ĐỂ ĐƯỜng lối cách mạng đÚng đẮn hơN: CÁi nhìn từ LỊch sử


KH¶O CøU L¹I VÒ Hå CHÝ MINH



tải về 4.82 Mb.
trang17/18
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích4.82 Mb.
#35473
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   18



KH¶O CøU L¹I VÒ Hå CHÝ MINH

G



KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO QUOÁC TEÁ VIEÄT NAM HOÏC LAÀN THÖÙ BA

TIEÅU BAN LÒCH SÖÛ VIEÄT NAM HIEÄN ÑAÏI





S.TS Tsuboi Yoshiharu


Hồ Chí Minh với tư cách là một người theo chủ nghĩa Cộng hoà

Trong bài viết này, chúng ta thử thoát khỏi những quan niệm về “Tư tưởng Hồ Chí Minh” của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như cách đánh giá Ông Hồ như một người cộng sản Mác – Lênin, lần theo những nẻo đường trong cuộc đời Hồ Chí Minh để khảo cứu lại tư tưởng của Ông trên một lập trường giá trị tự do hơn.

Từ khi bắt đầu nghiên cứu Việt Nam năm 1973, mỗi lần có cơ hội, tôi lại cố gắng lần theo những dấu vết cuộc hành trình của Hồ Chí Minh. Bắt đầu từ xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An – quê hương của Hồ Chí Minh, tôi lần theo dấu chân Ông ở Nhà kỷ niệm Hồ Chí Minh ở Vinh – thủ phủ của tỉnh Nghệ An; phòng làm việc, Bảo tàng và Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Thủ đô Hà Nội; Bảo tàng Hồ Chí Minh ở Thành phố Hồ Chí Minh; Trường Quốc học Huế, v.v...
Ở Trung Quốc, tôi đã đến thăm Hồng Kông, Quảng Đông, Thượng Hải, Diên An, v.v... Tôi cũng tìm đến ngôi nhà Hồ Chí Minh từng sống ở Moskva. Tôi đã đứng trong ngôi nhà ở phố Compoint, được coi là nơi hoạt động của Hồ Chí Minh ở Paris. Ở London, tôi đã tới thăm khách sạn nơi Ông từng làm đầu bếp dưới sự hướng dẫn của Escoffier. Ở New York, tôi đã thử hình dung Hồ Chí Minh đã ngắm nhìn bức tượng Nữ thần Tự do từ góc độ nào. Tôi cũng có dịp thảo luận với các nhà nghiên cứu Hồ Chí Minh người Pháp như Brocheux, G. Boudarel... Đương nhiên, tôi cũng có dịp trao đổi ý kiến với những nhà trí thức, học giả người Việt như Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Đình Đầu, Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang, Nguyên Ngọc, v.v... Trong quá trình đó, tôi luôn cảm thấy dường như chưa có ai đoán đúng được tư tưởng “bè trầm liên tục” của Hồ Chí Minh.

Cho đến gần đây, tôi nhận ra rằng có lẽ giá trị mà Hồ Chí Minh coi trọng nhất trong suốt cuộc đời của mình là những giá trị của nền Cộng hoà. Tôi cho rằng nếu nhận thức Hồ Chí Minh như một người theo chủ nghĩa Cộng hoà, chúng ta có thể đánh giá được một cách đầy đủ và đúng đắn nhất những tư tưởng và hành động của Ông.

Không ai phủ nhận việc Hồ Chí Minh là một nhà ái quốc. Mục tiêu tối thượng của Ông là giải phóng dân tộc và giành lại nền độc lập cho Tổ quốc từ tay thực dân Pháp. Để thực hiện công cuộc đó, cơ sở lý luận của Ông là “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” – những biểu tượng của nền Cộng hoà.

Khi đặt chân đến nước Pháp, đất nước đã biến Việt Nam thành thuộc địa, Ông phát hiện ra rằng tầng lớp lao động nghèo khổ ở Pháp cũng ở trong tình cảnh bi thảm như các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Đồng thời, Ông cũng ngạc nhiên trước tinh thần Cộng hoà đối xử bình đẳng với con người bất kể sự khác biệt về màu da, ngôn ngữ, văn hoá.

Có một câu chuyện nổi tiếng liên quan đến vấn đề này. Sau chuyến hải hành dài bắt đầu từ Sài Gòn, cuối cùng Hồ Chí Minh cũng đến được Marseille. Đây là lần đầu tiên Ông Hồ đặt chân lên nước Pháp. Ông vào một quán cà phê và gọi một tách cà phê. Người hầu bàn đáp lại: “Vâng, thưa Ông” (Oui, Monsieur). Khi còn ở Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân, Hồ Chí Minh chưa bao giờ được gọi bằng từ “Mousieur”. Đối với chàng thanh niên Hồ Chí Minh khi đó mới 21 tuổi, được một người Pháp gọi là “Mousieur” là một sự ngạc nhiên thú vị. Có lẽ khi đó người hầu bàn cũng không nghĩ rằng vị khách của mình là một người Việt Nam đến từ xứ thuộc địa, hoặc cũng có thể anh ta không quan tâm tới quốc tịch của vị khách. Câu nói của người hầu bàn chỉ là một câu nói “đương nhiên” thường dùng để xác nhận với khách hàng. Nó được anh ta sử dụng như một cái máy chứ không có ý kính trọng gì đặc biệt ở đây. Thế nhưng, đối với Hồ Chí Minh, một người vốn đã quen chứng kiến cảnh phân biệt đối xử ở xứ thuộc địa, câu trả lời “đương nhiên” đó lại là một hiện tượng thật ngạc nhiên và mới mẻ.

Tinh thần nền Cộng hoà Pháp

Tinh thần nền Cộng hoà Pháp mang tính lý tưởng cao. Qua Cách mạng Pháp, một quan điểm mới về giá trị con người khác hẳn với giai đoạn trước đã được xác lập. Như đã thể hiện trong câu nói của bản Tuyên ngôn Nhân quyền: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng”, sự khác biệt căn bản nhất của thời cận đại so với các thời đại khác là sự thay đổi 180 độ quan điểm về giá trị con người. Tinh thần nền Cộng hoà chính là cuộc vận động nhằm tạo nên và lý tưởng hoá hình tượng con người mới, thúc đẩy mỗi cá nhân tiếp cận với hình tượng lý tưởng đó.

Đó là cách nhận thức con người bằng việc bài trừ những thuộc tính cá nhân. Lấy ví dụ, nó không quan tâm tới người đó là người Nhật hay người Việt Nam, sinh ra ở tỉnh nào, xuất thân trong gia đình hay dòng họ nào, bao nhiêu tuổi, là nam hay nữ. Vấn đề quan trọng là con người đó với tư cách là một “cá nhân” có đủ khả năng suy nghĩ một cách lý tính hay không.

Nền Cộng hoà được xây dựng bởi những cá nhân là nhân dân Pháp, bất kể giai cấp, màu da hay người đó có sinh ra ở Pháp hay không. Do vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của nền Cộng hoà là phải giáo dục ra được những “cá nhân” có đủ khả năng suy nghĩ một cách lý tính.

Tuy nhiên, không dễ dàng hiện thực hoá được những lý tưởng đó của tinh thần Cộng hoà. Đã có rất nhiều hành động nhằm kéo xã hội quay về với tư tưởng cũ. Để xác lập được tinh thần Cộng hoà, nước Pháp cần phải đợi đến thời kỳ nền Đệ tam Cộng hoà, khoảng 100 năm sau Cách mạng Pháp.

Ở nước Pháp khi đó cũng như ngày nay, nông dân luôn đóng vai trò trung tâm. Họ có tư tưởng cực kỳ bảo thủ. Ở người nông dân, tình cảm thích nhà vua, coi trọng gia đình, truyền thống và dòng dõi là hết sức mạnh mẽ. Trong số họ có rất nhiều người vừa hiếu kỳ đối với những người khác, đồng thời lại có những suy nghĩ mang tính phân biệt chủng tộc, cho rằng người da trắng ưu việt hơn so với các chủng tộc khác.

Cách mạng Pháp đã thay đổi tư tưởng bảo thủ của nông dân thành những “cá nhân” theo giá trị con người kiểu cận đại, quá trình biến đổi đó kéo dài 100 năm. Ngay trong thời đại hiện nay, dù có quá nửa người Pháp tán thành tinh thần Cộng hoà, nhưng rõ ràng cũng có không ít người vẫn duy trì thể tạng cũ của nông dân. Nói một cách chính xác hơn, vẫn còn rất nhiều người mang trong mình mâu thuẫn giữa một bên là con người được giáo dục để mang tinh thần Cộng hoà một cách tự giác, với một bên là quan điểm bảo thủ về giá trị con người vốn được nuôi dưỡng trong môi trường gia đình thủ cựu. Về mặt này, có thể nói người Pháp vẫn mang đầy mâu thuẫn, và tinh thần Cộng hoà vẫn đang tiếp tục bị thử thách ở nước Pháp.

Trong khi đó, người Việt Nam lại hoàn toàn ngược lại. Người Việt Nam trước tiên coi trọng thuộc tính. Mỗi khi đến Việt Nam, tôi thường rất lúng túng khi bị người Việt Nam đặt những câu hỏi liên quan đến cá nhân như bao nhiêu tuổi, làm việc cho công ty nào, ở vị trí gì, xuất thân từ trường đại học nào, vùng nào, tầng lớp nào, gia đình như thế nào. Hay những câu hỏi đại loại như “Đã kết hôn chưa?”, “Đã có con chưa, nếu có con thì được mấy con rồi?”, “Con mấy tuổi?”... Tại sao người Việt Nam lại chắp nhặt những thông tin cá nhân và hoàn cảnh gia đình như vậy. Đó là vì: thông qua những câu hỏi đó, người Việt muốn làm rõ vị trí của đối phương, dựa vào đó xác định rõ ràng mối quan hệ xã hội trên – dưới giữa mình và đối phương. Từ đó, quan hệ đó sẽ được phản ánh qua cách dùng từ và động tác ứng xử, qua việc sử dụng cách nói kính trọng hay khiêm tốn, có nên chào hỏi và bắt tay như đối với người lớn hơn hay không. Để xây dựng được quan hệ tốt đẹp cho hai bên và ứng xử đúng với những quy tắc xã hội vô hình, trước tiên người Việt phải tìm hiểu những thuộc tính của đối phương.

Đây không chỉ là truyền thống của riêng Việt Nam mà là truyền thống của cả khu vực theo văn hoá Nho giáo, tương ứng với thế giới Đông Á, bao gồm cả Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản, những nơi cũng lấy “quan hệ” giữa con người với con người làm quy tắc chuẩn cho hành động.

Ở Đông Á, nơi thuộc tính cá nhân và quan hệ con người đóng vai trò chủ đạo, người ta đã không lý giải hết được tinh thần nền Cộng hoà. Người ta thường viện dẫn những ví dụ của nước Pháp và nước Mỹ để đưa ra những định nghĩa mang tính mô phạm về nền Cộng hoà, kiểu như nền Cộng hoà là việc chặt đầu nhà vua, phế bỏ chế độ quân chủ, xây dựng thể chế chính trị “của dân, do dân, vì dân”; nền Cộng hoà là thể chế chính trị mà nhân dân đóng vai trò chính,... Người ta đã không đạt tới được nhận thức rằng: điều kiện tiền đề của nền Cộng hoà là những “cá nhân” theo quan điểm giá trị mới về con người.



Nhận thức về tinh thần nền Cộng hoà của Hồ Chí Minh

Người viết cho rằng có lẽ Hồ Chí Minh là lãnh đạo chính trị duy nhất ở Đông Á nhận thức được một cách đúng đắn nhất tinh thần nền Cộng hoà và Ông đã cố gắng đưa nó vào Việt Nam. Tôi muốn lần theo những hành động của Hồ Chí Minh trong quãng thời gian 10 năm Ông phát huy được năng lực lãnh đạo của mình nhất, tức là quãng thời thời gian từ lúc về nước năm 1941 sau ba chục năm bôn ba ở hải ngoại đến những năm 1950, để chứng minh cho giả thuyết nêu trên.

Trước tiên, tôi cho rằng cần phải khảo cứu lại vấn đề tại sao Hồ Chí Minh lại “phát hiện” ra Lênin và trở thành một người cộng sản. Để định nghĩa lại Hồ Chí Minh từ một người cộng sản Mác – Lênin thành một người theo chủ nghĩa Cộng hoà, cần phải làm rõ mối quan hệ này.

Hồ Chí Minh biết đến Lênin nhờ đọc bài viết được công bố của Lênin về vấn đề thuộc địa. Ông đã bị thu hút mạnh mẽ bởi mối quan tâm sâu sắc cũng như cách đưa ra những phương pháp giải quyết cụ thể đối với vấn đề thuộc địa của Lênin. Ông Hồ cho rằng để giải phóng thuộc địa, chỉ có con đường duy nhất là Đảng Cộng sản, do vậy Ông đã từ bỏ Đảng Xã hội và trở thành một trong những thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Sau đó, Ông sang Moskva, trở thành một thành viên của Quốc tế Cộng sản và hoạt động năng nổ. Kể từ lúc đó, trong quá trình hoạt động của mình, Ông học được rằng: để giành được độc lập cho Việt Nam từ tay nhà nước Pháp, một trong những liệt cường của Tây Âu có lực lượng quân sự và chính trị khổng lồ, cần phải có một tổ chức đoàn kết chặt chẽ đóng vai trò trung tâm cho công cuộc giải phóng, cũng như cần hoạt động liên kết quốc tế nhằm nhận được sự đồng cảm rộng rãi từ quốc tế. Ông đồng tình với đề xướng của Lênin về Bônsêvich, Đảng Cộng sản – một đảng tiên phong có kỷ luật sắt. Về điểm này, đúng là Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa Lênin. Tuy nhiên, ngoài mặt tổ chức ra, Hồ Chí Minh cho rằng vấn đề cần ưu tiên nhất là đấu tranh giải phóng dân tộc giành lại độc lập cho Việt Nam chứ không phải là vấn đề giai cấp. Về mặt này, Hồ Chí Minh không phải là một người cộng sản “chính thống” theo chủ nghĩa Mác – Lênin.

Đối với những người cộng sản “chính thống”, việc Hồ Chí Minh coi trọng giải phóng dân tộc, coi nhẹ đấu tranh giai cấp là hành động xa rời chủ nghĩa cộng sản, do đó, Ông Hồ đã bị phê phán một cách gay gắt. Vào những năm 1930, Hồ Chí Minh đã bị những người cộng sản Việt Nam trẻ tuổi như Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập phê pháp một cách gay gắt và công khai. Furuta Motoo, tham khảo nghiên cứu của Kurihara Hirohide, đã trích dẫn một phần lá thư của Uỷ ban Hải ngoại Đảng Cộng sản Đông Dương gửi cho Quốc tế Cộng sản như sau:

“Ở Đông Dương, các tổ chức cộng sản đã triển khai một cuộc đấu tranh công khai với đường lối của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội – đường lối là tàn dư kết hợp giữa chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa cải lương duy tâm. Tàn dư này hết sức nặng nề và đang trở thành một chướng ngại cho sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản. Cần thiết phải đấu tranh không thương tiếc với chủ nghĩa cơ hội và lý luận kiểu cũ của Quốc và Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội. Chúng tôi đề xuất đồng chí Lin (bút danh lúc đó của Nguyễn Ái Quốc – Tsuboi) phải viết bản tự kiểm điểm bản thân.”

Trước những phê phán này, Ông Hồ đã phải thay đổi đôi chút lập trường của mình và phải rất vất vả để giữ được vị trí của mình trong Quốc tế Cộng sản. Tuy nhiên, Ông đã bị gạt ra ngoài hoạt động lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và bị buộc phải sang Moskva học tập. Nhưng cũng nhờ đó mà Ông Hồ đã thoát nạn. Dưới sự đàn áp khốc liệt của nhà đương cục thực dân, nhiều người cộng sản hoặc bị chết hoặc bị xử tử. Lê Hồng Phong bị bắt tháng 6 năm 1938 và sau đó qua đời trong tù vào khoảng tháng 9 năm 1942. Hà Huy Tập bị bắt tháng 7 năm 1938, sau đó được thả ra một thời gian rồi bị bắt lại năm 1940 và bị xử tử vào tháng 8 năm 1941. Khi Ông Hồ trở về nước vào năm 1941, ở Việt Nam hầu như không còn một người cộng sản “chính thống” nào. Nhờ vậy, trong quãng thời gian 10 năm tính từ khi trở về nước năm 1941, Ông Hồ, dựa vào sự ủng hộ của Quốc tế Cộng sản cũng như tiếng tăm của mình, đã có thể hành động một cách tự do hơn theo những suy nghĩ của mình.

Có một giai thoại thể hiện rất rõ hình ảnh Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa Cộng hoà. Năm 1941, Hồ Chí Minh về nước sau 30 năm bôn ba ở hải ngoại, chủ trì Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, xác định cách mạng là Cách mạng giải phóng dân tộc, công bố ý tưởng thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đồng thời thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh (tên thường gọi là “Việt Minh”). Tên gọi Việt Minh cho thấy mục tiêu của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ là đánh đổ ách thống trị của Nhật và Pháp, giành lại độc lập, tập trung toàn lực vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.

Hồ Chí Minh nêu lên chủ trương của Việt Nam Độc lập Đồng minh là “liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, xu hướng, đảng phái chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp, Nhật, giành quyền độc lập cho xứ sở”. Mục tiêu của Việt Nam Độc lập Đồng minh là “sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngôi sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc.”

Tuyên ngôn Độc lập

Tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được cho là do Hồ Chí Minh đặt. Nội dung của nó được thể hiện trong Tuyên ngôn Độc lập tháng 9 năm 1945 và Hiến pháp năm 1946. Câu đầu tiên của bản Tuyên ngôn Độc lập có đề cập đến Hiến pháp Mỹ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền Pháp.

“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.

Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.

Tuyên ngôn Nhân quyền được viết trong Cách mạng Pháp năm 1791 đã trình bày nội dung tương tự như sau: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

“Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.

Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa. Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào. Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết. Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu. Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược. Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tuỷ, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn”. (Lược một đoạn – Tsuboi)

“Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam. Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp” (trích “Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945”).

Còn có một câu chuyện nữa về Hồ Chí Minh ít được biết đến. Sau khi thành lập Việt Minh năm 1941, để kêu gọi sự ủng hộ của các nước Đồng minh, trong đó có cả Trung Quốc, Ông Hồ đã quay trở lại Trung Quốc. Tuy nhiên, do Việt Minh nằm dưới cái bóng của chủ nghĩa cộng sản nên Ông Hồ đã bị Quốc dân Đảng nghi ngờ. Ông bị chính quyền địa phương của Quốc dân Đảng bắt và bị giam từ tháng 8 năm 1942 đến tháng 9 năm 1943. Sau cùng, Quốc dân Đảng nhận định rằng Việt Minh là thế lực chính trị chống Nhật trong phạm vi Việt Nam nên Ông Hồ đã được thả. Tháng 8 năm 1944, khi được tự do và chuẩn bị về nước, Hồ Chí Minh đã nói với tướng Trương Phát Khuê của Quốc dân Đảng như sau: “Tuy tôi là một người cộng sản nhưng bây giờ vấn đề mà tôi quan tâm không phải là chủ nghĩa cộng sản mà là độc lập tự do của Việt Nam.

Cách mạng tháng Tám

Tuy nhiên, không thể có được Con người mới gánh vác độc lập tự do chỉ bằng đấu tranh giải phóng đơn thuần. Hồ Chí Minh biết rõ rằng, để đạt được điều đó cần một cuộc cách mạng làm đòn bẩy. Cuộc cách mạng đó ở Việt Nam là “Cách mạng tháng Tám”. Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện quân Đồng minh, nước Pháp bảo hộ thì chưa khôi phục được thế lực của mình. Cách mạng tháng Tám là cuộc khởi nghĩa trên toàn quốc do Việt Minh tổ chức nhân cơ hội đó nhằm giành quyền tự chủ thực sự cho Việt Nam. Nhận được tin Nhật đầu hàng, từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 8 năm 1945, Đảng Cộng sản đã tổ chức Hội nghị toàn quốc ở Tân Trào, ra quyết định khởi nghĩa. Ngày 16–17 tháng 8, Việt Minh tổ chức Đại hội Quốc dân, quyết định thành lập Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Sau đó, bắt đầu từ việc giành chính quyền ở Hà Nội ngày 19 tháng 8, Việt Minh đã lãnh đạo thành công khởi nghĩa ở các thành thị khác, xác lập được quyền làm chủ đất nước. Kết quả của quá trình này là sự ra đời của bản Tuyên ngôn Độc lập.

Có nhà nghiên cứu cho rằng Cách mạng tháng Tám không đơn thuần là một cuộc đảo chính bằng vũ lực. Đúng là khi cách mạng nổ ra, quân Nhật, lúc đó đã đầu hàng Đồng minh, đã không tiến hành đàn áp cuộc khởi nghĩa của Việt Minh. Đồng thời ở Việt Nam cũng không có mặt quân Pháp và quân Đồng minh. Nhờ vậy, cuộc khởi nghĩa đã diễn ra một cách tương đối dễ dàng và không phải đổ nhiều máu. Đối với Hồ Chí Minh, cuộc cách mạng này chính là quá trình giành lại quyền lực của nhân dân dựa trên khát khao mạnh mẽ về tự do của họ, nó chính là quá trình xây dựng nên Con người mới.

Ý nghĩa của Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Ước mơ “Độc lập” từ lâu của Hồ Chí Minh là Việt Nam được giải phóng khỏi tay thực dân Pháp và trở thành một nước độc lập. Nhưng “Độc lập” của Hồ Chí Minh không phải là khái niệm “độc lập” theo nghĩa cũ, vốn thường được lặp đi lặp lại trong sách giáo khoa – là quá trình Việt Nam giữ vững được độc lập và bản sắc (identity) của mình trước sự uy hiếp của Trung Quốc. Việt Nam có lịch sử khởi nghĩa, đánh bại, đánh đuổi sự xâm lược của các triều đại Tống, Nguyên, Minh, Thanh của Trung Quốc, nhưng sau mỗi lần đánh đuổi quân xâm lược Trung Quốc, Việt Nam lại chỉ xây dựng một thể chế chính trị mô phỏng Trung Quốc. Nhưng “Độc lập” mà Hồ Chí Minh muốn xây dựng là một nước độc lập, một nhà nước chủ quyền theo kiểu Cận đại. Từ “Độc lập” của Ông bao hàm ý nghĩa xây dựng một quốc gia chủ quyền có lực lượng sánh vai được với các cường quốc trên thế giới. Ý tưởng của Ông là không chỉ xây dựng một chế độ Dân chủ Cộng hoà mà còn xây dựng nên hình ảnh những con người mới đóng vai trò gánh vác quốc gia độc lập.

“Tự do” của Hồ Chí Minh rõ ràng chịu ảnh hưởng từ chữ “Tự do” trong khẩu hiệu “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” của Cách mạng Pháp và quyền mưu cầu Tự do của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Tự do của Hồ Chí Minh không chỉ đơn thuần là đất nước được độc lập, nhà nước có chủ quyền và có quyền tự do phát ngôn, hoạt động trên trường quốc tế, mà phải là thứ tự do được từng người dân ca ngợi. Nó cũng yêu cầu mỗi người dân ca ngợi quyền tự do đó phải trở thành chủ thể xây dựng từ dưới lên trật tự của nền Cộng hoà, yêu cầu từng cá nhân phải có khả năng suy nghĩ, quyết định với tinh thần trách nhiệm cao. Nhà nước kiểu Cận đại chính là nhà nước xây dựng được hệ thống giáo dục đào tạo ra được những con người như vậy, đồng thời có những thiết chế chính trị đi kèm đảm bảo cho việc giáo dục đó. Nước Cộng hoà của Hồ Chí Minh là Chủ nghĩa dân chủ kết hợp với Tự do.

Cuối cùng như được đề cập trong bản Tuyên ngôn Độc lập, “Hạnh phúc” của Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của “quyền mưu cầu hạnh phúc” trong Hiến pháp của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ chính là bản Hiến pháp đầu tiên viết rõ ràng về “quyền mưu cầu hạnh phúc”. Hạnh phúc là một từ có tính đa nghĩa, nhưng ý nghĩa từng cá nhân có quyền mưu cầu hạnh phúc là một khái niệm hết sức mới mẻ của thời kỳ cận đại. Lịch sử Việt Nam là lịch sử tranh sáng tranh tối của những cuộc đấu tranh chống lại sự xâm lược của Trung Quốc, đấu tranh chống lại những thảm hoạ thiên nhiên như lũ lụt, hạn hán. Con người Việt Nam coi những nguy cơ đó là “bất hạnh”, đặc điểm của Việt Nam là có lịch sử chiến đấu và chiến thắng những “bất hạnh” đó. Nếu coi những “bất hạnh” mà dân tộc Việt Nam phải chịu đựng là những thử thách của ông Trời mang lại để dân tộc Việt Nam phải vượt qua thì quả thực, dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng và quả cảm. Thế nhưng, quá trình đó bản chất là một quá trình mang tính thụ động. Thông điệp về hạnh phúc của Hồ Chí Minh là thông điệp mỗi người đều có quyền mưu cầu hạnh phúc và phải chủ động, tích cực tranh đấu để giành được hạnh phúc đó. Thông điệp đó của Hồ Chí Minh đã được đông đảo nhân dân Việt Nam đón nhận.

Trong bản Hiến pháp làm cơ sở cho Nhà nước, Hồ Chí Minh đã tham khảo Hiến pháp nước Cộng hoà Pháp và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và nêu lên ý tưởng về nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Con người Hồ Chí Minh được phản ánh sắc nét trong Hiến pháp là một người theo Chủ nghĩa Cộng hoà và chủ nghĩa hoà bình hơn là một người theo Chủ nghĩa Cộng sản.

Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn Độc lập cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Trong vòng xoáy tương quan lực lượng quốc tế mà Việt Nam bị lôi vào, Liên hợp quốc đóng vai trò vô cùng quan trọng. Để các nước công nhận Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ Chí Minh đã có một hành động mạo hiểm là xoá đi hình ảnh người cộng sản của mình. Tháng 11 năm 1945, Ông Hồ đã ra quyết định dứt khoát giải tán Đảng Cộng sản. Đương nhiên, trên thực tế, tổ chức của Đảng vẫn được giữ nguyên, do đó cũng có thể coi nó như một “hành động nguỵ trang”. Thế nhưng, để được các nước công nhận Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ông Hồ đã lựa chọn con đường ưu tiên “quyền lợi dân tộc” lên trên “quyền lợi đảng phái”. Về điểm này, chúng ta có thể nhìn thấy một phần cách suy nghĩ theo chủ nghĩa Cộng hoà của Hồ Chí Minh.

Người Việt Nam có hiểu Hồ Chí Minh không?

Ở đây có một vấn đề là những người Việt Nam khác có hiểu được nguyên lý về nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mà Hồ Chí Minh đã trình bày cũng như tinh thần nền Cộng hoà được đúc kết trong khẩu hiệu “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” của Ông hay không? Thật tiếc phải nói rằng thông điệp của Hồ Chí Minh hầu như không được truyền bá và lý giải một cách đầy đủ và đúng đắn. Người ta đã coi Ông như một người lãnh đạo của phong trào Cộng sản Quốc tế, một người theo chủ nghĩa Mác – Lênin. Đó là vì sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, thế giới rơi vào cục diện Chiến tranh Lạnh, Việt Nam đã bị đặt vào tiền tuyến xung đột của Chiến tranh Lạnh Đông – Tây. Trong bối cảnh quốc tế đó, Hồ Chí Minh sau khi thành lập nước đã phải nhận sự hỗ trợ của Trung Quốc và Liên Xô, trở thành lãnh tụ lãnh đạo một cuộc chiến tranh lâu dài chống Pháp và Mỹ. Ai cũng lấy ý thức hệ làm chủ thể để lý giải Ông Hồ, và ngay bản thân Ông Hồ, để nhận được viện trợ tiếp tục công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc mình, không có một sự lựa chọn nào khác ngoài việc phát ngôn và hành động như một thành viên của liên minh những người cộng sản.



Thế hệ kém Ông Hồ 10 tuổi như Đại tướng Võ Nguyên Giáp hay ông Trần Văn Giàu, do chịu sự giám thị gay gắt của nhà đương cục thực dân, đã phải hoạt động tại nước ngoài một thời gian. Chính vì vậy, họ đã hiểu được tình hình bên ngoài và lý giải được một phần tinh thần nền Cộng hoà của Hồ Chí Minh. Sự lý giải của họ là nhờ vào kinh nghiệm sống ở các nước Âu – Mỹ, chủ yếu là nước Pháp. Tuy nhiên đối với những thế hệ trẻ hơn, do phải tiến hành cách mạng và chiến tranh trên đất Việt Nam, nên hầu như không có mấy người có kinh nghiệm sống ở nước ngoài. Do đó, họ thiếu đi nền tảng tư tưởng để có thể lý giải được đầy đủ “Tinh thần nền Cộng hoà” mà Hồ Chí Minh đã đúc kết được sau 30 năm bôn ba ở hải ngoại. Càng đến những thế hệ trẻ hơn, người ta càng có xu hướng lý giải Hồ Chí Minh chỉ theo góc độ là nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản. Cùng với việc thần tượng hoá Hồ Chí Minh, người ta đang đánh mất đi khả năng lý giải nội tại Hồ Chí Minh với tư cách là một CON NGƯỜI bình thường.



PHONG TRµO VËN §éNG V¡N Ho¸ §ÇU THÕ Kû XX:
NGHI£N CøU SO S¸NH §¤NG KINH NGHÜA THôC
ë VIÖT NAM Vµ HIÖP HéI V¡N Ho¸ §µI LOAN T¹I §µI LOAN

P



KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO QUOÁC TEÁ VIEÄT NAM HOÏC LAÀN THÖÙ BA

TIEÅU BAN LÒCH SÖÛ VIEÄT NAM HIEÄN ÑAÏI





GS Tưởng Vi Văn , Thái Minh Đình


1. Mở đầu

Việt Nam và Đài Loan trong lịch sử từng nhiều lần bị ngoại bang xâm lược. Vào đầu thế kỷ XX, Việt Nam bị thực dân Pháp thống trị, còn Đài Loan thì chịu ách đô hộ của Nhật Bản 390. Thời kỳ đầu khi mới bị thống trị, cả hai bên đều sử dụng vũ lực để chống lại giặc ngoại xâm. Nhưng đến khoảng đầu thế kỷ XX, hai bên đều dần dần chuyển sang đấu tranh chính trị và văn hoá. Xuất hiện sớm và nổi bật nhất thời kỳ đó là hai tổ chức: Đông Kinh nghĩa thục ở Việt Nam (1907) và Hiệp hội Văn hoá Đài Loan tại Đài Loan (1921). Ngoài vai trò khai sáng văn hoá, hai tổ chức này còn có đóng góp to lớn trong việc truyền bá văn học bạch thoại. Điểm khác biệt duy nhất giữa hai tổ chức này là Hiệp hội Văn hoá chủ trương phát triển dòng văn học bạch thoại chữ Hán, không chú trọng tới chữ Latinh. Trong khi đó, Đông Kinh nghĩa thục lại chủ trương phát triển dòng văn học sáng tác bằng chữ quốc ngữ.

Thành phần chủ yếu của phong trào Đông Kinh nghĩa thục là các trí thức Việt Nam từng du học ở Nhật Bản. Họ thành lập trường Đông Kinh nghĩa thục tại Hà Nội nhằm truyền bá tư tưởng phương Tây và các kiến thức khoa học mới. Họ cho rằng nếu muốn đạt được mục đích khai sáng dân trí thì nhất định phải sử dụng chữ Latinh. Vì vậy nhiệm vụ đầu tiên của phong trào là phổ cập chữ Latinh; dùng chữ Latinh để giáo dục nhân dân, giúp nhân dân có tri thức để chống lại thực dân Pháp. Mặc dù trường Đông Kinh nghĩa thục chỉ mở một năm đã bị giặc Pháp cưỡng chế đóng cửa, nhưng chủ trương của họ đã được giới trí thức khi đó nhiệt liệt hưởng ứng và ủng hộ. Dưới ảnh hưởng của họ, việc sử dụng chữ Latinh để sáng tác văn học đã trở thành chủ trương và tiêu chí hoạt động của những người theo chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam. Cũng trong bối cảnh như vậy, Hiệp hội Văn hoá Đài Loan mặc dù có những người như Thái Bồi Hoả tuyên truyền sử dụng chữ Latinh nhưng chủ trương này lại không được nhiều người ủng hộ391.

Mục đích của báo cáo này là tìm hiểu sự khác biệt về ý thức sử dụng ngôn ngữ, văn tự dân tộc của hai tổ chức Đông Kinh nghĩa thục và Hiệp hội Văn hoá Đài Loan trong phong trào truyền bá văn hoá mới. Báo cáo cũng chỉ ra “ý thức người Hán, chữ Hán” và “mức độ quen thuộc của công cụ chữ viết” chính là nguyên nhân tạo ra sự khác nhau giữa hai phong trào này.



2. Bối cảnh lịch sử của thuộc địa Đông Nam Á

Cùng với sự phát triển của phong trào Phục hưng từ thế kỷ XIV, ở châu Âu đã xuất hiện khát vọng về sự giàu có và Tư bản thương nghiệp. Đến thế kỷ XV, châu Âu bắt đầu bước vào thời kỳ hưng thịnh của hàng hải. Dựa vào sự phát triển của kỹ thuật hàng hải, các quốc gia Tây Âu đến châu Á, châu Phi, châu Mỹ tìm kiếm đối tác thương mại và thuộc địa. Theo trào lưu đó, vào cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, người phương Tây đã đến Đài Loan và Việt Nam. Làn sóng thuộc địa này đạt đỉnh cao vào thế kỷ XIX.

Từ sau khi bị thực dân Hà Lan xâm lược (1624 – 1662), Đài Loan liên tục bị các thế lực chính trị ngoại bang chiếm đóng. Năm 1895, sau cuộc chiến tranh Trung – Nhật, Đài Loan rơi từ tay triều Thanh sang tay của đế quốc Nhật, trở thành thuộc địa của Nhật (1895 – 1945). Trước đó, vào năm 1858, thực dân Pháp mượn cớ bảo vệ các giáo sỹ của mình bị đàn áp tại Việt Nam đã liên kết với hạm đội Tây Ban Nha tấn công vào cửa biển Đà Nẵng392. Triều đình nhà Nguyễn khi đó không thể địch nổi quân Pháp nên đành cắt ba tỉnh miền Nam là Gia Định, Biên Hoà và Định Tường cho Pháp 393. Nhưng tất nhiên nước Pháp không chỉ thoả mãn như vậy và họ tiếp tục lấn sang các tỉnh khác. Đến năm 1883 và 1884, triều Nguyễn đã buộc phải ký Hoà ước Quý Mùi (Hiệp ước Harmand) và Hoà ước Giáp Thân (Hiệp ước Patenôtre) thừa nhận nước Pháp trở thành nước bảo hộ trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Khi bị thực dân Pháp tấn công, Việt Nam cũng đã từng cầu cứu nhà Thanh giúp đỡ và vì vậy đã xảy ra chiến tranh Trung – Pháp. Quân đội Pháp đã đánh quần đảo Bành Hồ và tấn công vào khu vực Đạm Thuỷ – Đài Loan394. Khi đó bản thân Trung Quốc cũng không thể bảo vệ mình nên cũng chẳng thể đánh lại được quân đội Pháp 395. Vào năm 1885, triều Thanh và quân Pháp đã ký Hoà ước Thiên Tân, theo bản Hoà ước này thì triều Thanh từ bỏ quyền bảo hộ từ trước tới nay đối với Việt Nam và công nhận quyền bảo hộ của nhà nước Pháp tại đây396. Từ đó, Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Cho đến tận năm 1945, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì tình hình mới thay đổi.

Từ cuối thế kỷ XIX, cả Đài Loan và Việt Nam đều rơi vào tay đế quốc và trở thành nước thuộc địa, kể cả triều Thanh và sau đó là Trung Hoa Dân Quốc (sau đây gọi tắt là Trung Quốc) cũng bị biến thành nước bán thuộc địa. Bởi vì cùng bị biến thành dân nước thuộc địa nên các nhà yêu nước của Việt Nam, Đài Loan và Trung Quốc đã liên hệ chặt chẽ với nhau, thậm chí còn tham gia vào các phong trào, hội đoàn, tổ chức của nhau để cùng nhau trao đổi và tìm ra con đường cứu nước. Ví dụ như vào năm 1907, Chủ tịch Hiệp hội Văn hoá Đài Loan Lâm Hiến Đường đã gặp và làm quen với nhân vật quan trọng của Hội Bảo Hoàng là Lương Khải Siêu đang lưu vong ở Nhật Bản. Sau cuộc gặp, họ đã có quan hệ thân thiết và gây ảnh hưởng lớn tới nhau397. Tương tự như vậy, hai nhà sáng lập ra hội Đông Kinh nghĩa thục của Việt Nam là Phan Bội Châu (1867 – 1940) và Phan Châu Trinh (1872 – 1926) cũng đã từng gặp Lương Khải Siêu 398. Thêm vào đó, một bộ phận các chí sỹ ưu tú của Đài Loan như Ông Tuấn Minh, Tưởng Vị Thuỷ cũng đã từng tham gia Trung Quốc Đồng Minh hội, phân hội Đài Loan 399. Trong thời kỳ Pháp thống trị Việt Nam, do cơ duyên về mặt địa lý và lịch sử nên Trung Quốc đã trở thành địa bàn hoạt động của các chí sỹ yêu nước của Việt Nam 400. Không ít thanh niên Việt Nam đã tham gia vào hoạt động cách mạng của Trung Quốc với mục đích dựa vào lực lượng của Trung Quốc để giúp Việt Nam giành độc lập. Ví như Nguyễn Hải Thần401 của Việt Nam Cách mạng Đồng Minh hội, Nguyễn Thái Học và Vũ Hồng Khanh của Việt Nam Quốc dân Đảng. Ngoài ra, bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng có quan hệ mật thiết với Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng như Quốc dân Đảng Trung Quốc402. Cũng chính vì Bác Hồ đã từng ở và có kinh nghiệm trong việc quan hệ với Trung Quốc nên khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Bác đã phát giác ra âm mưu muốn chiếm Việt Nam của Tưởng Giới Thạch để từ đó khéo léo mượn tay lực lượng quốc tế, đuổi quân đội Tưởng ra khỏi biên giới Việt Nam403. Ngoài việc các nhân sỹ Việt Nam đến Trung Quốc thì cũng có các yếu nhân Trung Quốc đến hoạt động tại Việt Nam. Chẳng hạn, Tôn Trung Sơn, bạn của Phan Bội Châu, không những đã đến Việt Nam để tìm nguồn hỗ trợ tài chính cho các hoạt động cách mạng mà còn đến cả Đài Loan.

Đầu thế kỷ XX, việc các chí sỹ yêu nước của Việt Nam, Đài Loan và Trung Quốc có quan hệ mật thiết với nhau là việc đương nhiên và dễ hiểu. Tuy nhiên sau năm 1945, Quốc dân Đảng Trung Quốc đến tiếp nhận và thống trị Đài Loan, họ không những bắt buộc nhân dân Đài Loan tiếp thu nền giáo dục theo kiểu Trung Quốc hoá mà còn giải thích việc một bộ phận các thanh niên ưu tú của Đài Loan gia nhập Quốc dân Đảng là do tấm lòng người Đài Loan hướng về tổ quốc. Trong thời kỳ cùng chịu ách đô hộ của thực dân và nhu cầu tất yếu là phản kháng chủ nghĩa đế quốc xâm lược thì xu thế các dân tộc nhược tiểu của châu Á liên kết và hỗ trợ qua lại nhằm giúp đỡ nhau giải phóng dân tộc trở thành phổ biến. Nhưng nếu dựa vào một bộ phận nhỏ người Đài Loan tham gia vào các tổ chức cách mạng Trung Quốc mà bảo đó là tấm lòng của người Đài Loan hướng về “tổ quốc” Trung Quốc thì việc một số người Việt tiếp xúc với người Trung Quốc cũng là hướng về tổ quốc hay sao, sợ rằng đó chỉ là suy nghĩ mong muốn quá độ và không hiểu về sự thật lịch sử.

Việt Nam, Đài Loan cũng giống như các thuộc địa khác trên thế giới, khi chịu sự đối xử bất công của chính quyền đều trỗi dậy ý thức dân tộc và phản kháng. Trong thời kỳ đầu, cả hai bên đều chủ yếu sử dụng vũ lực để đấu tranh, đến khoảng thế kỷ XX mới bắt đầu dựa vào các thủ đoạn đấu tranh chính trị, văn hoá. Phong trào đấu tranh bằng văn hoá tại Việt Nam có thể tính từ khi Đông Kinh nghĩa thục ra đời vào năm 1907. Còn ở Đài Loan thì có thể tính từ khi thành lập Hội Đồng hoá Đài Loan năm 1914 hoặc từ năm thành lập Hiệp hội Văn hoá


Đài Loan – 1921.

Tại sao cuộc vận động cách mạng trên phương diện văn hoá tại Đài Loan và Việt Nam vào đầu thế kỷ XX lại diễn ra nhanh chóng và cuồng nhiệt như vậy? Có thể nêu ra được ít nhất một số lý do như sau: Thứ nhất, trải qua hơn hai mươi năm đấu tranh vũ trang, cả hai bên đều nhận ra rằng một nước thuộc địa nghèo nàn dùng đấu tranh vũ trang chống lại một đế quốc giàu mạnh, có nền quân sự phát triển một cách có tổ chức không phải là việc đơn giản. Thứ hai, do ảnh hưởng của nền giáo dục cận đại của Pháp và Nhật. Nếu tính từ 1895 Nhật chiếm đóng Đài Loan và năm 1885 thực dân Pháp thống trị toàn Việt Nam cho đến đầu thế kỷ XX thì thời gian thống trị đều đã kéo dài trên dưới 20 năm. Cho dù nền giáo dục của Nhật, Pháp đều nghiêng về tuyên truyền cho chủ nghĩa thực dân nhưng so với nền giáo dục truyền thống, nền giáo dục mới vẫn mở ra cho người Việt và người Đài Loan nhiều cơ hội để tiếp xúc với các khái niệm “chủ nghĩa dân tộc”, “quốc gia dân tộc”, “dân chủ” và “khoa học ”v.v... Mà thời kỳ đó, lớp người tiếp thu nền tân học này lại đang dần trở thành ngọn cờ đầu trong xã hội. Thứ ba, từ sau cuộc duy tân Minh Trị, Nhật Bản đã trở thành một cường quốc ở châu Á. Năm 1895, họ thậm chí đã đánh bại triều Thanh, họ chiến thắng Nga hoàng năm 1905, trở thành một đế quốc mới. Sự kiện này làm cho người Việt Nam cũng như Đài Loan tin rằng chỉ cần cố gắng thì người châu Á cũng có thể thay đổi vận mệnh của đất nước từ một nước thuộc địa trở thành một nước giàu mạnh. Thứ tư, ảnh hưởng từ sự trỗi dậy của trào lưu dân tộc chủ nghĩa hồi đầu thế kỷ XX. Năm 1918, Tổng thống Mỹ W. Wilson phát biểu “bốn mươi nguyên tắc hoà bình” về quyền tự quyết của các dân tộc. Bài phát biểu này là nguồn cổ vũ rất lớn cho phong trào đấu tranh đòi độc lập dân tộc ở các nước. Trong Đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918) đã có hơn một trăm ngàn người Việt Nam bị bắt tham gia quân đội Pháp, những người này có ấn tượng sâu sắc về sức mạnh của phong trào dân tộc đương thời. Thêm vào đó việc thành lập nhà nước Trung Hoa Dân Quốc vào năm 1912 tại Trung Quốc cũng đã góp phần cổ vũ cho các nhà yêu nước Việt Nam và Đài Loan.

3. Sự thành lập và ảnh hưởng của Đông Kinh nghĩa thục tại Việt Nam

Sự thành lập của phong trào Đông Kinh nghĩa thục có quan hệ mật thiết với cuộc vận động của Phan Bội Châu (1867 – 1940) và Phan Châu Trinh (1872 – 1926).

Trước khi Đông Kinh nghĩa thục ra đời, năm 1904, Phan Bội Châu đã bí mật thành lập Duy tân hội. Hội này chủ trương sử dụng vũ trang đánh đuổi thực dân Pháp, thành lập nhà nước Quân chủ Lập hiến404. Thời kỳ này chính là lúc Nhật Bản đang phát động chiến tranh với Nga hoàng và liên tiếp giành chiến thắng, vì vậy Phan Bội Châu nhận thấy rằng, cần phải học tập Nhật hoàng Minh Trị tiến hành duy tân đất nước. Do đó ông cùng Đặng Tử Kính, Tăng Bạt Hổ đến Nhật Bản lần đầu vào tháng 2 năm 1905405.

Ngay lần đầu đến Nhật Bản, Phan Bội Châu đã gặp gỡ Lương Khải Siêu đang sống lưu vong tại Nhật. Lương Khải Siêu đã khuyên Phan từ bỏ ý định khởi nghĩa vũ trang chống Pháp, thay vào đó, nên dùng giáo dục để khai sáng dân trí nhằm nâng cao sức mạnh đấu tranh bằng chính trị, văn hoá406. Thông qua sự giới thiệu của Lương, Phan đã gặp những nhân vật chính trị quan trọng của Nhật là Ôkuma Shigenobu và Inukai Tsuyoshi. Phan Bội Châu ngỏ lời nhờ họ giúp đỡ Việt Nam dùng vũ trang đánh Pháp nhưng họ khéo léo từ chối và khuyên ông nên chú trọng việc giáo dục dân chúng, đẩy mạnh tuyên truyền nhằm đợi thời cơ thích hợp407. Sau khi suy nghĩ kỹ, Phan Bội Châu đã nhận ra tính quan trọng của việc tuyên truyền ý thức dân tộc và tinh thần yêu nước của nhân dân. Do đó ông đã biên soạn cuốn Việt Nam vong quốc sử và nhờ Lương Khải Siêu xuất bản tại Nhật Bản408. Ngoài ra, dựa vào mối quan hệ với Inukai Tsuyoshi, ông đã gặp Tôn Trung Sơn – khi đó đang ở Nhật Bản. Tôn Văn phê phán chủ trương theo đuổi nền quân chủ lập hiến của ông là đường lối bảo thủ, khuyên ông nên chọn con đường thành lập nhà nước cộng hoà. Tôn Văn cũng khuyên ông nên kêu gọi thanh niên Việt Nam tham gia phong trào cách mạng của Trung Quốc, đợi sau khi cách mạng Trung Quốc thành công, Trung Quốc sẽ quay lại giúp đỡ Việt Nam tiến hành cách mạng giành độc lập. Ngược lại, Phan Bội Châu lại đề nghị Tôn Trung Sơn giúp đỡ Việt Nam tiến hành cách mạng giành độc lập trước, sau đó, Việt Nam sẽ trở thành căn cứ địa cho các nhà cách mạng Trung Quốc phản lại triều Thanh409.

Tháng 6 năm 1905, Phan Bội Châu mang theo Việt Nam vong quốc sử về nước và bắt đầu cổ xuý các thanh niên trí thức Việt Nam tham gia phong trào Đông du, sang Nhật Bản du học. Trong hai năm 1906 và 1907, các thanh niên Việt Nam sang Nhật Bản chủ yếu theo học tại “Đồng Văn thư viện”. Đến năm 1908, con số người theo học tại đây đã lên đến 200 người410.

Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh gặp nhau và kết thân từ năm 1904. Phan Châu Trinh vốn dĩ là một vị quan triều Nguyễn. Sau khi quen biết Phan Bội Châu, ông đã nhận ra sự tất yếu phải tiến hành cách mạng cứu nước nên đã từ quan. Ông rất đồng tình với Phan Bội Châu về chủ trương Đông du và khai sáng dân trí nhưng ông phản đối sử việc dụng vũ lực và việc Phan Bội Châu định dựa vào thế lực triều Nguyễn xây dựng nền quân chủ lập hiến411. Vào năm 1906, hai ông đến thăm hội Khánh Ứng nghĩa thục tại Nhật Bản do Phúc Trạch Dụ (Fukuzawa Yukichi 1835 – 1901) sáng lập và có ấn tượng sâu sắc về phương pháp, quan niệm giáo dục của hội này412.

Ngày 15 tháng 8 năm 1906, Phan Châu Trinh viết thư cho Toàn quyền Đông Dương lúc đó là Paul Beau nhằm nêu rõ nguyện vọng của mình như sau: “Trong thời gian Pháp quốc bảo hộ Việt Nam, giao thông, cầu đường của Việt Nam được xây dựng và phát triển là điều ai cũng rõ, nhưng việc quan trường tham ô thối nát cũng là một sự thật không thể chối cãi... Để xảy ra điều này có những nguyên nhân sau: Thứ nhất, nước Pháp lơ là việc quản lý quan trường của triều Nguyễn. Thứ hai, nước Pháp kỳ thị đối với người Việt. Thứ ba là do quan lại trong triều có sự phân hoá...”. Ngoài ra ông cũng phê phán nhà nước bảo hộ Pháp chưa làm hết trách nhiệm bảo hộ của mình. Ông cho rằng nước Pháp mượn cớ khai sáng văn minh cho người Việt Nam để vào chiếm Việt Nam thì nay phải có trách nhiệm để nhân dân Việt Nam được giáo dục nhằm nâng cao dân trí413.

Vì những bối cảnh lịch sử trên nên vào cuối năm 1906, Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đã quyết định thành lập một trường học mô phỏng Khánh Ứng nghĩa thục nhằm nâng cao dân trí tạo cơ sở cho cuộc đấu tranh văn hoá414. Tháng 3 năm 1907, trường Đông Kinh nghĩa thục được thành lập tại phố Hàng Đào415, Hà Nội. Đông Kinh là tên gọi cũ của Thăng Long vào thời Lê, còn “nghĩa thục” có nghĩa là trường dạy học miễn phí 416. Mục tiêu chủ yếu của Đông Kinh nghĩa thục là: Thứ nhất, nâng cao tinh thần yêu nước, lòng tự tin và cầu tiến của nhân dân; thứ hai là truyền bá tư tưởng mới, quan niệm mới và lối sống văn minh tiến bộ; thứ ba, phối hợp với phong trào Duy tân và Đông du mà Phan Bội Châu đã đề xướng417. Các lãnh đạo chủ yếu của tổ chức này là Lương Văn Can (1854 – 1927), Nguyễn Quyền, Nguyễn Văn Vĩnh (1882 – 1936), Đào Nguyên Phổ, Phạm Tuấn Phong, Lê Đại. Sau khi thành lập, Lương Văn Can được cử làm Thục trưởng (Hiệu trưởng). Ban đầu trường chỉ có khoảng 30 đến 50 học sinh, đa phần là các thành phần yêu nước tiến bộ và con em các gia đình khá giả. Sau đó thì số lượng người theo học ngày càng đông và có thành phần đa dạng, lúc đông nhất lên tới 1.000 người418. Khi mới thành lập, kinh phí hoạt động của trường đều do các nhà hảo tâm tự nguyện quyên góp, nhưng sau đó thanh thế của trường ngày càng lan rộng, công tác tuyên truyền thực hiện tốt nên nguồn tài chính càng ngày càng phong phú hơn.

Trường Đông Kinh nghĩa thục gồm 3 bậc học: tiểu học, trung học và đại học. Phương pháp và giáo trình dạy học phỏng theo tân học của Trung Quốc và Nhật Bản. Về mặt tổ chức, trường được phân thành 4 ban, gồm: Ban Giáo dục, Ban Tài chính, Ban Cổ động Diễn thuyết và Bình văn, Ban Trước tác419. Ban Tài chính chủ yếu phụ trách các vấn đề tài chính của trường. Ban Cổ động Diễn thuyết và Bình văn tổ chức các hoạt động đọc sách báo, diễn thuyết, thảo luận các vấn đề đáng quan tâm nhằm tuyên truyền và gây ảnh hưởng đến quần chúng nhân dân. Ban Trước tác có trách nhiệm biên tập các bài giảng của thầy giáo cho học sinh và các loại sách mà họ tham khảo. Ban Giáo dục chịu trách nhiệm mở lớp, thu nạp học sinh và giảng dạy tại trường. Ngôn ngữ sử dụng trong giảng dạy của Ban này lại phân thành 3 nhóm: Việt văn420, Hán văn và Pháp văn. Giáo viên dạy học là các nho sỹ ủng hộ phong trào và một số trí thức tiến bộ tham gia vào việc dạy tiếng Việt (chữ quốc ngữ) và tiếng Pháp như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Nguyễn Đình Đức. Các môn học được giảng dạy bao gồm Sử, Địa lý, Toán, Hội hoạ, một số kiến thức khoa học. Trường cũng có thư viện cung cấp sách báo mang tư tưởng tiên tiến của Nhật Bản và Trung Quốc để cho giáo viên và học sinh tham khảo421.

Một trong những người có vai trò quan trọng trong phong trào Đông Kinh nghĩa thục là Nguyễn Văn Vĩnh. Ông là người Hà Đông (phía nam Hà Nội), thông thạo tiếng Pháp, chữ Hán, chữ quốc ngữ và chữ Nôm, là người chịu trách nhiệm tuyên truyền, giảng dạy chữ quốc ngữ và tiếng Pháp tại trường422. Vào tháng 4
năm 1907,
ông và Lương Văn Can cùng thành lập hội phiên dịch nhằm dịch các sách từ tiếng Hán, tiếng Pháp, chữ Nôm sang chữ quốc ngữ. Ông cũng cùng với một người Pháp mở nhà in và còn là chủ biên, chủ bút của nhiều tờ báo, tạp chí khi đó như: Đại Nam Đồng Văn nhật báo, Đăng Cổ tùng báo, Notre Journal, Đông Dương tạp chí, Trung Bắc tân văn. Trong đó, quan trọng nhất là vai trò chủ bút tờ Đông Dương tạp chí423. Về mặt chính trị, Nguyễn Văn Vĩnh chủ trương “Duy tân Âu hoá”, cuối cùng thành lập nhà nước Việt Nam Cộng hoà. Ông cho rằng tuy nước Pháp xâm lược Việt Nam nhưng họ có nền văn minh tiến bộ đáng để chúng ta học tập. Do đó ông ra sức dịch lại các sách báo tiếng Pháp để giới thiệu cho nhân dân Việt Nam nhằm nâng cao văn hoá Việt Nam, lấy đó làm cơ sở cho sự độc lập của quốc gia424. Để có thêm nhiều kinh phí cho việc in ấn và các hoạt động, ông đã sang Lào để tìm vàng và cuối cùng bị bệnh mất tại Lào vào tháng 5 năm 1936425.

Theo Chương Thâu thì nội dung hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục có thể phân thành chín loại: Thứ nhất, phản đối cổ học, các nhà lãnh đạo của Đông Kinh nghĩa thục cho rằng việc giảng dạy Hán học theo truyền thống đã không còn hợp thời nữa, nên để cho nhân dân tiếp thu nền văn minh mới và tư tưởng mới. Thứ hai, phản đối văn nhân Nho gia cũ. Thời đó khi mà các nhà Nho cũ đã trở nên quan liêu thối nát và mang nặng tư tưởng phong kiến, chỉ mong muốn được làm quan mà không dám thừa nhận rằng Việt Nam đã đứng trước bờ vực thất bại và đi đến vong quốc. Thứ ba, phản đối chữ Hán. Không ít người viết bài phê phán chữ Hán khó học, khó hiểu, không có lợi cho việc vận động giáo dục toàn dân. Ngay như Phan Chu Trinh cũng phát biểu rằng không phế bỏ việc dùng chữ Hán thì không có cách nào cứu nước Nam426, ông cũng cho rằng phải phế bỏ chữ Hán


mới có thể nâng cao dân trí. Thứ tư, phản đối việc tổ chức thi cử theo lối cổ.
Thời gian này, triều đình Nguyễn dưới sự bảo hộ của Pháp, thỉnh thoảng vẫn tổ chức các kỳ thi. Những nhà đề xướng của phong trào Đông Kinh nghĩa thục cho rằng chế độ khoa cử cũ đã không còn thích ứng với thời đại, không lựa chọn được người tài cho đất nước vì vậy họ có chủ trương bãi bỏ chế độ khoa cử. Thứ năm, đề xướng việc sử dụng chữ Latinh (chữ quốc ngữ). Nền giáo dục quốc dân muốn thành công và phổ cập thì quan trọng nhất là công cụ. Mà so với chữ Hán và chữ Nôm, chữ Latinh là một loại văn tự đơn giản, dễ học hơn rất nhiều. Do vậy phong trào đã coi việc giáo dục và phổ cập chữ Latinh tiếng Việt (chữ quốc ngữ) là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Thứ sáu, đề xướng phương pháp mới. Thứ bảy, đề cao nhân bản, phát huy năng lực sáng tạo. Thứ tám, nâng cao tinh thần dân tộc và lòng yêu nước của nhân dân. Và cuối cùng là tăng cường giáo dục cơ sở và giáo dục chuyên nghiệp427.

Đông Kinh nghĩa thục sau khi thành lập và phát triển đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt liệt của quần chúng nhân dân, chính vì vậy đã làm cho chính quyền thực dân Pháp chú ý. Nhận ra mối nguy hiểm của phong trào đối với việc cai trị của chúng, Pháp đã đóng cửa trường Đông Kinh nghĩa thục vào tháng 12 năm 1907, sau hơn một năm hoạt động. Mặc dù tồn tại trong thời gian ngắn nhưng Đông Kinh nghĩa thục đã có ảnh hưởng lớn về mọi mặt đối với xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX như văn hoá, chính trị, kinh tế, giáo dục v.v....428

Mặc dù Đông Kinh nghĩa thục chỉ tồn tại chưa đến một năm đã bị buộc phải đóng cửa nhưng chủ trương của họ được giới trí thức ủng hộ và đồng tình. Dưới ảnh hưởng của phong trào này, việc truyền bá chữ quốc ngữ đã trở thành chủ trương và tiêu chí hoạt động chính của những người theo chủ nghĩa dân tộc Việt Nam. Phong trào cũng tạo ra khí thế học tập, xuất bản báo chí chữ quốc ngữ429. Theo thống kê đến năm 1930, toàn Việt Nam có khoảng 75 tờ báo viết bằng chữ quốc ngữ 430.

4. Sự thành lập và ảnh hưởng của Hiệp hội Văn hoá Đài Loan

Qua nhiều lần khởi nghĩa vũ trang chống Nhật thất bại, nhất là sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Tây Lai Am, người Đài Loan cũng bắt đầu chuyển sang khuynh hướng khởi nghĩa phi vũ trang431. Sự kiện thành lập Hội Đồng hoá Đài Loan (1914) thường được coi là khởi nguồn của phong trào văn hoá tại Đài Loan đầu thế kỷ XX.

Sau khi Cách mạng Trung Quốc thành công, năm 1913, Lâm Hiến Đường đã đến Bắc Kinh gặp lại Lương Khải Siêu. Thông qua sự sắp đặt của Lương Khải Siêu, Lâm Hiến Đường được gặp và làm quen với một số yếu nhân của Trung Quốc đương thời, từ đó hiểu rõ hơn tình hình, thế cục của Trung Quốc. Lần gặp gỡ này giúp Lâm Hiến Đường chứng thực được những lời trước đây Lương Khải Siêu đã nói với ông tại Nhật Bản: “Trong vòng 30 năm, Trung Quốc không thể giúp được gì cho Đài Loan”432. Vì vậy một lần nữa, ông quay trở lại Nhật Bản. Lần này ông tình cờ gặp được Itagaki Taisuke, một nguyên lão khai quốc của Nhật Bản. Bình thường Itagaki Taisuke là người chủ trương “Hai dân tộc Nhật, Hoa nên kết đồng minh với nhau nhằm duy trì hoà bình ở khu vực Đông Á và dùng người Đài Loan làm cầu nối cho sự liên kết này”433. Do vậy hai người vừa gặp nhau đã đàm thoại rất vui vẻ. Năm sau đó, Lâm Hiến Đường mời Itagaki Taisuke sang thăm Đài Loan. Đây là lần đầu tiên Itagaki Taisuke đến thăm Đài Loan và ông đã được người Đài Loan nhiệt liệt hoan nghênh. Những người có liên quan, nhân cơ hội này, đã chính thức thành lập Hội Đồng hoá Đài Loan vào ngày 20 tháng 12 năm 1914 và Itagaki Taisuke trở thành Hội trưởng đầu tiên của Hội434.

Mặc dù tên của Hội này là “Đồng hoá Đài Loan” nhưng mỗi thành viên trong đó có cách hiểu khác nhau về “đồng hoá” và họ trở thành những con người “đồng sàng dị mộng” với nhau. Những người Nhật Bản theo tư tưởng tự do của Itagaki Taisuke thì cho rằng Đài Loan và Nhật Bản là “đồng văn, đồng chủng” vì vậy nên đoàn kết, làm cầu nối giữa Trung Quốc và Nhật Bản, thúc đẩy các quốc gia ở châu Á liên minh chống lại sự xâm lược của người da trắng. Để đạt được mục tiêu này thì cần đồng hoá người Đài và người Nhật nhằm tăng cường lợi ích cho cả hai bên435. Đối với người Đài Loan, có thể cũng có một số người kỳ vọng vào công cuộc đồng hoá này nhưng đa phần chỉ lấy đó làm cớ khiến tổng đốc Đài Loan phải nới lỏng chính sách đàn áp trước đó436. Do trong thời gian ở Đài Loan, Itagaki Taisuke đã phê phán gay gắt thái độ đối xử bất công đối với người Đài của chính quyền Nhật Bản và Tổng đốc Đài Loan nên Tổng đốc Đài Loan và những người Nhật Bản đang cư trú tại Đài Loan không bằng lòng437. Vì vậy đến ngày 26 tháng 1 năm 1915, Hội bị tố cáo là có nguy hại đến an ninh công cộng và bị Phủ Tổng đốc ra lệnh giải tán.

Hội Đồng hoá Đài Loan tuy chỉ thành lập trong một thời gian ngắn rồi bị giải tán nhưng từ đó ý thức đối kháng văn hoá ở người Đài Loan ngày một tăng và đa dạng hoá. Vào năm 1918, một số lưu học sinh Đài Loan tại Tokyo đã tổ chức thành một hội lấy tên là “Khởi Phát hội” bao gồm các thành viên như Lâm Trình Lộc, Thái Thức Cốc, Thái Bồi Hoả và họ đã bầu Lâm Hiến Đường làm Hội trưởng. Mục tiêu của Hội là triệt để xoá bỏ “Án pháp sáu ba”438, nhưng sau đó do các nguyên nhân khách quan và cục diện trong nước và ngoài nước thay đổi nên Hội đã tự động giải tán vào tháng 3 năm 1919. Sau đó vào ngày 11 tháng 1 năm 1920 các lưu học sinh Đài Loan tại Tokyo lại sáng lập Tân Dân hội do Thái Huệ Như làm Hội trưởng, đồng thời hội cũng thành lập tạp chí Thanh niên Đài Loan là cơ quan vận động khai sáng dân tộc. Tạp chí này do Thái Bồi Hoả chủ biên439. Do các thành viên của Tân Dân hội đa số là lưu học sinh nên để phân biệt với những người không phải là học sinh, họ lại thành lập Hội “Thanh niên Đài Loan Tokyo”, trong đó học sinh làm thành phần chủ yếu. Tân Dân hội giữ vai trò chỉ đạo và lấy danh nghĩa hội Thanh niên để thi hành các hoạt động đã được đề ra440. Thời kỳ đầu hoạt động chủ yếu của Hội cũng chỉ là vận động xoá bỏ “án pháp sáu ba” và vận động tình nguyện xây dựng hội Đài Loan 441.

Năm 1921, một thanh niên sống tại đảo Đài Loan là Tưởng Vị Thuỷ được Lâm Thuỵ Đằng giới thiệu làm quen với Lâm Hiến Đường. Tưởng Vị Thuỷ và Lâm Hiến Đường đều nhận ra rằng tại đảo Đài Loan vẫn chưa có một đoàn thể nào dẫn dắt phong trào cách mạng và họ đã bàn bạc về việc tổ chức một đoàn thể như vậy442. Ngày 17 tháng 10 năm 1921, Hiệp hội Văn hoá Đài Loan được thành lập tại trường tư thục Dadaocheng Blessed Imelda's School 大稻埕靜修 女子學校) tại Đài Bắc. Mục đích của Hội là giúp đỡ sự phát triển của văn hoá Đài Loan. Khi đó, Lâm Hiến Đường là Chủ tịch và Tưởng Vị Thuỷ là Giám đốc chuyên trách của Hội. Tổng số hội viên là 1032, hội viên thường trực là hơn 300 người443. Ban đầu tổng bộ đặt ở Đài Bắc, đến tháng 10 năm 1923 chuyển về Đài Nam, do Thái Bồi Hoả làm Giám đốc chuyên trách.

Nội dung hoạt động chủ yếu của Hiệp hội Văn hoá Đài Loan gồm: Thứ nhất, phát hành báo hội. Thứ hai, thành lập phòng đọc báo. Thứ ba, tổ chức các hoạt động diễn tập. Thứ tư, mở trường học hè. Thứ năm, tổ chức các hoạt động diễn thuyết. Thứ sáu, tổ chức “hội những người yếu thế” nhằm chống đối lại “hội những người có quyền”. Thứ bảy, đề xướng phong trào kịch nói văn hoá. Thứ tám, sáng lập “Hội Mỹ Đài”, lấy việc chiếu phim để tuyên truyền văn hoá.

Sau khi thành lập, Hiệp hội Văn hoá Đài Loan đã tạo nên ảnh hưởng rộng rãi, bao gồm phong trào của đoàn thanh niên, học thuật, khai sáng tư tưởng, giác ngộ công nhân, luận chiến văn học cũ mới, lập công ty tín dụng Đại Đông, lập Văn hoá Thư cục và Trung ương Thư cục v.v…

Trước thế kỷ XX, ở Đài Loan, tuy đã xuất hiện những tác phẩm văn học bạch thoại tiếng Đài viết bằng chữ Latinh nhưng những người sử dụng chỉ giới hạn trong phạm vi giáo hội. Hiện tượng người đọc chủ yếu sử dụng văn ngôn Hán đến sau thời Nhật Bản thống trị Đài Loan mới dần dần thay đổi. Sự biến đổi này càng trở nên rõ rệt sau khi Hiệp hội Văn hoá Đài Loan dấy lên cuộc luận chiến giữa văn học cũ và mới444. Những người ủng hộ văn học mới cho rằng, thay thế văn ngôn bằng văn bạch thoại là cần thiết để thích ứng với trào lưu của thời đại mới và thuận tiện cho việc phổ cập giáo dục. Chủ trương này được nhiều người đương thời đồng tình và hưởng ứng. Tuy nhiên, nên sử dụng loại văn bạch thoại nào? Lúc đó, Đài Loan đang bị Nhật Bản thống trị, giáo dục trong trường học chủ yếu dùng tiếng Nhật. Sử dụng tiếng Nhật tuy thuận tiện nhưng đi ngược lại tinh thần dân tộc của người Đài Loan. Do đó, có người chủ trương sử dụng văn bạch thoại Trung Quốc, như: Trương Ngã Quân, Liêu Dục Văn v.v… Cũng có những người chủ trương dùng tiếng Đài như Hoàng Thạch Huy, Quách Thu Sinh. Phái chủ trương dùng tiếng Đài chủ yếu lấy chữ Hán làm văn tự chính, một số ít chủ trương dùng chữ Latinh445, như Thái Bồi Hoả.

Nếu nhìn lại toàn bộ hoạt động và chương trình của Hiệp hội Văn hoá Đài Loan thì việc truyền bá văn học bạch thoại chủ yếu xoay quanh hai xu hướng:


lấy văn học bạch thoại chữ Hán làm chủ hoặc tiếng Nhật làm chủ446. Tuy sau khi Thái Bồi Hoả lên làm giám đốc chuyên trách, đã lấy việc phổ cập chữ Latinh làm nhiệm vụ chính nhưng việc này chưa được các cán bộ khác trọng thị. Thêm vào đó, Tổng đốc đương thời của Đài Loan cũng không ủng hộ việc truyền bá chữ Latinh nên thành quả của phong trào này còn hạn chế447.

5. Kết luận

So với phong trào Đông Kinh nghĩa thục tại Việt Nam, tại sao các cán bộ của Hiệp hội Văn hoá Đài Loan không coi trọng việc truyền bá chữ Latinh tại Đài Loan? Chủ yếu là do khi đó người Đài Loan vẫn chịu sự bó buộc của vòng văn hoá Hán với “ý thức người Hán, chữ Hán” cũng như còn xa lạ với chữ Latinh.

Việt Nam thời cận đại, nhờ có các nhân tố tác động từ bên ngoài, đã cắt đứt sợi dây ràng buộc với Trung Quốc thông qua văn ngôn chữ Hán. Bên cạnh đó, chính sách đưa chữ Latinh vào giảng dạy tại trường học của Pháp vô hình trung đã giúp cải thiện hiệu quả của công cụ chữ quốc ngữ, nhờ đó nâng cao lực lượng bản địa hoá. Vì thế, Việt Nam mới thoát ra khỏi khối cộng đồng Hán ngữ từ đầu thế kỷ XX, đi theo con đường độc lập dân tộc.

Đài Loan cuối thế kỷ XIX tuy cũng có các nhân tố tác động từ bên ngoài, nhưng bản thân Nhật Bản – thế lực thống trị Đài Loan – lại là một quốc gia thuộc vòng văn hoá Hán. Vì vậy sự hỗ trợ của nó đối với nguyện vọng thoát khỏi khối cộng đồng chữ Hán của Đài Loan là không lớn. Nếu năm 1884, “chiến tranh Thanh – Pháp” mà Pháp chiếm được cả Đài Loan lẫn Việt Nam thì lịch sử cận đại Đài Loan đã có thể viết lại và Đài Loan có lẽ đã dùng chữ Latinh thay vì chữ Hán.



Tại sao nói sự thống trị của Nhật không giúp Đài Loan thoát khỏi vòng văn hoá Hán? Bởi vì, từ năm 1868, sau cải cách Minh Trị Duy Tân, tuy Nhật rất chú trọng “thoát Hán nhập Âu”, đồng thời rất coi trọng cải cách ngôn ngữ văn tự và giáo dục 448 nhưng những cải cách chữ viết ở Nhật hầu như chỉ nhằm nâng cao tỷ lệ chữ Kana chứ không phải là nhằm bãi bỏ hoàn toàn chữ Hán. Tại sao Nhật Bản không bãi bỏ hoàn toàn chữ Hán? Vì từ 1931, sau khi Nhật Bản gây nên “sự kiện Mãn Châu”, đổ toàn lực vào việc chiếm vùng Đông Bắc Trung Quốc, thế lực của những người theo chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản rất lớn. Do nhu cầu ghi lại tên người và các địa danh chiếm được từ Trung Quốc, Nhật phản đối việc xoá bỏ chữ Hán449.

Khi chiếm Đài Loan, tuy ban đầu Nhật Bản cũng dự định truyền bá tiếng Nhật nhưng thái độ của họ đối với chữ Hán vẫn không rõ ràng là ủng hộ hay không ủng hộ. Tổng đốc Đài Loan thậm chí vẫn thường xuyên tổ chức hội thơ chữ Hán, lôi kéo các nhà văn Đài Loan tới nghe ngâm thơ nhằm rút ngắn khoảng cách giữa người Đài và người Nhật450. Người Nhật đã lợi dụng “giá trị thặng dư” của chữ Hán trong vòng văn hoá Hán làm công cụ “mềm hoá” sự phản kháng của người Đài. So với việc Pháp coi chữ Hán là kẻ thù của nước Pháp, là “người thứ ba” thì đây là điểm hoàn toàn khác biệt.

Vì Chính phủ Nhật không bài trừ chữ Hán451, thêm vào đó, trí thức Đài Loan còn xa lạ với việc sử dụng chữ Latinh như một công cụ trong sáng tác văn học (vì chữ Latinh chưa từng được giáo dục trong trường học) nên Đài Loan đã bỏ lỡ mất cơ hội thay thế chữ Hán bằng chữ Latinh nhằm thoát khỏi sự ràng buộc của vòng văn hoá Hán.



1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   18




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương