ĐỂ ĐƯỜng lối cách mạng đÚng đẮn hơN: CÁi nhìn từ LỊch sử


§µO NGUY£N PHæ (1861 - 1908), MéT TR¦êNG HîP TI£U BIÓU CñA Sù HéI NHËP V¡N Ho¸ TÝCH CùC



tải về 4.82 Mb.
trang14/18
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích4.82 Mb.
#35473
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   18

§µO NGUY£N PHæ (1861 - 1908),
MéT TR¦êNG HîP TI£U BIÓU
CñA Sù HéI NHËP V¡N Ho¸ TÝCH CùC

G



KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO QUOÁC TEÁ VIEÄT NAM HOÏC LAÀN THÖÙ BA

TIEÅU BAN LÒCH SÖÛ VIEÄT NAM HIEÄN ÑAÏI





S Đinh Xuân Lâm


1. Đào Nguyên Phổ sinh năm Tân Dậu (1861), đúng 4 năm sau khi hạm đội Pháp do Phó Đô đốc Rigault de Genouilly chỉ huy nổ súng tấn công cửa biển Đà Nẵng ở miền Trung, phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam (1858). Ông lớn lên tại một làng quê – làng Thượng Phán, tổng Đông Trực, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình (nay là xã Quỳnh Hoàng, huyện Quỳnh Phụ), rồi học với cha tại nhà, và ngay khoa thi năm Bính Tý (1877) đã đỗ Cử nhân, lúc mới 17 tuổi.

Thời kỳ Đào Nguyên Phổ sinh ra, lớn lên, đi học và thành đạt là một thời cực kỳ rối loạn của lịch sử Việt Nam, được đánh dấu bởi nhiều sự kiện tiêu biểu: Năm 1862, trước áp lực quân sự của thực dân Pháp, triều đình Huế phải ký Hiệp ước ngày 5 – 6 – 1862 cắt ba tỉnh Đông Nam Kỳ (Gia Định, Định Tường, Biên Hoà) cho Pháp, tạo điều kiện cho chúng tới giữa năm 1867 đánh chiếm luôn ba tỉnh Tây Nam Kỳ (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên), nuốt gọn toàn bộ Nam Kỳ lục tỉnh, để rồi 10 năm sau trên đà thắng thế lại ngang ngược kéo quân ra đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ nhất (1873).

Trong khi tình hình đối ngoại cực kỳ căng thẳng, thì tình hình đối nội cũng không kém phần khó khăn. Năm 1866, một cuộc khởi nghĩa lớn của binh lính và thợ thuyền tập trung để xây dựng Khiêm Lăng đã bùng nổ ngay tại kinh thành Huế để phản đối chính sách cắt đất cầu hoà của vua Tự Đức. Nghĩa quân dưới sự chỉ huy của một số quan lại, văn thân, sỹ phu như Đoàn Hữu Trưng, Đoàn Tư Trực, Trương Trọng Hoà, trong số đó có cả người dòng họ nhà vua như Tôn Thất Cúc, đã kéo về đột nhập Hoàng thành định bắt vua Tự Đức nhường ngôi cho một ông vua khác cũng thuộc dòng họ Nguyễn, nhưng có tinh thần chống Pháp. Cuộc khởi nghĩa ở Huế – nhân dân quen gọi là khởi nghĩa Chày Vôi vì vũ khí của nghĩa quân chỉ là những chiếc chày gỗ dùng để giã vôi tại công trường xây lăng – bị triều đình trấn áp dữ dội nên nhanh chóng bị dập tắt trong biển máu. Nhưng sự kiện này đã đánh dấu sự suy đốn cùng cực của triều Nguyễn, sự phân hoá kịch liệt ngay trong hàng ngũ đại phong kiến, đồng thời cũng cho thấy sự phẫn nộ cao độ của các tầng lớp nhân dân đối với giai cấp phong kiến thống trị.

Bối cảnh lịch sử trong và ngoài đó là hoàn cảnh cho một trí thức Nho học truyền thống có điều kiện phát huy lòng yêu nước thương dân trên cơ sở tinh thần chống xâm lược của dân tộc. Việc Đào Nguyên Phổ thi đậu Cử nhân năm 1877 là bước ngoặt thứ nhất trong cuộc đời ông. Sau khi thi đỗ, ông không đi ngay vào con đường làm quan, mà ra dạy học một thời gian khá dài đến 5 năm (1878 – 1883) ở Duyên Hà (Thái Bình) và Phù Cừ (Hưng Yên) để tới năm 1884 mới chính thức nhận một chức học quan (Giáo thụ) ở huyện Tam Nông (Hưng Hoá, tức vùng Phú Thọ ngày nay).

Năm 1884, Đào Nguyên Phổ bắt đầu ra làm quan là một năm đáng ghi nhớ. Trước đó một năm, thành Hà Nội đã bị mất lần thứ hai vào tay giặc Pháp và triều đình Huế phải ký hai hiệp ước Quý Mùi (25 – 8 – 1883) và Giáp Thân (6 – 6 – 1884) đánh dấu sự đầu hàng của giai cấp phong kiến Việt Nam trước sức tấn công hung bạo của chủ nghĩa tư bản Pháp đang trong thời kỳ tiến lên chủ nghĩa đế quốc. Tiếp liền sau đó là việc Pháp đánh chiếm kinh thành Huế (đêm mồng 4 rạng sáng mồng 5 tháng 7 năm 1885), rồi vua Hàm Nghi xuống Chiếu Cần Vương (13 – 7 – 1885) phát động một cao trào yêu nước chống Pháp trong nhân dân – trong đó có sự tham gia tích cực của giới văn thân sỹ phu – là những trí thức dân tộc thời đó.

Tất cả các sự kiện dồn dập đó không khỏi tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến Đào Nguyên Phổ – một nhà nho truyền thống có ý thức rõ rệt về trách nhiệm của mình trong cơn nguy khốn của đất nước.

Dạy học một thời gian, ông được cử làm Tri huyện Võ Giàng (Bắc Ninh), nhưng chỉ một thời gian ngắn đã bị bãi chức (1891) vì để mất trộm tiền thuế của huyện.

Việc Đào Nguyên Phổ bị bãi chức năm 1891 đã chấm dứt thời kỳ học tập thành đạt, rồi tiến thân trên con đường cử nghiệp và quan trường truyền thống, để bước vào một thời kỳ mới. Chỉ một thời gian không lâu sau khi bị bãi chức, ông đã về quê (1894), rồi lại tiếp tục đi dạy học ở Nam Định, vì vậy đã có điều kiện giao du với nhiều thân sỹ, văn thân, sỹ phu các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nội, Thanh Hoá. Kết bạn tâm giao với một số người như Nguyễn Hữu Cương (Cả Cương) là con nhà văn thân yêu nước Nguyễn Mậu Kiến đất Thái Bình, người mà năm 1873 đã xung phong tập hợp các thanh niên yêu nước của quê hương, rồi vượt sông kéo sang tham gia đánh giặc Pháp khi chúng nổ súng chiếm thành Nam Định và xâm phạm quê hương Thái Bình.

Chính thời kỳ này Đào Nguyên Phổ đã kết bạn tâm giao với Nguyễn Thượng Hiền, đậu Hoàng giáp, làm việc ở Quốc sử quán (Huế), sau giữ chức Đốc học Ninh Bình, rồi Nam Định. Trong thời gian làm quan ở Huế, Nguyễn Thượng Hiền đã đọc nhiều Tân thư của Trung Quốc, vì vậy đã tiếp thu ảnh hưởng tư tưởng dân chủ tư sản, duy tân cải cách. Sau đó, lại được gặp các nhà yêu nước tiến bộ như Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh nên ông có cảm tình với phong trào yêu nước chống Pháp và tích cực ủng hộ phong trào Đông du đưa học sinh sang Nhật Bản cầu học. Năm 1908, Nguyễn Thượng Hiền bỏ quan, xuất dương sang Trung Quốc, Nhật Bản, cùng Phan Bội Châu hoạt động.

Nguyễn Thượng Hiền đã khuyên ông vào Huế theo học trường Quốc tử giám, trường này tuy là một nhà trường chính quy của triều đình, nhưng đã chịu ảnh hưởng tư tưởng mới, bản thân như vị Tế tửu (Hiệu trưởng) nổi tiếng có nhiều sách Tân thư, điều đó không khỏi tác động đến các học sinh nhà trường. Đây là một dịp may để Đào Nguyên Phổ đọc các Tân thư, Tân văn của thư viện nhà vị Tế tửu, ông này đã mến vì tài, yêu vì chí của người học trò xuất sắc nên gả con gái cho học trò của mình.

Trong điều kiện học tập thuận lợi đó, kết hợp với tài năng và ý chí có sẵn, khoa Mậu Tuất (1898) ông đã đỗ đầu kỳ thi Đình (Hoàng giáp). Rồi được bổ dụng làm quan tại triều, sung chức Hàn lâm thừa chỉ chuyên soạn thảo các đạo dụ và chiếu chỉ của nhà vua. Thời gian này ông đã kết giao với một số sỹ phu yêu nước có tư tưởng đổi mới như Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng…, nhờ vậy nhãn quan chính trị được mở rộng, nhận thức chính trị phát triển theo xu hướng tiến bộ một cách mạnh mẽ, dứt khoát hơn.

Thêm vào đó, cũng vào thời kỳ này một điều kiện mới đã tới với Đào Nguyên Phổ. Đó là việc thực dân Pháp chủ trương mở rộng nền giáo dục Pháp – Việt, đề cao việc dùng tiếng Pháp trong nhà trường và ngoài xã hội để phục vụ đắc lực cho công cuộc khai thác bóc lột thuộc địa trên quy mô lớn – đây là thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ nhất từ năm 1897. Đào Nguyên Phổ được chọn vào học theo lối mới tại Pháp tự Quốc gia học đường ở Huế (1898) với chuyên ngữ tiếng Pháp, chỉ một thời gian sau ông đã có thể sử dụng tiếng Pháp, tạo một điều kiện rất cơ bản để có thể làm quen với tư tưởng dân chủ của Cách mạng tư sản Pháp, cũng như nhận thức về bước tiến hoá xã hội sâu sắc hơn. Như trên đã nói, có thể khẳng định việc Đào Nguyên Phổ bị bãi chức về quê năm 1891, rồi sang Nam Định dạy học đã tạo nên bước ngoặt thứ hai vô cùng quan trọng trong cuộc đời ông, mở ra cho ông nhiều triển vọng mới.

Sau khi tốt nghiệp Pháp tự Quốc gia học đường, Đào Nguyên Phổ cũng chỉ làm quan được hơn một năm (1901 – 1902) – tư tưởng một khi đã đổi mới thì làm sao ông có thể cam chịu thân phận một công chức – dù cho một công chức cao cấp – “sáng vác ô đi, tối vác về” trong một cơ quan do chính kẻ thù của dân tộc mở ra để phục vụ chúng. Ông đã nộp đơn xin từ chức để trở ra Hà Nội, và đây là bước ngoặt thứ ba trong cuộc đời ông.

Hà Nội lúc này đã trở thành thủ phủ của Liên bang Đông Dương, trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội của toàn xứ thuộc địa, là nơi đang diễn ra nhiều biến chuyển trên bề mặt cũng như dưới chiều sâu trong đời sống xã hội thuộc địa, và vì vậy có sức hấp dẫn mạnh mẽ những người có tinh thần dân tộc sâu sắc, có lòng yêu nước nồng nàn, nuôi nhiều khát vọng cho tương lai của đất nước như Đào Nguyên Phổ. Tại Hà Nội, Đào Nguyên Phổ đã dứt khoát chọn một nghề hoàn toàn mới trong đời sống văn hoá – xã hội Việt Nam lúc đó. Ông đã làm chủ bút Đại Nam đồng văn nhật báo, tờ báo đầu tiên viết bằng chữ Hán xuất hiện ở Hà Nội, một tờ “quan báo” dưới sự chỉ đạo của Nha Kinh lược Bắc Kỳ. Trong công việc mới mẻ này ông đã cộng tác với một người Pháp vốn là chủ nhà in tên là Schneider, ông này đứng làm chủ nhiệm (1903), còn Đào Nguyên Phổ làm chủ bút289. Hai năm sau ông lại cộng tác với một người Pháp khác là Babut (Ernest) lập ra tờ Đại Việt tân báo. Đây là tờ báo tư nhân đầu tiên ở Hà Nội có trụ sở tại số 90 phố Hàng Mã, đồng thời cũng là tờ báo đầu tiên ở Hà Nội ngoài phần chữ Hán còn có phần chữ quốc ngữ, được đông đảo bạn đọc người Việt Nam hoan nghênh tìm đọc, cả đến viên chức trong bộ máy chính quyền bảo hộ và binh lính trong quân đội nguỵ, những người biết chữ quốc ngữ tìm đọc, tạo nên một hiện tượng mới trong xã hội đương thời.

Rõ ràng là với những chuyển biến về tư tưởng có tính tiến bộ, lại trong bối cảnh xã hội Việt Nam đổi mới, việc Đào Nguyên Phổ tham gia việc thành lập Trường Đông Kinh nghĩa thục vào đầu năm 1907 là một việc tự nhiên mang tính tất yếu. Đông Kinh nghĩa thục – như chúng ta đều biết – là một trường học theo lối mới, được thành lập tại Hà Nội (3 – 1907) theo mô hình phương Tây, như Khánh Ứng nghĩa thục của Nhật Bản. Năm 1906 các nhà yêu nước Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh sau khi tham quan Khánh Ứng nghĩa thục tại Tokyo (Nhật Bản), lúc về nước trong một cuộc họp tại làng Nội Duệ (Bắc Ninh) vào cuối năm đó đã quyết định sẽ thành lập Đông Kinh nghĩa thục tại Hà Nội.

Đông Kinh nghĩa thục ra đời tháng 3 năm 1907 tại số 4 phố Hàng Đào (Hà Nội) đã tập hợp được đông đảo các sỹ phu yêu nước với mục đích được xác định cụ thể:

– Nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc và chí tiến thủ cho quần chúng.

– Truyền bá một nền tư tưởng học thuật mới và một nếp sống văn minh tiến bộ.

Phối hợp hành động với các sỹ phu đã xuất dương và hỗ trợ cho phong trào Đông du của Phan Bội Châu và phong trào Duy tân đang phát triển trong cả nước.

Đào Nguyên Phổ ngay từ đầu đã hoan nghênh chủ trương thành lập Đông Kinh nghĩa thục, mục đích nhà trường hoàn toàn phù hợp với chí hướng của ông nên ông hăng hái tham gia thành lập trường và tích cực hoạt động cho nhà trường. Ông ở trong Tiểu ban Giáo dục, trực tiếp giảng dạy ban Hán văn, và Tiểu ban Trước tác, viết ít nhất 3 cuốn sách giáo khoa sử dụng trong nhà trường290. Trong thời kỳ phát triển sôi nổi của Đông Kinh nghĩa thục, ảnh hưởng của trường đã mở rộng ra nhiều địa phương, trong số đó có quê hương Thái Bình của Đào Nguyên Phổ. Các huyện Kiến Xương, Đông Hưng, Hưng Hà, Quỳnh Phụ đều có các nghĩa thục hoạt động, tình hình đó dứt khoát phải có ảnh hưởng và vai trò của Đào Nguyên Phổ.

Nhưng rồi chính quyền thực dân Pháp đã sớm nhận rõ tính chất yêu nước cách mạng của Đông Kinh nghĩa thục, hoàn toàn đây không phải chỉ đơn thuần là một trường học. Thực chất, nó đóng vai trò một tổ chức cách mạng của các sỹ phu yêu nứơc tiến bộ để hưởng ứng cuộc vận động cứu nước do Phan Bội Châu phát động. Đông Kinh nghĩa thục đã nuôi dưỡng được một phong trào cách mạng công khai, hợp pháp khá sôi nổi, quyết liệt trên mặt trận đấu tranh văn hoá và tư tưởng theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Đó cũng là một cuộc vận động chính trị chuẩn bị về tinh thần và tư tưởng cho sự nghiệp đấu tranh Cách mạng dân tộc dân chủ trong thời đại mới.

Với phạm vi hoạt động ngày càng lan rộng, ảnh hưởng trong nhân dân ngày càng lớn, Đông Kinh nghĩa thục trong thực tế đã trở thành một nguy cơ lớn cho thực dân Pháp ở Việt Nam, trở thành “một cái lò phiến loạn ở Bắc Kỳ”, như phiên họp của Hội đồng quân sự Đông Dương nhận định. Tháng 12 – 1907, thực dân Pháp chính thức rút giấy phép, đóng cửa trường, các sách vở và tài liệu của nhà trường đều bị tịch thu. Đông Kinh nghĩa thục chỉ hoạt động được gần 9 tháng (từ tháng 3 đến tháng 11 – 1907). Nhưng phong trào yêu nước cách mạng vẫn ấp ủ trong nhân dân, để đến đêm 27 tháng 6 năm 1908, sau nhiều lần trì hoãn, vụ đầu độc binh lính Pháp đóng trong thành Hà Nội được tiến hành, có sự phối hợp với nghĩa quân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám phái về.

Nhưng kế hoạch hành động của những người yêu nước nhanh chóng bị lộ, thực dân Pháp đã kịp thời đối phó, đẩy mạnh cuộc điều tra, khủng bố, nhiều người cầm đầu đã bị bắt và kết án nặng, từ tù chung thân đến tử hình vắng mặt, nhiều người bị án chém.

Nhân dịp này, thực dân Pháp đẩy mạnh việc lùng sục, bắt bớ những người đã hoạt động trong Đông Kinh nghĩa thục, trong số đó có Đào Nguyên Phổ, may lúc đó ông không có nhà nên đã thoát nạn. Nhưng cũng từ đây thực dân Pháp lùng sục ông ráo riết, đối với chúng, ông là một đối thủ lợi hại cần thanh trừng gấp. Trước tình hình nguy cấp đó, để tránh liên luỵ cho gia đình người bạn thân đã nuôi giấu ông, và để không rơi vào tay giặc, ông đã chọn cho mình cái chết tại phố Hàng Than (ngày 26 – 6 – 1908, tức ngày 24 – 5 năm Mậu Thân) ở tuổi 49, nêu cao tấm gương nghĩa liệt vì dân vì nước. Sau khi ông mất, gia đình và bạn bè bí mật đưa ông về mai táng ở quê hương Thái Bình trong sự cảm phục và lòng tiếc thương vô hạn của bạn bè, đồng bào, đồng chí.








QUAN §IÓM LÞCH Sö VÒ C¤NG §OµN ë C¸C N¦íC X· HéI CHñ NGHÜA
QUA KH¶O S¸T VIÖT NAM Vµ TRUNG QUèC




KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO QUOÁC TEÁ VIEÄT NAM HOÏC LAÀN THÖÙ BA

TIEÅU BAN LÒCH SÖÛ VIEÄT NAM HIEÄN ÑAÏI





NCS Lý Hân Nho


1. Đặt vấn đề

Trung Quốc và Việt Nam là hai quốc gia có sự tăng trưởng kinh tế tương đối nhanh trong giai đoạn hiện nay. Bắt đầu từ năm 1978, Trung Quốc tiến hành chính sách cải cách mở cửa, nền kinh tế tập trung xã hội chủ nghĩa chuyển dần sang nền kinh tế thị trường. Hai quốc gia này đã không ngừng thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển nền kinh tế. Năm 1986, Việt Nam đã tiến hành Đổi mới, học tập theo sách lược của Trung Quốc, áp dụng chính sách cải cách mở cửa, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phát triển nền kinh tế trong nước. Hai quốc gia ngày càng tiếp cận với quỹ đạo của thế giới và vào những năm 2001, 2006 lần lượt là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Nguồn vốn đầu tư của Đài Loan vào Trung Quốc đại lục và Việt Nam luôn là một trong những bộ phận quan trọng của tổng số vốn đầu tư nước ngoài của hai quốc gia này. Theo thống kê của Bộ Thương vụ Trung Quốc năm 2002, số vốn đầu tư của Đài Loan vào Trung Quốc chiếm 7,39% tổng số vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Trung Quốc; năm 2004 chiếm 5,14%; năm 2005 chiếm 3,51%; năm 2006 và 2007 là 9,05% và 8,71%291. Vốn đầu tư của Đài Loan vào Việt Nam còn quan trọng hơn, năm 2004 tổng số vốn đầu tư của Đài Loan là 453.000.000 USD, chiếm 20,39% tổng số vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam. Theo số liệu thống kê từ năm 1988 đến năm 2004, số vốn đầu tư của Đài Loan vào Việt Nam chiếm 15,86% tổng số vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam. Như vậy, Đài Loan đã trở thành nhà đầu tư lớn thứ hai ở Việt Nam292. Từ năm 2006, theo thống kê số vốn đầu tư vào Việt Nam chiếm 13,62% trên tổng số vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, Đài Loan đã giành ngôi vị thứ nhất trong các quốc gia, vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam293.

Rất nhiều quốc gia, trong đó có Đài Loan, do lực lượng lao động tập trung, nên sản xuất ở trong nước không đạt hiệu quả, vì vậy họ đã đến các quốc gia có nhân công rẻ, giá thành đất cát, cơ sở hạ tầng thấp để đầu tư. Theo đà phát triển của kinh tế toàn cầu hoá, để thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài, các quốc gia đã áp dụng chế độ lao động và quản lý mềm dẻo, đặc biệt là các quốc gia có trình độ phát triển thấp lại càng áp dụng biện pháp hạ công lao động để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Có học giả đã gọi sự cạnh tranh này là “xuống cõi trầm luân”, trong những quốc gia này bao gồm cả Trung Quốc và Việt Nam (những quốc gia đang cố gắng chuyển sang nền kinh tế thị trường)294.

Mặc dù thể chế chính trị của Trung Quốc và Việt Nam là những nước xã hội chủ nghĩa, vẫn kiên trì dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhưng sau khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, hai quốc gia đã ra sức thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Sự chuyển mình của kinh tế Việt Nam muộn hơn so với Trung Quốc, nhưng do thể chế chính trị và chính sách cải cách kinh tế gần giống nhau, nên có thể suy luận rằng kinh tế Việt Nam đã học hỏi nhiều kinh nghiệm từ cải cách của Trung Quốc, ví dụ như: thân thiện với các nhà đầu tư nước ngoài; giảm bớt sự bảo hộ đối với người lao động, chờ đến khi kinh tế phát triển đến một trình độ nhất định rồi mới tăng cường trở lại bảo hộ người lao động. Cần nói thêm rằng, đầu tư của Đài Loan vào Việt Nam còn quan trọng hơn Trung Quốc, tức là có thể nói những xí nghiệp của Đài Loan ở Việt Nam sẽ phải được nhiều dự án hơn ở Trung Quốc, Chính phủ Việt Nam phải đưa ra nhiều điều kiện lao động và áp dụng những điều kiện đầu tư rộng rãi hơn Trung Quốc. Nhưng cho đến tận bây giờ, có nhiều văn kiện đã nói trên thực tế Việt Nam rất coi trọng lợi ích của người lao động và tạo điều kiện cho họ một không gian dễ phát ngôn hơn Trung Quốc. Sự khác biệt của Trung Quốc và Việt Nam đã thu hút sự chú ý của rất nhiều học giả, có những chuyên gia đã đưa ra những ví dụ như: chế độ hộ khẩu, chế độ nhà ở và vai trò của nhân tố công đoàn… để giải thích rằng có thể do kinh tế Việt Nam còn đang ở giai đoạn tương đối lạc hậu so với Trung Quốc, nên đưa ra biện pháp bảo hộ công nhân mạnh hơn Trung Quốc. Sự ảnh hưởng mạnh hay yếu của Công đoàn đối với người lao động được coi là nhân tố khác biệt thu hút sự chú ý của các học giả được nhiều nhất295. Đương nhiên, những văn kiện này mặc dù có thể quan sát theo góc độ kinh nghiệm, nhưng trên thực tế hy vọng của hai chính phủ với sự tuân thủ hợp đồng xã hội với người lao động không giống nhau, đồng thời nếu đem quy nạp vào năng lực của công đoàn thì cũng có sự khác biệt. Vấn đề đặt ra ở đây là tại sao Trung Quốc và Việt Nam cùng là những nước xã hội chủ nghĩa nhưng tổ chức công đoàn của hai nước này lại có sự khác biệt như vậy? Hy vọng với bài viết này, tác giả sẽ góp phần làm rõ vấn đề đó.



2. Nội dung chính

Đứng ở góc độ nhà nước và quốc gia để xem xét, những quốc gia có sự lãnh đạo là Đảng Cộng sản thì được coi là một trong những quốc gia có hình thức chủ nghĩa nghiệp đoàn (Corporatism). Trong bài viết này tác giả cũng lấy quan điểm trên để phân tích các văn kiện của Trung Quốc296. Theo đà cải cách mở cửa, các tài liệu, văn kiện của Việt Nam ngày càng nhiều và đã có nhiều học giả căn cứ vào mô hình trên để phân tích các văn kiện của Việt Nam297.

Ngoài quan điểm mô hình quốc gia có hình thức chủ nghĩa nghiệp đoàn theo kinh nghiệm của phương Tây, còn có quan điểm nữa đó là căn cứ trực tiếp vào nhà nước mang đặc sắc xã hội chủ nghĩa để định nghĩa chủ nghĩa nghiệp đoàn. Cho rằng trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, chính phủ chủ động sáng tạo ra chế độ, đại biểu cho lợi ích trực tiếp của chính phủ và có nhiều hình thức để tiến vào không gian của các giai cấp khác nhau trong xã hội đa nguyên hoặc sự liên kết khác nhau được hình thành từ lợi ích của các nhóm khác. Cho nên ở các quốc gia xã hội chủ nghĩa, quan hệ giữa nhà nước và các tổ chức nghiệp đoàn (corporate groups) là hệ thống lãnh đạo trực tiếp298. Những tổ chức nghiệp đoàn này lại là cầu nối giữa nhà nước và đại biểu cho lợi ích của cơ quan hay giai cấp đó. Dưới cơ chế hoạt động đó, các tổ chức nghiệp đoàn không được phép có một liên hệ ngang nào khác, tức là thậm chí trong nội bộ đoàn thể có thể tồn tại những lợi ích đối nhau thì hoàn toàn bị phủ nhận299.

Với quan điểm nổi tiếng của Lênin, tổ chức công đoàn trong các nước xã hội chủ nghĩa vẫn là một kiểu chuyển động. Theo cách nhìn của ông thì công đoàn là để hỗ trợ đảng, là bộ phận chuyển động để liên hệ giữa nhà nước và quần chúng. Cho nên, ở những quốc gia đảng cộng sản, công đoàn đóng vai trò truyền bá cho cả hai bên, tức là: một mặt công đoàn truyền đạt ý chí của đảng và nhà nước cho công nhân; mặt khác công đoàn đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân truyền đạt ý nguyện của giai cấp công nhân cho cấp trên. Do vậy, đây là tính lưỡng nguyên cổ điển của công đoàn (classical dualism). Nhưng trên thực tế kết quả của quá trình vận hành này là thông qua hệ thống các cán bộ, tất cả tổ chức xã hội đều được đưa vào hệ thống quản lý có hiệu quả của thể chế nhà nước. Như vậy, về mặt lý luận, công đoàn đóng vai trò tuyên truyền cho hai bên, nhưng thực chất chỉ có tác dụng đơn: là đại biểu cho nhà nước, căn cứ vào lợi ích quốc gia mà đảng đã định ra để tổ chức và quản lý người lao động. Nhìn từ góc độ của Trung Quốc, khi mới thành lập chính quyền thì tổ chức công đoàn không ít thì nhiều cũng có vai trò nhất định, cùng với sự phát triển của các phong trào chính trị do Đảng Cộng sản Trung Quốc phát động, đã nhanh chóng tăng cường sự khống chế của nhà nước đối với xã hội. Trong nhà nước, cơ chế tổng hoà giữa công đoàn và công nhân dần dần bị suy yếu300.

Nhưng tình hình ở Việt Nam có chút khác biệt. Mặc dù thời kỳ đầu mới thành lập cũng giống như Trung Quốc, vai trò của công đoàn cũng rất mờ nhạt. Từ sau khi thực hiện chính sách Đổi mới, vẫn dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhưng Việt Nam lại xây dựng được một chế độ bảo hộ người lao động rất tốt và cũng tạo điều kiện cho công đoàn có nhiều quyền lợi hơn. Sự khác biệt này đương nhiên không thể căn cứ vào lý luận về thể chế nhà nước mà giải thích được.

Nhưng vấn đề đặt ra là tại sao cùng là những quốc gia do đảng cộng sản lãnh đạo ở châu Á, nhưng tại sao quyền hạn của Công đoàn Trung Quốc và Việt Nam lại có những khác biệt như vậy? Nếu như bỏ qua mạch tư duy của các nước thì cũng có một câu hỏi được đặt ra: tại sao cùng là những nước đang tiến hành cải cách mở cửa, cùng là những quốc gia đang thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, nhưng Việt Nam lại đưa ra những điều kiện bảo hộ tương đối tốt cho người lao động và rất nhiều các công ty đầu tư nước ngoài đều nhận thấy người lao động Việt Nam không dễ quản lý, thậm chí họ còn hoài nghi và cho rằng đằng sau những cuộc bãi công của công nhân có sự ủng hộ của Chính phủ Việt Nam?301 Có thể là trong quá trình phát động cải cách mở cửa, Chính phủ Trung Quốc đã không giữ được lời hứa với người lao động. Nhưng Chính phủ Việt Nam lại cho rằng chính phủ dứt khoát phải có trách nhiệm duy trì hợp đồng xã hội với giai cấp công nhân302? Đây chính là nội dung chính của bài viết này.

Nhìn vào lịch sử phát triển của Công đoàn Trung Quốc, đã có 5 lần xảy ra xung đột giữa Đảng và Công đoàn, xung đột này đều xuất phát từ khi xuất hiện các cuộc đấu tranh chính trị trong các tầng lớp cao cấp của Đảng. Từ đó Công đoàn đã thử tìm kiếm nhiều hơn về tính tự chủ, nhưng một khi các cuộc tranh giành quyền lực của các nhà chính trị kết thúc, tính tự chủ của Công đoàn sẽ lập tức bị các cơ quan của nhà nước trấn áp, Công đoàn sẽ lại một lần nữa phải phục tùng303. Khi chúng ta dùng quan điểm của “Chủ nghĩa quyền lực phân lập”304 (fragmented authoritarianism) có thể cho thấy Công đoàn trở thành chiến trường cho cuộc đấu tranh về quyền lực chính trị, tức là cán bộ Công đoàn phải thuần phục và vây xung quanh đường lối, tư tưởng tương đồng với các cán bộ Đảng cao cấp. Sự khống chế của thể chế Đảng không thay đổi, quyền lực chủ đạo của nhà nước với xã hội không đổi, nhưng nếu như kết quả đấu tranh quyền lực trong Đảng là phái phản đối Công đoàn tự chủ thắng, thì Công đoàn sẽ bị trấn áp giống như nhiều lần chỉnh đốn chính trị vào thời Mao Trạch Đông đối với Công đoàn Trung Quốc. Nhưng nếu như kết quả đấu tranh quyền lực trong Đảng là sự cân bằng quyền lực lâu dài, thì Công đoàn sẽ có một không gian hoạt động tự chủ lớn hơn, giống như ở Việt Nam dưới cơ chế “cỗ xe tam mã” thì Công đoàn sẽ đạt được không gian tương đối lớn trong thời gian lâu dài305.

Nhưng, nếu như đứng ở góc độ cuộc đấu tranh quyền lực ở các cơ quan cao cấp để nghiên cứu nguồn gốc sự khác biệt về quyền hạn Công đoàn giữa Việt Nam và Trung Quốc, tác giả nhận thấy nhất định phải nghiên cứu trong khoảng thời gian dài, tìm nguồn gốc để có được lý do chân thực. Như vậy, lý do nghiên cứu tương đối rõ ràng, tình hình tổng thể của cuộc đấu tranh quyền lực ở cấp cao của hai quốc gia và quá trình cách mạng của hai quốc gia có quan hệ chặt chẽ với nhau. Địa vị quốc tế của hai nước trên trường quốc tế vào lúc đó đã gây nên sự khác biệt của quá trình cách mạng giữa hai nước Việt – Trung. Vì lý do đó, tác giả sẽ vận dụng khái niệm về chế độ luận, để lập một cơ cấu giải thích cho từng giai đoạn chế độ lịch sử. Ví dụ như chúng ta coi quyền lực của Công đoàn là một loại chế độ, tức là chế độ này bắt đầu được xây dựng cơ sở từ trước khi chính quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc được thành lập. Phải chăng chế độ thực dân khiến cho tổ chức Công đoàn của Việt Nam và Trung Quốc sản sinh ra sự khác biệt hay sự khác biệt này đã bị thay đổi bởi địa vị của hai quốc gia sau khi hai nước đã được Đảng Cộng sản lên lãnh đạo, hay cơ cấu quyền lực chính trị cao cấp cơ bản được hình thành trong lịch sử đấu tranh. Nói một cách giản đơn hơn, sự lựa chọn chế độ không giống nhau của hai quốc gia vẫn là sự ảnh hưởng của hoàn cảnh lịch sử nhất định trong từng thời kỳ cách mạng, thời kỳ sau là khi quốc gia phải đối mặt với các hoàn cảnh không giống nhau nhưng cho phép chế độ này tiếp tục vận hành và tiếp tục được củng cố. Cuối cùng là khi hai nước bắt đầu cải cách kinh tế, hậu quả của chế độ vận hành đã khiến cho thể chế lao động của Việt Nam thể hiện rõ những hiện tượng mâu thuẫn với lý luận chung.



3. Công đoàn và hành động tập thể của công nhân

Đối với những sự kiện bãi công liên tiếp của công nhân Việt Nam, đa phần phát sinh ở những xí nghiệp có yếu tố đầu tư nước ngoài. Có học giả cho rằng do mô hình quản lý của các xí nghiệp này quá nghiêm khắc306. Nhưng kiểu giải thích này khó thuyết phục được mọi người, khi mà các nhà đầu tư khu vực Đông Á đều áp dụng loại mô hình giống như vậy, bản thân các xí nghiệp đầu tư nước ngoài ở Trung Quốc đều có rất ít phàn nàn về vấn đề này và cũng khó có thể giải thích tại sao một số các cơ quan truyền thông của các nước phương Tây cho rằng: Chính phủ Việt Nam đứng đằng sau các cuộc bãi công. Vì vậy, dưới đây chúng tôi sẽ thông qua việc so sánh chế độ lao động của Việt Nam và Trung Quốc để xác định rõ rằng những cuộc bãi công liên tiếp xảy ra của công nhân Việt Nam nguyên nhân không chỉ là vấn đề quản lý của xí nghiệp. Sau đó đề cập đến sự khác biệt về chế độ lao động của hai quốc gia, trên cơ sở đó tiến thêm một bước chỉ ra sự khác biệt về quyền lợi của tổ chức Công đoàn hai quốc gia này.



Cải cách kinh tế của Việt Nam sau Trung Quốc khoảng 10 năm, nhưng bắt đầu từ thập niên 90 của thế kỷ trước cả hai nước đều chính thức thông qua trình tự lập pháp để định ra chế độ lao động. Năm 1992, Luật Lao động của Trung Quốc đã định ra Luật Công đoàn, năm 1993 định ra Hiến chương Công đoàn toàn quốc nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, năm 2001 lần đầu tiên tiến hành sửa đổi Luật Lao động, năm 2008 chính thức thực hiện Luật Hợp đồng lao động. Ở Việt Nam, Luật Công đoàn, Hiến chương của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và các quy định pháp luật lần lượt được đưa ra vào những năm 1990, 1993 và 1994. Điều đáng chú ý nhất là, mặc dù hai quốc gia có cùng thể chế chính trị định ra lập pháp, nhưng đường đi nước bước mỗi nước lại hoàn toàn không giống nhau. Điều quan trọng hơn nữa là mặc dù pháp lệnh lao động của hai quốc gia có ý đồ duy trì cơ cấu của chủ nghĩa nghiệp đoàn quốc gia mình, nhưng giữa hai quốc gia lại tồn tại rất nhiều sự khác biệt, thậm chí tính tự chủ của Công đoàn ở Việt Nam đã được khẳng định.

Căn cứ vào các văn bản pháp lệnh cho thấy, quyền được bãi công hay không là sự khác biệt lớn nhất của chế độ lao động giữa hai quốc gia. Ở Trung Quốc, mặc dù Luật Lao động, Luật Công đoàn và Luật Công ty đều cho phép công nhân và Công đoàn có quyền “đàm phán tập thể”, “hiệp ước tập thể”, nhưng những quyền lợi này làm cơ sở cho quyền bãi công thì không thể được. Nó không cho phép công nhân thông qua các hành động tập thể để ép giới chủ phải nhượng bộ. Mặc dầu, Công đoàn có thể thương lượng các điều kiện lao động cùng với xí nghiệp, nhưng các thương lượng này chỉ là đáp ứng yêu cầu ở mức thấp nhất của pháp lệnh mà thôi307. Quyền bãi công là hành động tập thể do Công đoàn lãnh đạo, là vũ khí quan trọng để công nhân đạt được phúc lợi. Ở Việt Nam, từ sau khi quyền bãi công được hợp pháp hoá, mặc dù pháp lệnh yêu cầu những điều kiện được bãi công tương đối nghiêm ngặt, khiến cho không có cuộc bãi công nào ở Việt Nam được tiến hành hợp pháp, nhưng Chính phủ Việt Nam từ trước đến nay chưa hề dùng vũ lực để trấn áp bất cứ cuộc bãi công nào, chưa có một công nhân nào tham gia bãi công bị Chính phủ ghi vào biên bản308.

Một trong những sự kiện về lao động mà các nhà nghiên cứu nước ngoài tận mắt chứng kiến là cuộc bãi công từ ngày 28 tháng 12 năm 2005 đến ngày 7 tháng 1 năm 2006 ở khu chế xuất Linh Trung (Thành phố Hồ Chí Minh). Các học giả ước tính có khoảng 42.000 công nhân trong khu chế xuất tham gia cuộc bãi công kéo dài 10 ngày này309. Nguyên nhân của cuộc bãi công là các công nhân cho rằng các xí nghiệp đầu tư nước ngoài không tuân theo pháp lệnh, và đòi tăng lương cơ bản310. Một số các cơ quan liên quan đến chính sách đầu tư nước ngoài của Việt Nam, như Bộ Lao động và Thương binh Xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Đầu tiên là Bộ Lao động và Thương binh Xã hội là cơ quan định ra những quy định về chế độ tiền lương tương đối cho các nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng sau đó do ảnh hưởng của sự biến đổi kinh tế thế giới, giá lương thực ngày càng tăng, cho nên Thủ tướng Phan Văn Khải đã chỉ đạo Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam bắt tay vào việc bàn bạc triển khai điều chỉnh mức lương, nâng mức lương tối thiểu. Hiệp thương cuối cùng đã đứt đoạn, bởi vì Bộ Lao động và Thương binh Xã hội đã ủng hộ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chấp nhận yêu cầu của một số tổ chức đầu tư, chủ trương chỉ nâng 26% lương, điều đó là một khoảng cách khá thấp so với yêu cầu của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là 40%311. Giữa hai bên có bất đồng ý kiến, khiến cho Chính phủ không thể đưa ra quyết định. Sau khi bãi công xảy ra, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam công khai công kích đối phương. Khi đó Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là Đặng Ngọc Chiến đã phê phán các cơ quan quan liêu cắm đầu chạy theo các nhà đầu tư, cho nên mới kéo dài quyết định, cuối cùng mới xảy ra sự kiện bãi công nghiêm trọng như vậy. Nhưng Phạm Minh Huấn, Vụ trưởng Vụ Tiền lương Tiền công, Bộ Lao động Thương binh Xã hội cho rằng về lý Bộ này phải được bàn bạc với các nhà đầu tư nước ngoài, Chính phủ phải ủng hộ kết quả đó312. Trong thời gian này, hai tờ báo của Công đoàn Việt Nam là Lao độngNgười Lao động ra sức kêu gọi công nhân tham gia bãi công.

Ở Trung Quốc, tình hình không giống như vậy. Từ sau khi cải cách mở cửa, ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam xuất hiện ngày càng nhiều những cuộc tranh chấp giữa các nhà đầu tư nước ngoài và công nhân. Mấy năm gần đây ở Trung Quốc cũng xảy ra bãi công, nhưng Pháp lệnh Lao động không hề đề cập đến quyền lợi của người công nhân tham gia bãi công, thiếu hẳn điều khoản quyền bãi công, tức là người công nhân không được “rút lui tập thể” khi có tranh chấp với nhà đầu tư. Như vậy, Công đoàn không thể trở thành người tổ chức cho các hành động tập thể của công nhân. Điều đó khiến cho những quy định về quyền lợi của công nhân và Công đoàn bị xem nhẹ313. Ngoài những cái đó ra, trong quá trình hoà giải các tranh chấp lao động vai trò của Công đoàn cũng tương đối mờ nhạt. Trong các bộ luật có liên quan như Luật Lao động và những quy định, điều lệ khác để giải quyết các tranh chấp lao động trong các cơ quan xí nghiệp, vai trò của Công đoàn nhất thiết phải là “người thứ ba” không được với tư cách là người đại biểu cho người lao động để phát ngôn. Để tham gia giải quyết các tranh chấp lao động giữa lao động và nhà đầu tư, yêu cầu phải đồng thời có đại biểu quyền lợi cho cả hai bên “chủ và công nhân”. Công đoàn cảm thấy khó có được sự thừa nhận từ phía công nhân về vai trò của Công đoàn314. Từ khi cải cách mở cửa đến nay, Công đoàn của Trung Quốc đã có thêm rất nhiều các chức năng, đã có nhiều biểu hiện giúp đỡ công nhân giải quyết các tranh chấp lao động và kinh tế315. Nhưng bất luận là những pháp quy quy định hay các hành động của Công đoàn, về cơ bản đều chỉ là những cá nhân cá biệt mà không phải là trên cơ sở tập thể công nhân tiến hành. Nếu như so sánh với cuộc bãi công năm 2005 của Việt Nam, thì có thể thấy không gian của Công đoàn Trung Quốc và những tờ báo thuộc Công đoàn Trung Quốc thật là hạn hẹp.



4. Nguồn gốc của những sự khác biệt

Tại sao Công đoàn Việt Nam và Công đoàn Trung Quốc lại có biểu hiện khác nhau? Tác giả cho rằng, sự khác biệt đã bắt đầu được hình thành ngay trong lịch sử xây dựng nhà nước của hai quốc gia. Lúc đầu Đảng Cộng sản Việt Nam phải dựa vào Công đoàn để bảo đảm cho các mặt chính trị, quân sự và kinh tế, điều đó đã khiến Công đoàn có một ảnh hưởng tương đối sâu rộng trong xã hội. Ngược lại, Đảng Cộng sản Trung Quốc trước khi giành được chính quyền, tổ chức Công đoàn đã được sắp xếp ngay dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy Công đoàn Trung Quốc hoàn toàn lệ thuộc vào Đảng Cộng sản Trung Quốc, phục tùng sự chỉ huy của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Một lý do nữa là những động thái chính trị của các nhà lãnh đạo cấp cao của hai nhà nước. Các nhà lãnh đạo cấp cao Việt Nam hiểu rõ tính tự chủ tương đối của Công đoàn. Hơn nữa Chính phủ Việt Nam đã duy trì được trạng thái cân bằng quyền lực trong một thời gian dài, cho nên Công đoàn có thể tồn tại giữa người lao động và nhà đầu tư. Còn Trung Quốc, do Mao Trạch Đông nắm quyền nên Công đoàn chịu sự chỉnh đốn.



Nếu như đứng ở góc độ lịch sử để so sánh thái độ của Đảng Cộng sản Liên Xô, Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể thấy Liên Xô và Trung Quốc có một sự kiểm soát rất nghiêm ngặt với người lao động. Liên Xô kiểm soát qua hệ thống tổ chức hành chính, lấy việc trấn áp người lao động là phương châm chủ yếu316. Còn Trung Quốc lại thông qua đơn vị, thông qua phương thức phát động các phong trào quần chúng… khiến người lao động phải phục tùng mệnh lệnh quốc gia. Thể chế lao động của Việt Nam vừa bị ảnh hưởng của Liên Xô vừa bị ảnh hưởng của Trung Quốc, thời kỳ đầu đã áp dụng phương thức động viên quần chúng, nhưng đến thời kỳ sau do phải phục vụ chiến tranh, nên sự kiểm soát của Nhà nước Việt Nam với công nhân không chặt chẽ như của Trung Quốc và Liên Xô317.

Từ khi thành lập Đảng Cộng sản, Hồ Chí Minh đặt ra nhiệm vụ cho cách mạng Việt Nam là Cách mạng dân tộc chống đế quốc Pháp. Hồ Chủ tịch nhận thấy rằng Cách mạng chống chủ nghĩa thực dân không phân chia giai cấp, toàn thể nhân dân bị áp bức đoàn kết để chống chủ nghĩa thực dân. Dưới nguyên tắc đó Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương trừ chủ nghĩa đế quốc, đại địa chủ, các nhà tư sản phản cách mạng, còn tất cả các tầng lớp khác trong xã hội đều đoàn kết dưới một trận tuyến thống nhất. Mặc dù chủ trương về đường lối chiến tranh giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh trong nội bộ Đảng Cộng sản cũng đã từng có ý kiến khác nhau, song ngay trong Đại chiến thế giới lần thứ hai đã được xác định rõ đường lối kháng chiến. Đó là năm 1941, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 do Hồ Chí Minh chủ trì đã xác định nhiệm vụ cách mạng là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, cách mạng chống chủ nghĩa phong kiến đứng hàng thứ hai. Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thắng lợi, sau khi xây dựng chính quyền, nhiệm vụ đầu tiên Hồ Chí Minh quan tâm nhất là thống nhất nước nhà. Cũng trong thời gian này, chính quyền đã bắt đầu tiến hành một số bước để bảo vệ quyền lợi của người lao động. Năm 1946, Việt Nam đã thông qua Bộ luật Lao động đầu tiên trong lịch sử, trong đó có quy định quyền được bãi công của người lao động. Việt Nam đã tăng cường tốc độ xây dựng xí nghiệp quốc doanh, những xí nghiệp này được coi là một bộ phận trong bộ máy hành chính, do Đảng bộ và các tổ chức Công đoàn nhà nước quản lý. Sau khi chiến tranh ngày càng mở rộng, để tăng cường sự động viên đối với công nhân, năm 1949, văn kiện số 118 của Bộ Lao động đã tuyên bố xây dựng “Chế độ quản lý dân chủ”. Văn kiện quy định rằng tất cả các xí nghiệp quốc doanh, xí nghiệp ngoài quốc doanh đều lập ra Uỷ ban công xưởng. Nhà nước muốn thông qua Uỷ ban công xưởng để tăng cường động viên công nhân trong những nhà máy, xí nghiệp ngoài quốc doanh. Đến năm 1954, khi cuộc chiến tranh chống Pháp kết thúc, hai miền Việt Nam bị chia cắt, thì nhiệm vụ quan trọng của miền Bắc là ổn định đời sống công nhân và tăng cường sản xuất318.

Bắt đầu từ năm 1956, do mức sống của công nhân ngày càng đi xuống nên Chính phủ bắt đầu gặp phải sự thách thức của xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc năm 1957 đã ra quyết nghị phải tăng cường kiểm soát công nhân, để thúc đẩy sức sản xuất, khôi phục nền kinh tế quốc dân319. Nhưng sau đó không lâu, năm 1961 chiến tranh lại nổ ra, khiến cho Nhà nước đã chuyển hướng dựa vào quản lý Công đoàn và đặt ra rất nhiều nhiệm vụ cho Công đoàn. Trong quá trình chiến tranh xảy ra, Công đoàn đã đảm nhiệm rất nhiều nhiệm vụ quan trọng cho Chính phủ miền Bắc, bao gồm lệnh tổng động viên, sắp xếp cuộc sống cho quân đội, động viên công nhân tham gia xây dựng đất nước …Trong giai đoạn lịch sử đó đã khiến cho Công đoàn và các tầng lớp nhân dân có điều kiện tiếp xúc với nhau. Chính vì vậy, mặc dù Công đoàn với danh nghĩa là người đại biểu cho Đảng để tiến hành công việc nhưng cũng đã tích luỹ được rất nhiều kinh nghiệm xã hội cho công tác Công đoàn của mình. Nếu so sánh với thời kỳ ở miền Bắc thì có thể Công đoàn Việt Nam sau này cơ bản không chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng Cộng sản320.

Có một giả thuyết cho rằng, cách mạng Việt Nam xảy ra trong bối cảnh chủ nghĩa thực dân nên khiến cho người cộng sản Việt Nam không đấu tranh cách mạng giai cấp. Hơn nữa, cuộc chiến tranh hơn 10 năm xảy ra sau này càng khiến cho Nhà nước không kiểm soát được người lao động, thậm chí còn khiến cho Công đoàn xây dựng một mạng lưới quan trọng và sâu rộng trong xã hội. Tại sao sau khi thống nhất, Nhà nước không có những biện pháp có hiệu quả như Trung Quốc để đưa Công đoàn hoạt động dưới quỹ đạo của Đảng? Nguyên nhân quan trọng nhất là sau khi thống nhất tổ quốc, do chính sách kinh tế quy hoạch không thoả đáng, rồi tiếp theo là chiến tranh với Campuchia và Trung Quốc lần lượt nổ ra, nền kinh tế trong nước khó khăn nên năm 1979, Chính phủ Việt Nam đã phát động chính sách kinh tế mới. Năm 1986, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đã chính thức thông qua chính sách Đổi mới và Nguyễn Văn Linh làm Tổng Bí thư. Từ đó về sau quan chức cao cấp của Chính phủ Việt Nam đã thay đổi mấy lần, nhưng chủ trương rời bỏ nền kinh tế tập trung, chuyển hướng sang chính sách Đổi mới của nền kinh tế thị trường luôn là kim chỉ nam. Bởi vì, lịch trình phát triển của kinh tế chính trị Việt Nam từ sau khi thống nhất đã thể hiện rõ về mặt kinh tế, chính sách tập thể hoá chưa hoàn toàn thiết thực.

Ở Trung Quốc, tổ chức Công đoàn luôn gắn chặt chẽ với Đảng Cộng sản Trung Quốc. Năm 1921, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất đã xác định, để tổ chức giai cấp công nhân, lãnh đạo Công đoàn là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Năm 1925, Tổng hội Công đoàn toàn quốc Trung Hoa đã chính thức được thành lập ở Quảng Châu, hoàn toàn chịu sự lãnh đạo của Đảng. Thời kỳ đầu xây dựng chính quyền, quan điểm của Công đoàn và Đảng về vai trò của Công đoàn trong thể chế nhà nước xã hội chủ nghĩa đã từng xảy ra nhiều tranh luận, nhưng để cố gắng khôi phục lại kinh tế nước nhà, vai trò của Công đoàn dần dần nghiêng về động viên người lao động tham gia sản xuất, chứ không đại biểu cho lợi ích của giai cấp lao động. Năm 1950, Luật Công đoàn ra đời, tổ chức Công đoàn đã hoàn toàn thành tổ chức của quốc gia, được cung cấp những chức năng, quyền hạn hành chính. Như vậy, từ trước khi xây dựng chính quyền, quan hệ phụ thuộc của Công đoàn vào Đảng Cộng sản được gắn chặt với bối cảnh lịch sử321. Sau khi xây dựng chính quyền, để củng cố cơ sở chính trị, Chính phủ Trung Quốc (Chính phủ dựa vào giai cấp nông dân để giành được chính quyền) đã bắt đầu chuyển trọng tâm công tác sang đô thị. Khi đó các nhà lãnh đạo cao cấp của Công đoàn đa phần là những người lãnh đạo kiêm nhiệm trong Đảng, kiểu lãnh đạo đó đã xác định vị trí lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với các hoạt động tổ chức Công đoàn. Ngoài ra, khi đó những người làm công tác Công đoàn đa phần là những cán bộ lãnh đạo của phong trào Công đoàn thời kỳ đầu322. Vì vậy, Công đoàn trong thời kỳ này có phạm vi hoạt động tương đối rộng.

Giữa công đoàn và nhà nước ở Trung Quốc đã từng xảy ra 5 lần tranh chấp, bao gồm lần tranh chấp vào thời kỳ đầu xây dựng nhà nước; thời kỳ nổ ra phong trào “Trăm hoa đua nở” năm 1975; thời kỳ Cách mạng văn hoá và sự kiện Thiên An Môn năm 1976 và 1989. Như vậy phần trên đã trình bày về quan hệ lãnh đạo, tổ chức Công đoàn của Đảng đã trở thành nguồn gốc cho lần tranh chấp đầu tiên. Trong lần tranh chấp này Đặng Tử Khôi và Cao Cương đã tranh luận về vấn đề có tồn tại những lợi ích khác nhau giữa Công đoàn và các cơ quan hành chính nhà nước hay không, và trong nội bộ các xí nghiệp của quốc doanh có tồn tại vấn đề giai cấp bóc lột hay không. Khi đó Lý Lập Tam giữ chức Chủ tịch Tổng hội Công đoàn toàn quốc đã ủng hộ lập trường của Đặng Tử Khôi, cho rằng: trong các xí nghiệp quốc hữu có tồn tại mâu thuẫn giữa lợi ích công và lợi ích tư. Cho nên, ông chủ trương dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ cho phép Công đoàn tự chủ triển khai các hoạt động về mặt tổ chức323. Năm 1951, Lý Lập Tam bị phê bình và bị tước quyền Chủ tịch Tổng hội Công đoàn, những cố gắng của Công đoàn trong cuộc thử nghiệm đầu tiên để giành quyền độc lập cao hơn đã thất bại. Trong khoảng năm 1953 đến năm 1955, Nhà nước Trung Quốc đã ra sức khống chế Công đoàn, nhưng theo trào lưu tự do hoá của Đông Âu, trong nội bộ Trung Quốc đã xuất hiện hàng loạt những cuộc bãi công. Dưới áp lực của xã hội, Chủ tịch Tổng hội Công đoàn Lại Nhược Ngu chủ trương nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn là bảo vệ quyền lợi dân chủ và lợi ích vật chất của công chức, đồng thời yêu cầu hệ thống lập pháp cho phép Công đoàn có nhiều quyền lợi hơn nữa. Nhưng sau đó Lại Nhược Ngu trong phong trào chống cánh hữu năm 1975 đã bị mang ra đấu tố, Công đoàn vẫn phụ thuộc Nhà nước. Thời kỳ Cách mạng văn hoá, Tổng hội Công đoàn đã đưa ra khẩu hiệu đấu tranh vì sự diệt vong của Công đoàn. Thời kỳ đó cũng xuất hiện tổ chức tạo phản chống lại Tổng hội Công đoàn. Đó là tổ chức “Tổng hội tạo phản những người lao động đỏ toàn quốc” gọi tắt là “Toàn đỏ tổng”. Nhưng sau đó, Tổng hội Công đoàn và Toàn đỏ tổng cùng bị Quốc vụ viện và chính quyền Trung ương Trung cộng phê phán và Tổng hội Công đoàn cũng ngưng hoạt động từ đó.

Nguồn gốc của những lần tranh chấp giữa Đảng Cộng sản Trung Quốc và Công đoàn vào thời kỳ đầu là do quan điểm về lợi ích của Công đoàn là không thống nhất. Vì vậy khi phát động các phong trào chính trị, các cuộc đấu tranh quyền lực cũng sẽ đề cập đến quan hệ giữa Đảng và Công đoàn. Nhưng mâu thuẫn trong mấy năm gần đây chủ yếu xảy ra trong quá trình chuyển đổi kinh tế xã hội. Nhà nước một mặt yêu cầu Công đoàn phải đảm nhiệm nhiều vai trò hơn nữa, mặt khác lại không quyết đoán từ bỏ quyền kiểm soát với Công đoàn, thậm chí còn thể hiện rõ sự ngờ vực đối với khả năng hành động của tập thể người lao động. Có thể nhìn rõ thái độ mâu thuẫn của Chính phủ trong hàng loạt các cuộc cải cách đối với Công đoàn vào năm 1980. Tháng 8 năm đó, Tổng hội Công đoàn toàn quốc triệu tập hội nghị chủ tịch Công đoàn các tỉnh, thành phố trực thuộc, khu tự trị để chỉ rõ vấn đề cơ bản của Công đoàn. Nhà nước một mặt áp dụng những quyết nghị của Công đoàn, xây dựng chế độ người lao động có quyền tham gia hội nghị đại biểu công chức; mặt khác lại huỷ bỏ quyền được bãi công của người lao động mà trong Hiến pháp đã quy định rõ, đến tận ngày nay vẫn chưa khôi phục quyền này.

Sự kiện Thiên An Môn năm 1989 đã khiến tổ chức Công đoàn một lần nữa bị trấn áp về chính trị. Trong sự kiện Thiên An Môn, ở Bắc Kinh đã xuất hiện vô số tổ chức do người lao động lập324, mà tiêu biểu nhất là Hội nghị Liên hợp tự trị công nhân Bắc Kinh. Nhưng kinh nghiệm của Liên đoàn công nhân Ba Lan khiến cho tất cả những tổ chức công nhân mang tính độc lập ở Bắc Kinh cảm thấy cảnh giác. Cải cách Công đoàn từ khi mở cửa đến nay vẫn chưa thành công. Mặc dù vậy, từ những năm 1990 đến nay nhiều tổ chức của các xí nghiệp vẫn tiếp tục cải cách, nhưng hàng loạt những cố gắng của họ đa phần bị cho là vấn đề người lao động không ngừng phát sinh, quy mô ngày càng lớn của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Nhà nước yêu cầu Công đoàn là công cụ để giúp đỡ người lao động giải quyết các tranh chấp. Cho nên, mặc dù Công đoàn không ngừng mong muốn thay đổi lại cơ cấu của mình, nhưng thực chất nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho họ vẫn chỉ là tập trung ở việc tăng cường ký kết các hợp đồng tập thể và tăng cường luật pháp cho những lợi ích của công nhân, thậm chí quyền lợi tập thể như bãi công, đến tận ngày hôm nay vẫn chưa được Nhà nước cho phép.



5. Kết luận

Với những sách lược phát triển kinh tế gần giống nhau, nhưng Chính phủ Việt Nam đã sớm đưa ra được những sách lược để bảo quyền lợi của người lao động. Tuy hoạt động dưới sự lãnh đạo của Nhà nước, nhưng Công đoàn Việt Nam lại có quyền tự chủ cao hơn Công đoàn Trung Quốc. Thông qua các văn kiện có thể quan sát thấy các hiện tượng đó, nhưng những nhân tố sâu xa đứng đằng sau vấn đề đó thì chưa được đưa ra giải thích đầy đủ.



Thông qua lịch sử xây dựng chính quyền thời kỳ đầu của hai quốc gia Việt Nam và Trung Quốc, tác giả nhận thấy rằng những khác biệt mà chúng ta thấy ngày nay là kết quả của việc dựa vào đường lối. Quan hệ giữa Nhà nước và Công đoàn của Việt Nam, Trung Quốc đã được xây dựng ngay từ thời kỳ đầu đặt nền móng xây dựng chế độ mới. Nhưng những khó khăn, tình hình quốc tế, tình hình kinh tế chính trị mà hai quốc gia phải đối mặt trong quá trình xây dựng chính quyền là xác lập hình thức vận hành khác nhau, khiến cho những người thực thi quyền chính trị thiếu nguồn lực đầy đủ để thay đổi chế độ thù lao, để ngày càng có hiệu quả triển khai thể chế lao động khác nhau của hai quốc gia. Quyền tự trị của Công đoàn ở Trung Quốc không cao như ở Việt Nam.

Tác giả mong muốn từ góc độ lịch sử phát triển của hai nước để tìm ra nguồn gốc của sự khác biệt, đồng thời đi sâu vào tìm hiểu nguyên nhân có sẵn trong lý luận để làm rõ mối quan hệ giữa Công đoàn và thể chế Nhà nước Việt Nam. Thông qua những cứ liệu lịch sử để triển khai một suy luận nhân quả, nhưng do những hạn chế như: các vấn đề nghiên cứu liên quan không đầy đủ, cứ liệu lịch sử còn thiếu sót… khiến cho kết quả của luận điểm không khỏi thiếu sót, hy vọng sau này sẽ tiếp tục tìm hiểu thêm các cứ liệu để hoàn thiện hơn.

1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   18




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương