An Mai Đỗ O. Cist



tải về 0.63 Mb.
trang17/21
Chuyển đổi dữ liệu26.12.2017
Kích0.63 Mb.
#35092
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   21

10.3.Tâm lý


Đời sống tâm lý khá phức tạp, gồm: ký ức, trí tưởng tưởng, cảm xúc…đã được bàn đến trong tác phẩm Đất bỗng hóa tâm hồn. Ở đây, chúng ta tìm hiểu thêm dưới nhãn quan nó được sống trong Chúa Thánh Thần. Tất nhiên, vai trò của Người như vị bảo trợ toàn bộ đời sống chúng ta. Người tác động từ bên trong như lời thánh Phaolô khẳng định: “Vì chính Thiên Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động của anh em do lòng yêu thương của Người”(Pl 2,13). Như thế, động lực thúc đẩy chúng ta sống tốt ở trần gian này là do lòng yêu thương của Người.

Nhưng thực tế cho thấy, khuynh hướng con người đi xuống do hậu quả của tội lỗi, một lần nữa Chúa Thánh Thần lại được ban cho ta nhằm tác động và khêu gợi lại “mầm thiện”, nghĩa là hướng con người về những thực tại Trời Cao. Thật vậy, Người tác động mọi suy nghĩ tích cực, điều hướng mọi cảm xúc lành mạnh và thúc đẩy mọi hành động thích hợp.

Để có những tư duy tích cực, chúng ta phải hợp tác với ơn Chúa mà tạo nên một hình ảnh tích cực về bản thân và tha nhân. Tự thân, lý trí con người hướng về Chân Lý. Mọi tư duy đều giúp con người hướng thượng. Nhưng thực tế, không phải lúc nào cũng dễ dàng tạo nên những hình ảnh đẹp. Thật vậy, những gì diễn ra trước mắt con người đôi khi là một thảm họa, chỉ có cặp mắt đức tin mới giúp con người hóa giải phần nào. Nếu không có đức tin thì những ngày lênh đênh trên biển, những cuộc đắm tàu suýt chết, đối với thánh Phaolô, quả là tai họa. Từ những kinh nghiệm đau thương ấy ngài lại ngộ ra một điều: Thiên Chúa vẫn hằng yêu thương do lượng từ bi của Người. Thiết tưởng, đó là hình ảnh đẹp nhất mà con người có thể đem theo suốt cuộc hành trình dương thế. Thật vậy, hình ảnh đẹp về Vị Thiên Chúa yêu thương sẽ giúp bản thân sống tích cực hơn trong mọi tương quan. Từ đó, giúp hình thành những cảm xúc lành mạnh nơi chính mình.

Có thể nói, cảm nghiệm cá vị về tình yêu Thiên Chúa là cảm xúc yêu thương đáng trân trọng nhất. Thật vậy, cảm xúc này là biểu hiện của tâm hồn đã được biến đổi. Mà Đấng biến đổi tâm hồn là chính Thánh Thần. Chỉ có tình yêu đích thực mới có sức biến đổi tâm hồn. Và một khi đã được biến đổi, họ cũng khát mong điều ấy cho mọi người. Như thế, cảm xúc lành mạnh được đánh giá tùy thuộc sức hấp dẫn của nó đối với người khác. Nói cách khác, cảm xúc này giúp tu sĩ đồng cảm với mọi hoàn cảnh của người đồng loại. Niềm vui nhân đôi, nỗi buồn giảm nửa.

Chúng ta không thể biết người khác suy nghĩ gì nhưng qua biểu hiện cảm xúc, chúng ta có thể thẩm định tư chất của họ. Quả thật, lòng có đầy miệng mới nói ra. Người vốn hiền lành, cảm xúc của họ rất nhẹ nhàng, khoan thai. Nói cách khác, họ dễ làm chủ cảm xúc của mình hơn người nóng tính, bộc trực. Có thể nói, làm chủ cảm xúc là bước đầu thành công trong việc biết mình. Nói như thế, không có nghĩa là chúng ta sống giả dối ngay cả khi gặp những điều bất ưng cũng tỏ ra đồng thuận. Như Chúa Giêsu, chúng ta cũng có thể nổi nóng, giận dữ để khả dĩ trấn áp sự dữ hoành hành trong cuộc sống thường ngày. Vấn đề là mỗi ngày chúng ta phải dần khám phá nét đẹp bản thân là hình ảnh Thiên Chúa trong mình. Đó là “mầm thiện”, Người đã đặt để trong lòng mỗi người. Luôn ý thức bản thân mỏng giòn mà bám vào Chúa và luôn ý thức mình mang hình ảnh Người mà phát huy cảm xúc tích cực. Một người yếu đuối luôn cậy nhờ sức mạnh của Đấng lớn hơn mình. Một người cảm nghiệm được yêu thương, họ dễ dàng sống yêu thương.

Như chúng ta đã biết, khoảng cách từ cảm xúc tích cực đến hành động thích hợp là một thách đố lớn của ý thức và ý chí. Cho dù người ta có đặt ra trăm ngàn cảnh huống để giải quyết những vấn đề cuộc sống, thế nhưng cuộc sống gắn liền với huyền nhiệm của con người là một yếu tố quyết định tất cả. Con người có định liệu mọi sự vẫn luôn gặp bất trắc, do đâu ?

Con người có thể vận dụng mọi lý thuyết như những kỹ năng sống và cho dù, chúng là kinh nghiệm của những người từng trải và thành công đi nữa, bí quyết của họ không là của bạn. Chính mỗi hoàn cảnh của riêng bạn sẽ nhào nắn con người bạn. Chỉ những ai biết mình đủ và có khả năng đọc ra những dấu chỉ thời đại mới khả dĩ hành động thích hợp và đúng đắn, nghĩa là hành động ấy diễn tả thực chất con người mình. Với một ý thức lớn lao và ý chí kiên vững, người ta mới có thể sống như chính mình là. Ai cũng có thể hành động từ những cảm xúc sẵn có đang “sôi sục” trong mình nhưng không phải ai cũng hành động nhằm phát huy nhân cách bản thân.

Nơi nhân cách đời tu, hành động lại càng phải thấm đượm đức tin. Một tu sĩ luôn tìm kiếm và hành động theo ý Chúa sẽ giúp phát huy và định hình nhân cách bản thân.


10.4.Tâm linh


Thiết tưởng, định nghĩa đúng đắn nhất về đời sống tâm linh là đời sống trong Chúa Thánh Thần. Thật vậy, chính Người là tác giả đời sống nội tâm nơi diễn ra mọi kinh nghiệm trong tương quan với Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã nói về vị Thầy Thần Linh này như sau: Người thấu suốt những gì sâu thẳm nhất nơi Thiên Chúa. Như thế, Người sẽ dẫn chúng ta vào trung tâm của đời sống Thiên Chúa ngay tận cung thánh lòng mình. Thánh Augustinô thật chí lý khi nói về thực tại này: Thiên Chúa sâu thẳm hơn những gì sâu thẳm nhất của hữu thể ta. Tự sức mình, chúng ta không thể về lại lòng mình cách chân thành 50 nếu không nhờ sự dẫn dắt của Thần Khí, huống nữa, là việc chứng nghiệm Thiên Chúa trong sâu thẳm hữu thể mình.

Cả ngày sống, tu sĩ được hít thở trong Chúa Thánh Thần. Thật vậy, chúng ta chỉ cần ý thức và lắng đọng đủ để lắng nghe những soi động từ bên trong của Vị Bảo Trợ này. Kinh nghiệm về linh thao của thánh Inhaxiô cho chúng ta một hướng dẫn, rằng: lời mời gọi của Thánh Thần vốn âm thầm nhưng đầy hiệu quả, còn lời cám dỗ của thần dữ rất ồn ào và gây xáo trộn nội tâm. Như thế, nếu chúng ta đã khởi sự nhờ Thần Khí, nghĩa là để Người dắt vào nội tâm lòng mình, thì cũng xin Người giúp hoàn thành trong việc nhận ra ý Chúa hầu chu toàn nhiệm vụ Chúa trao theo ơn gọi mình lãnh nhận.

Do quá đề cao vai trò của Chúa Thánh Thần trong giờ suy niệm và cầu nguyện mà tu sĩ có thể quên đi sự hiện diện của Người trong mọi sinh hoạt đời sống. Như thế, chiều kích tâm linh ví thể muối mặn được ướp vào từng thớ thịt, làn da…giúp mỗi tu sĩ sống mặn nồng trong mọi tương quan. Thánh Biển Đức khuyên rằng: hãy cầu nguyện rồi mới hôn bình an. Nghĩa là tu sĩ cần phải chiêm niệm trước khi hành động. Như thế, họ tránh khỏi những dối lừa tìm về bản thân.

Tiếng rên siết khôn tả của Thần Khí đã đi vào tận nỗi thống khổ của phận người hầu chắt ra lời nguyện tinh ròng của những tâm hồn nhạy cảm nhất. Thay vì đau khổ quật ngã con người lại trở thành phương thế cứu độ hữu hiệu nhất. Chính Đức Kitô đã dùng đau khổ để diễn tả tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Như thế, Người đến thế gian, không phải để hủy bỏ, cũng không phải để giải thích đau khổ, nhưng làm cho đau khổ đầy tràn hiện hữu của Ngài (Paul Claudel).

Chúng ta không thể lược qua hết những gì Chúa Thánh Thần đã làm trong mỗi linh hồn. Tuy nhiên, chúng ta có thể ghi nhận những hoa trái mà một nhân cách đời tu mang lại qua việc giữ các lời khuyên Phúc Âm: lòng bao dung và bình an nội tâm.

Sống trong cộng đoàn tu trì, chúng ta dễ dàng nhận ra những ưu thế và giới hạn của nhau. Từ những ưu thế của mỗi cá nhân, sẽ phát sinh nhiều sáng kiến. Tất cả đều qui hướng về lợi ích chung và giúp xây dựng cộng đoàn. Đây là mặt nổi, ai cũng dễ dàng thấy được. Bên cạnh đó, là những giới hạn của mỗi người. Với chủ trương tốt khoe xấu che, các thành viên dễ dàng đóng kịch, đôi khi đeo những “mặt nạ” dày không ai hiểu nổi. Lúc ấy, người ta cần sống lòng bao dung.

Lòng bao dung không dừng lại ở việc yêu thương và tha thứ cho nhau mà nó hệ tại ở việc chấp nhận những khác biệt, cả những tội lỗi của nhau nữa ! Điều nguy hại lớn nhất là những gì tốt đẹp đều qui làm của chung, còn những gì tiêu cực thì cá nhân phải gánh chịu. Có những thành kiến mà khi chết rồi cũng chẳng mang theo, nhưng chối lại cho người khác. Như thế, sự tổn thương lại càng bị khoét sâu hơn. Điều này, chúng ta có thể đơn cử trường hợp của thánh Têrêsa HĐGS. 9 năm sống trong dòng Kín, chị bị mang tiếng là người chậm chạp và đau bệnh luôn luôn. Đến nỗi, vào ngày chị qua đời, các chị em kháo láo nhau: Mình sẽ viết gì về lịch sử đời chị ấy ?. Có chị trả lời: chẳng có gì đáng viết cả. Mãi đến khi lập án phong thánh cho chị, một vị chức sắc thuộc giáo triều đã phát biểu: “Đời chị Têrêsa không có gì lạ cả, chỉ toàn là những việc tầm thường thôi”. Đức Pio XI trả lời ngay: “Tôi chấp nhận việc phong thánh cho chị, vì chị đã làm những việc tầm thường”.(51) Và sau khi đọc cuốn Tự thuật do chị viết, chúng ta mới thấy sự âm thầm và nhân đức anh hùng nơi chị.

Ai cũng biết nét đẹp và cao thượng của lòng bao dung nhưng chỉ những ai thực sự sống trong Chúa Thánh Thần mới thủ đắc phần nào.

Chúng ta có thể khởi động từ việc chấp nhận phận mỏng giòn của bản thân và cảm nhận lòng tha thứ của Thiên Chúa. Kế đến, chúng ta có thể chuyển dịch những tâm tình ấy trên đối tượng kia. Nếu chúng ta được Thiên Chúa tha thứ hoàn toàn thì đến lượt mình, chúng ta cũng cần biết bao dung. Thiên Chúa có thể tha thứ nhưng Người không thể giải thoát nếu chúng ta cứ gặm nhấm và ở lì trong sự kết án người anh em.

Chấp nhận phận người là bước đầu của lòng khiêm tốn. Cảm nhận được thứ tha là bước đầu của sự biến đổi. Mà niềm vui của một tu sĩ được biến đổi phải làm sống động cộng đoàn, nghĩa là họ trở thành một thành viên tích cực góp phần xây dựng tình bác ái. Từ đó, lòng bao dung sẽ được họ thi thố khi xử sự với anh em. Đồng thời, họ dễ nhận ra những thiện chí của anh em và dễ bỏ qua những va vấp thường tình trong cuộc sống. Đó cũng là bước đầu tái lập bình an nội tâm.

Bình an nội tâm khác hẳn với bình an ngoại tâm, nghĩa là sự kỷ luật hình thức bên ngoài. Thật vậy, trong đời sống cộng đoàn, các tu sĩ sống trong kỷ luật, khuôn phép nhằm tạo nên một trật tự hài hòa trong tập thể đông người. Điều này chỉ là môi trường thuận lợi hầu giúp tạo lập sự bình an nội tâm. Nếu chỉ dừng lại ở bề mặt này, người ta có khuynh hướng lấy lề luật mà áp đặt và làm cứu cánh cho đời sống mình. Như Chúa Giêsu gọi họ là bọn giả hình. Vì thế, mỗi tu sĩ cần biết lợi dụng bầu khí an hòa nhằm tái tạo sự bình an bên trong.

Như chúng ta đã biết cuộc sống vốn biến động người ta không thể đi tìm sự an toàn bên ngoài rồi mới tái lập sự bình an. Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến, câu nói này của sư huynh Nguyễn Tấn Kiệt, có thể giúp ta hiểu được thái độ cần có của người thủ đắc bình an nội tâm. Như thế, yêu sách trước tiên đòi buộc chúng ta phải biết linh động trong cuộc sống vốn biến động và phải biết thích ứng trong hoàn cảnh vốn bất ưng. Bình an đích thực không dành cho người dễ dãi sống buông thả nhưng cho người sống ý thức và ý chí cao, biết tự chủ trong mọi hoàn cảnh. Tất nhiên, trong mỗi hoàn cảnh đều tiềm ẩn ý muốn của Thiên Chúa, chỉ khi hít thở bầu khí trong Thánh Thần, các tu sĩ dễ nhận ra cách thức giúp bản thân triển nở trong bầu khí an lành.

Ngoài ra, bình an đích thực cần phải được lượng giá trong nghịch cảnh. Những ai dễ bị tổn thương do người khác làm mình đau khổ, không thể sống bình an. Những ai cảm thấy chán chường vì không được người đời khen ngợi, không thể sống bình an…Bình an không hệ tại việc người khác không làm tôi bị tổn thương hay chán chường nhưng do thái độ sẵn sàng chấp nhận mọi nghịch cảnh. Không ai có thể cướp được sự bình an trong tâm hồn của ĐHY Nguyễn Văn Thuận. Ngay cả khi bị cô lập trong tù giam, ngài vẫn tự do và sống hy vọng. Vì sự bình an của tôi tớ Chúa đặt ở nơi Chúa.

Tóm lại, cho dù có sự phân biệt giữa đời sống thể lý, tâm lý và tâm linh, nhưng cả ba cùng hòa quyện trong một hiện hữu duy nhất. Chính Chúa Thánh Thần sẽ huy động mọi năng lực giúp mỗi tu sĩ phát huy điểm độc đáo của bản thân hầu phục vụ cho cộng đoàn. Còn những giới hạn lại được lắp đầy từ những thế mạnh của người khác. Chính sự bổ khuyết này làm nên thế mạnh của mỗi cộng đoàn và là chất liệu hình thành nhân cách đời tu cho mỗi thành viên. Đúng thế, tu sĩ chỉ có thể hình thành nhân cách của mình trong một cộng đoàn cụ thể.




tải về 0.63 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   21




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương