng khả dĩ điều hướng đời sống của các tu sĩ là tôi phải nhỏ đi và Chúa phải lớn lên (x. Ga 3,30). Còn nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Suốt cuộc đời, các tu sĩ không làm gì khác là đi tìm ý Chúa thực hiện trong cuộc đời mình. Nói cách khác, họ sống và dấn thân cho vinh danh Chúa và mở rộng Nước Trời.

Phải chăng khi sống linh đạo này vị tu sĩ đánh mất bản thân ?

Chắc hẳn là không, nhưng ngược lại, họ tìm ra căn tính của mình trong Thiên Chúa. Mỗi tu sĩ vẫn tự do thể hiện bản thân từ những năng lực độc đáo của một nhân vị hầu giúp hình thành một nhân cách đời tu. Đồng thời, họ biểu dương sức năng động của ơn Chúa tác động trong cuộc sống họ. Và chỉ trong Chúa, họ mới đạt đến một nhân cách đời tu đích thực.




tải về 0.63 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   21




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương