ĐỀ ÁN ĐỔi mới cơ chế TÀi chính giáo dục giai đOẠN 2009-2014



tải về 5.56 Mb.
trang17/33
Chuyển đổi dữ liệu19.07.2016
Kích5.56 Mb.
#2071
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   ...   33

* Ghi chú : bình quân 1 phòng 200 triệu

3.4. Nhu cầu thiết bị và đồ dùng dạy học

- Đối với giáo dục mầm non: Các trường đều phải có bộ đồ chơi ngoài trời theo tiêu chuẩn, đủ chỗ ngồi ngoài ra tối thiểu mỗi nhà trường đều phải có từ 1 đến 05 máy vi tính làm công tác quản lý và nối mạng khai thác Internet.

- Tiểu học: Đủ chỗ ngồi cho học sinh với 1 học sinh/1 chỗ bàn ghế trang bị theo mẫu phù hợp với đổi mới phương pháp dạy học và thay thế dần các bàn ghế học sinh cũ. Hàng năm bổ sung thêm các đồ dùng dạy học theo môn cũng như thiết bị dùng chung. Tối thiểu mỗi trường tiểu học có 05 -10 máy tính để làm công tác nối mạng và bước đầu cho các cháu học sinh làm quen với máy tính.

- Trung học cơ sở: Chỗ ngồi đạt tỷ lệ 1 học sinh/1chỗ, bàn ghế trang bị theo mẫu mới phù hợp với đổi mới phương pháp dạy học và thay thế dần các bàn ghế học sinh cũ. Hàng năm bổ sung thêm các đồ dùng dạy học theo môn học cũng như thiết bị dùng chung. Mỗi trường có tối thiểu 01 máy vi tính để làm công tác quản lý và nối mạng Internet. Các trường đều có 01 phòng máy vi tính từ 20 - 25 máy để giảng dạy và học tập, có máy chiếu overhead, phòng thực hành các bộ môn Lý - Hoá - Sinh.

- Trung học phổ thông: Chỗ ngồi đạt tỷ lệ 1 học sinh/01chỗ, bàn ghế trang bị phải phù hợp với việc đổi mới phương pháp dạy học và thay thế dần các bàn ghế học sinh cũ. Trang bị các đồ dùng, thiết bị dạy học theo môn từ lớp 10 đến lớp 12. Có thư viện đạt chuẩn, phòng thí nghiệm Lý - Hoá - Sinh, thiết bị dùng chung, 02 máy chiếu Projector, mỗi trường có tối thiểu 2-3 máy vi tính để làm công tác quản lý và nối mạng Internet. 100% các trường đều có từ 1 đến 2 phòng máy vi tính với số lượng từ 25-30 máy để giảng dạy và học tập.

3.5. Nhu cầu cơ sở vật chất các trường trung cấp nghề, cao đẳng nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học

Nhà nước tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các trường trung cấp nghề, cao đẳng nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học. Tập trung đầu tư xây dựng một số cơ sở dùng chung như: trung tâm dữ liệu quốc gia, hệ thống thư viện điện tử, ký túc xá và các cơ sở văn hóa, thể dục thể thao.

Nhà nước có chính sách ưu đãi, hỗ trợ khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực giáo dục đại học; bảo đảm quyền sở hữu theo pháp luật và các quyền lợi về vật chất và tinh thần của nhà đầu tư.

Phấn đấu có đủ phòng học các loại theo quy định xóa bỏ tình trạng đi thuê lớp học và hạn chế dần việc học vào buổi tối, 60% sinh viên được ở nhà ký túc xá; nâng cấp và xây dựng mới cơ sở vật chất cho 15 trường đại học trọng điểm và các trường đại học ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long, miền núi phía Bắc và các tỉnh Trung Bộ; vay vốn của Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Châu Á để xây dựng 4 trường đại học đẳng cấp quốc tế.

Từng bước hiện đại hoá các phòng thí nghiệm, thư viện và công nghệ thông tin phục vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học cho các trường đại học cao đẳng, tập trung đầu tư chiều sâu cho các trường trọng điểm.
PHẦN V

ĐỔI MỚI CƠ CHẾ TÀI CHÍNH GIÁO DỤC

GIAI ĐOẠN 2009 - 2014
1. Các định hướng hoàn thiện cơ chế tài chính giáo dục

1.1. Đổi mới phương thức xây dựng và giao kế hoạch ngân sách, cơ cấu lại chi ngân sách Nhà nước cho các mục tiêu của giáo dục:

- Đổi mới phương thức xây dựng và giao kế hoạch ngân sách cho ngành giáo dục theo hướng lập kế hoạch và giao trần ngân sách trung hạn (3 năm), giúp ngành giáo dục chủ động sắp xếp, bố trí kinh phí thực hiện các nhiệm vụ, hoạt động, chế độ, chính sách phù hợp với trần ngân sách được nhà nước giao, đồng thời có giải pháp huy động thêm các nguồn lực để thực hiện những nhiệm vụ ưu tiên của ngành theo sự chỉ đạo của Chính phủ.

- Nhà nước cam kết dành đầu tư thoả đáng và ngày càng tăng cho giáo dục, ngân sách Nhà nước đóng vai trò quyết định trong việc cung cấp nguồn lực thực hiện phổ cập giáo dục cho thực hiện phổ cập mẫu giáo 5 tuổi, phổ cập tiểu học và trung học cơ sở, mở rộng dần quy mô trung học phổ thông. Thực hiện việc phổ cập có sự đóng góp theo khả năng của người học.

- Ngân sách nhà nước đầu tư cho các cơ sở giáo dục công lập đảm bảo đạt mức chất lượng tối thiểu phù hợp với nhu cầu phát triển đất nước ở các cấp học và trình độ đào tạo. Các địa phương có thể quy định mức chất lượng tối thiểu cao hơn, tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã hội của mình. Ở những trường mầm non và phổ thông công lập cung cấp dịch vụ giáo dục cao hơn mức chất lượng chuẩn, ngoài phần chi của nhà nước, phần còn lại sẽ thu từ người học.

- Tăng đáng kể tỷ trọng ngân sách dành cho phát triển dạy nghề.

- Ưu tiên đầu tư cho giáo dục của các địa phương, vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Tập trung đầu tư cho hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, các trường học khu vực miền núi, vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa, vùng hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

- Ngân sách nhà nước ưu tiên đầu tư xây dựng các trường trường phổ thông chuyên ở địa phương, tạo môi trường bồi dưỡng nhân tài. Thành lập các cơ sở đào tạo chất lượng cao, một số trường trọng điểm từ dạy nghề đến đại học, bằng nguồn NSNN và vay ODA để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu xã hội.

1.2. Xác định trách nhiệm và quyền hạn hợp lý của các cơ quan quản lý nhà nước trung ương và địa phương trong việc lập và thực hiện kế hoạch ngân sách giáo dục:

- Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ, ngành khác xây dựng quy trình chuẩn bị kế hoạch ngân sách giáo dục hàng năm và trung hạn đảm bảo việc sử dụng ngân sách có hiệu quả, thống nhất thể hiện trách nhiệm quản lý ngành của Bộ Tài chính và Bộ Giáo dục và Đào tạo.

- Bộ Giáo dục và Đào tạo và các địa phương phải xây dựng quy hoạch phát triển đại học và giáo dục phổ thông để nâng cao hiệu quả đầu tư của ngân sách nhà nước.

- Bộ Giáo dục và Đào tạo cần có ý kiến thẩm định khi các Bộ, ngành trung ương phê duyệt các dự án đầu tư về giáo dục và đào tạo. Các Bộ, ngành thực hiện chế độ báo cáo cho Bộ Giáo dục và Đào tạo về kế hoạch và sử dụng ngân sách giáo dục do mình quản lý.

- Cơ quan quản lý giáo dục của địa phương (ở cấp tỉnh, thành phố là Sở Giáo dục và Đào tạo, ở cấp quận, huyện là Phòng Giáo dục và Đào tạo) cần có ý kiến thẩm định đối với các dự án đầu tư phát triển giáo dục ở địa phương. Sở Giáo dục và Đào tạo là cơ quan đầu mối cấp tỉnh thực hiện tổng hợp kế hoạch và sử dụng ngân sách giáo dục ở địa phương để báo cáo UBND tỉnh và Bộ Giáo dục và Đào tạo.

1.3. Xây dựng cơ chế thích hợp để huy động các nguồn lực cho giáo dục:

- Nhà nước khuyến khích sự đóng góp của xã hội cho giáo dục theo khả năng của hộ gia đình, của các nhà hảo tâm. Nhà nước ban hành những quy định để các cơ sở giáo dục và đào tạo được dễ dàng nhận và sử dụng có hiệu quả các khoản tài trợ của các doanh nghiệp, các nhà hảo tâm đóng góp tự nguyện cho giáo dục.

- Nhà nước khuyến khích thành lập và phát triển các cơ sở giáo dục ngoài công lập, trong đó có các trường ngoài công lập có chất lượng cao, chi phí cao nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ cao của đất nướcvà nhu cầu được giáo dục của con em các gia đình có thu nhập cao.

- Ngân sách nhà nước hỗ trợ các cơ sở giáo dục ngoài công lập: Hỗ trợ đào tạo giảng viên có trình độ cao; Thực hiện các chương trình bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; Cấp bù học phí (với mức học phí của các trường công lập trong vùng) cho con em các đối tượng chính sách học ở các trường mầm non, phổ thông ngoài công lập.



1.4. Đổi mới chính sách học phí và hỗ trợ người học:

- Sửa đổi chế độ học phí của các trường công lập theo hướng:

+ Đối với giáo dục mầm non và phổ thông: học phí không là gánh nặng tài chính với gia đình học sinh. Khi học phí và các chi phí học tập hợp lý khác của hộ gia đình cho con em đi học không vượt quá 6% thu nhập bình quân hộ gia đình, thì mức học phí đó luôn nằm trong khả năng chi trả của hộ gia đình. (Phụ lục số 1 và số 2). Đây là mức chi trả khả thi theo kinh nghiệm thực tế của nhiều nước trên thế giới và cũng phù hợp với thực tế ở Việt Nam các năm qua. Nếu đặt yêu cầu học phí giáo dục phổ thông và mầm non phải bù đắp chi phí thường xuyên hay chi phí bù đắp tiền lương thì mức học phí sẽ rất lớn, vượt quá khả năng chi trả của đa số người dân. Đa số trẻ sẽ nghỉ học (Phụ lục 2). Mức học phí do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của địa phương và thu nhập của hộ gia đình trên địa bàn; phần chi phí còn lại cho giáo dục ở trường công lập (chiếm hơn 90% chi phí giáo dục), ngoài sự đóng góp của người dân bằng học phí, do nhà nước đảm nhận, nhằm đảm bảo chất lượng tối thiểu cần thiết.

+ Mức học phí đối với đào tạo công lập (dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học) thể hiện sự chia sẻ thực sự chi phí đào tạo giữa nhà nước và người học, đủ chi lương và từng bước đảm bảo chi thường xuyên của các nhóm ngành đào tạo, phần còn lại của chi thường xuyên và toàn bộ chi đầu tư do nhà nước đảm nhận. Các cơ sở giáo dục cung cấp chương trình đào tạo chất lượng cao, được thu học phí cao hơn để bù đắp chi phí đào tạo cao hơn.

- Thực hiện miễn học phí đối với học sinh tiểu học. Miễn học phí cho học sinh thuộc diện chính sách, thuộc diện hộ nghèo theo tiêu chuẩn quốc gia. Giảm học phí cho các đối tượng cận nghèo và gia đình chính sách, ngành nghề cần khuyến khích. Nhà nước thực hiện hỗ trợ chi phí học tập (chi ngoài nhà trường) cho học sinh phổ thông diện chính sách và học sinh thuộc gia đình có thu nhập rất thấp.

- Nhà nước tiếp tục thực hiện chính sách tín dụng cho học sinh học nghề và sinh viên thuộc diện gia đình nghèo, cận nghèo và có hoàn cảnh khó khăn vay tiền để học tập. Khi học phí đào tạo tăng thêm theo quy định của Chính phủ thì mức cho vay để học sẽ được tăng thêm tương ứng.

- Thay đổi chính sách miễn học phí đối với sinh viên ngành sư phạm hiện nay bằng chính sách cho sinh viên vay để học, khi ra trường nếu phục vụ trong hệ thống giáo dục quốc dân ít nhất 2 lần thời gian đào tạo (6 năm đối với cao đẳng sư phạm, 8 năm đối với đại học sư phạm) thì nhà nước sẽ xoá phần nợ (cả gốc và lãi) để chi trả học phí.

- Nhà nước thực hiện cấp trực tiếp tiền cho các đối tượng được miễn, giảm học phí khi học mầm non, phổ thông, học nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học để thực hiện đóng học phí cho cơ sở giáo dục.

- Nhà nước có chính sách khuyến khích người học giỏi bằng học bổng khuyến khích học tập ở tất cả các cơ sở đào tạo nghề nghiệp trong nước hoặc cử đi nước ngoài để học tập.

- Nhà nước đầu tư toàn bộ để xây dựng ký túc xá cho sinh viên, người ở chi trả tiền ở đủ để vận hành và duy tu các ký túc xá.

- Khuyến khích thành lập các quĩ trợ giúp người nghèo đi học và khuyến khích học giỏi ở các địa phương của các doanh nghiệp, các đoàn thể và tổ chức chính trị-xã hội bằng nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước.

1.5. Chính sách đối với giáo viên:

- Thông qua chi từ ngân sách và thu học phí ở các trường công lập, Nhà nước đảm bảo thu nhập của giáo viên công lập ổn định đời sống và ngày càng được cải thiện.

- Tiếp tục chính sách khuyến khích giáo viên dạy học ở các vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc.

- Chuẩn hoá trình độ giáo viên các cấp và xây dựng chế độ thang bảng lương hợp lý cho các cấp học và trình độ đào tạo. Thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên cho đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Nhà giáo được điều động lên làm cán bộ quản lý giáo dục ở các cấp được bảo lưu chế độ phụ cấp đứng lớp trong vòng 3 năm.

- Các trường học công lập được thực hiện tự chủ tài chính, biến chế theo quy định của chính phủ.

1.6. Trách nhiệm của các cơ sở giáo dục trong quản lý tài chính:

- Đảm bảo sự tương quan giữa chất lượng đào tạo và nguồn tài chính được sử dụng (ngân sách, học phí và tài trợ của xã hội), đầu tư có hiệu quả để nâng cao dân trí, phát triển nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.

- Công bố mục tiêu và cam kết chất lượng, kết quả đánh giá chất lượng đào tạo thực tế, công bố nguồn lực đào tạo của cơ sở (đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, chương trình đào tạo, liên kết đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế...) theo quy định của Nhà nước.

- Công khai chi tiêu trong nhà trường hàng năm, thực hiện việc đóng thuế cho nhà nước, chấp hành các chế độ, quy định về tài chính, kế toán, thực hiện kiểm toán theo quy định của Nhà nước.

- Gửi báo cáo hoạt động nhà trường, trong đó có phần tài chính, về cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp theo quy định của Nhà nước.

1.7. Giám sát tài chính giáo dục:

- Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ quản lý tài chính giáo dục, trong đó qui định rõ chức năng nhiệm vụ của các Bộ, ngành ở Trung ương, của các cơ quan địa phương trong việc phối hợp quản lý, kiểm tra, giám sát và báo cáo về tài chính của giáo dục đào tạo.

- Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng các quy định quản lý tài chính giáo dục trong các cơ sở giáo dục, quy định báo cáo về tài chính của các cơ sở giáo dục làm cơ sở cho việc quản lý minh bạch và công khai tài chính của toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân.

- Nhà nước thực hiện việc kiểm tra, giám sát các cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập. Các cơ sở giáo dục có trách nhiệm sử dụng kinh phí giáo dục đúng mục đích, có hiệu quả.

- Đại diện phụ huynh học sinh ở các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông, đại diện học sinh, sinh viên và đại diện giáo viên, giảng viên ở các cơ sở đào tạo có quyền và trách nhiệm giám sát việc sử dụng kinh phí của cơ sở giáo dục theo quy chế hoạt động của trường được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

2. Xác định học phí và hỗ trợ của nhà nước và địa phương

Khái niệm: Học phí là khoản tiền của gia đình người học hoặc người học phải nộp để góp phần bảo đảm chi phí cho các hoạt động giáo dục. Mức học phí được phân biệt giữa chương trình đào tạo đại trà (chương trình đạt mức chất lượng cần thiết tối thiểu) và chương trình đào tạo chất lượng cao.

Nguyên tắc xác định học phí:

- Học phí của các trường mầm non và phổ thông công lập đại trà:

Đối với giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông (trung học cơ sở, trung học phổ thông) học phí không là gánh nặng tài chính đối với gia đình người học, mà luôn là khả thi. Điều này được bảo đảm khi học phí và các khoản chi cần thiết khác cho việc học tập không vượt quá 6% thu nhập bình quân của hộ gia đình. Học phí đối với giáo dục nghề nghiệp từ bậc sơ cấp đến bậc trung cấp, cao đẳng và đại học thực hiện theo nguyên tắc chia sẻ chi phí giữa nhà nước và người học, học phí phải đảm bảo bù đắp chi phí tiền lương, từng bước đảm bảo chi thường xuyên tối thiểu của các nhóm ngành đào tạo. Đây là yêu cầu của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khoá X), về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

- Đối với chương trình chất lượng cao: Phần chi phí tăng thêm ngoài phần chi của Nhà nước để có chất lượng cao hơn sẽ do người học chi trả.

- Các cơ sở giáo dục ngoài công lập được quyền chủ động xây dựng mức thu học phí, đồng thời phải công khai về chi phí, nguồn lực (cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục...) và chất lượng giáo dục để cho người học, gia đình người học, các cơ quan nhà nước và xã hội tham gia giám sát, đánh giá.

2.1. Phương pháp xác định học phí mầm non và phổ thông:


  1. Học phí của các cơ sở mầm non và phổ thông chất lượng đại trà:

Dựa trên thu nhập bình quân người dân để tính thu nhập của một hộ gia đình và khả năng chi trả khả thi của một hộ gia đình cho con đi học (bằng 6% thu nhập của hộ gia đình). Khả năng chi trả khả thi để trả học phí và các chi phí liên quan đến học tập khác (như sách, vở viết, đồ dùng học tập, một phần chi phí quần áo, giày dép...). Để đảm bảo việc chi cho học tập của học sinh không vượt quá khả năng chi trả của hộ gia đình, học phí được tính theo công thức sau:

Học phí



Mức chi trả khả thi cho một học sinh đi học (tương ứng 6% thu nhập hộ gia đình)



Chi phí học tập khác cho 1 học sinh

Mức chi trả khả thi cho 1 học sinh đi học



Thu nhập 1 người 1 tháng x 4 người(gia đình) x 6%

2 (con đi học)

(Chi phí học tập khác bao gồm: chi phí cho sách giáo khoa, vở viết, dụng cụ học tập và một phần cho quần áo, giày dép).

Ở đây, mức chi trả khả thi và mức học phí được tính dựa trên mô hình gia đình bình quân có 4 người, trong đó có 2 con đi học mầm non hoặc phổ thông.

Ở Việt Nam cũng như bình quân toàn thế giới, học phí hay phần chi của người dân cho học mẫu giáo và phổ thông chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ, từ 20-30% (mẫu giáo) và 10-20% (phổ thông). Đối với mẫu giáo và phổ thông, ở tất cả các nước, nhà nước đều tự coi là người có trách nhiệm chi chủ yếu, để đại đa số trẻ em được đi học. Người dân chỉ đóng góp 1 phần nhỏ của chi phí giáo dục thực tế. Và xu hướng là: càng phát triển cao hơn thì càng nhiều quốc gia miễn học phí cho giáo dục phổ thông và mẫu giáo. Đề án Đổi mới cơ chế tài chính của giáo dục giai đoạn 2009-2014 đề xuất quan điểm: trừ tiểu học đã được miễn học phí, còn ở mầm non và trung học tại các trường công lập, học phí chỉ là một sự đóng góp nhỏ, khả thi đối với mọi người dân để chia sẻ chi phí giáo dục với Nhà nước, nó không liên quan đến chi phí giáo dục cao bao nhiêu. Năm 2006, tổng học phí và đóng góp của người dân tại các trường mầm non và phổ thông công lập cả nước chỉ chiếm 4,4% tổng chi phí cho giáo dục ở các cơ sở này. Qua phân tích thống kê các nước về chi phí học tập khả thi cho phổ thông, đề án đã xác định mức chi cho học tập không quá 6% thu nhập của hộ gia đình là mức chi khả thi cho học tập. Với mức chi này, hộ dân sẽ không coi việc chi cho con đi học là đắt, không than phiền học phí cao. Các hộ ở thành phố có thu nhập cao hơn hộ ở miền núi thì 6% thu nhập cũng sẽ cao hơn. Tức là người giàu hơn sẽ chia sẻ với nhà nước nhiều hơn về chi phí giáo dục cho con em chính họ. Nhưng xét về tỉ lệ đóng góp cho giáo dục, so với thu nhập của hộ là như nhau (6%), đây là sự bình đẳng trong nghĩa vụ của công dân khi phải chia sẻ chi phí giáo dục cho các con em họ với nhà nước.

Trên cơ sở dự báo thu nhập bình quân 1 người/tháng của các tỉnh, thành phố và của cả nước giai đoạn 2009-2014, và căn cứ vào công thức tính học phí nêu trên, xác định được mức học phí đối với giáo dục mầm non và phổ thông của các tỉnh, thành phố trong cả nước (Phụ lục 3).

Thực tế thu nhập của hộ dân ở các vùng trong một tỉnh, như các huyện, các thị xã là khác nhau. Do đó, để thu học phí được đủ mà vẫn đảm bảo nguyên tắc phù hợp với khả năng chi trả của các hộ dân, không để dân kêu học phí cao và không quá thấp dưới khả năng chi trả của hộ dân, thì nên chia địa bàn tỉnh thành các vùng mà trong một vùng thu nhập tương đối đồng đều. Cục Thống kê ở các tỉnh hàng năm đều có số liệu thống kê thu nhập của các hộ dân ở các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hay các quận và huyện thuộc thành phố. Ví dụ, qua số liệu thống kê thu nhập bình quân các huyện và thị xã ở một tỉnh, có thể chia 10 huyện, thị xã của tỉnh thành 3 vùng: vùng đô thị gồm các thị xã, thị trấn; vùng huyện đồng bằng và vïng huyện miền núi. Mỗi vùng có mức thu nhập bình quân một hộ khác nhau. Do đó, mức học phí sẽ khác nhau.

Ví dụ, các thị xã, thị trấn năm 2008 có thu nhập bình quân đầu người là 800.000 đồng/người/tháng; các hộ đồng bằng có thu nhập bình quân đầu người là 650.000 đông/người/tháng; các hộ miền núi có thu nhập bình quân là 400.000 đồng/người/tháng.



Như vậy:

- Mức học phí đối với mầm non hoặc phổ thông (trung học cơ sở, trung học phổ thông) ở các thị xã, thị trấn là:

Học phí

(Đô thị)


=

800.000 đồng/người/tháng x 4 người x 6%


2

- 61.000 đ/tháng


= 96.000 đồng/tháng – 61.000 đồng/tháng

= 35.000 đồng/thỏng



- Mức học phí ở vùng đồng bằng là:

Học phí (Huyện đồng bằng)


=

650.000 đồng/người/tháng x 4 người x 6%


2

- 61.000 đ/tháng


= 78.000 đồng/tháng – 61.000 đồng/tháng

= 17.000 đồng/tháng



- Mức học phí ở các huyện miền núi là:

Học phí

(Huyện miền núi)



=

400.000 đ/người/tháng x 4 người x 6%


2

- 61.000 đ/tháng


= 48.000 đồng/tháng – 61.000 đồng/tháng

= - 13.000 đồng/tháng

61.000 đồng/tháng là chi phí bình quân cần thiết để gia đình trang trải các chi phí học tập: chi mua sách vở, dụng cụ học tập, cặp, dép, áo mưa cho một con đi học. Như vậy, học phí cho các trường ở các thị xã, thị trấn là 35.000 đồng/tháng, ở các huyện đồng bằng là 17.000 đồng/tháng, còn ở các trường thuộc huyện miền núi không những không thu học phí (học miễn phí) mà Nhà nước cần phải hỗ trợ bình quân mỗi em đi học 13.000 đồng/tháng hay 117.000 đồng /năm (9 tháng) để các em có đủ tiền để mua sách vở, cặp bút hay áo mưa, dép đi học.

Theo nguyên tắc trên, học phí bình quân của các tỉnh cho giáo dục mầm non và phổ thông công lập ở các tỉnh trong cả nước đã được trình bày ở Đề án. Với các hộ dân có thu nhập rất thấp, nếu 6% thu nhập chưa bảo đảm chi đủ cho các nhu cầu như dụng cụ học tập, sách giáo khoa, quần áo đồng phục, đi lại tối thiểu... thì được Nhà nước hỗ trợ thêm, ngoài việc miễn học phí.

Theo nguyên tắc học phí phù hợp với khả năng chi trả, trong một tỉnh có các vùng có mức thu nhập khác nhau có thể có mức học phí khác nhau. Biểu 46 sau đây là ví dụ mức học phí cho các hộ dân có thu nhập khác nhau ở một tỉnh có 3 vùng:

Đô thị (thu nhập bình quân 800.000 đồng/người/tháng), huyện đồng bằng (thu nhập bình quân 650.000 đồng/người/tháng), huyện miền núi (thu nhập bình quân 400.000 đồng/người/tháng). Thu nhập bình quân toàn tỉnh là 700.000 đồng/người/tháng tương đương thu nhập ở một tỉnh đồng bằng năm 2008.



Biểu 46. Các mức học phí ở các vùng của tỉnh (ví dụ minh hoạ)

Đơn vị: Đồng/tháng

Thu nhập người/tháng

Dưới 400.000

Từ 400.000 đến dưới 508.000

Từ 508.000 đến dưới 650.000

Từ 650.000 đến dưới 800.000

Từ 800.000 trở lên

Vùng đô thị

(Thu nhập bình quân 800.000đ)









Miễn học phí

(rất ít)


Học phí được giảm:

17.000đ (ít)



Học phí

35.000


(đa số) *

Vùng huyện đồng bằng

(thu nhập bình quân 650.000đ)






Hỗ trợ học tập

13.000


(rất ít)

Miễn học phí

(ít)


Học phí được giảm:

17.000


(đa số) *




Vùng huyện miền núi

(thu nhập bình quân 400.000đ)



Hỗ trợ học tập

50.000


(rất ít)

Hỗ trợ học tập

13.000


(đa số) *

Miễn học phí

(ít)








Đối với vùng đô thị của địa phương nói trên, thu nhập bình quân là 800.000 đồng/người/tháng. Tức là đa số người dân có thu nhập từ mức này trở lên và ứng với nó là mức học phí 35.000 đồng/tháng. Về nguyên tắc người có thu nhập hơn 800.000 đồng/tháng sẽ phải đóng học phí cao hơn 35.000 đồng/tháng. Ví dụ thu nhập 850.000 đồng/tháng thì phải đóng học phí là 41.000 đồng/tháng. Tuy nhiên, vì số người có thu nhập cao trên trung bình không nhiều, và để đơn giản cho việc thu học phí, thì những người có thu nhập cao hơn mức trung bình 800.000 đồng/tháng cũng chỉ đóng học phí như người có mức thu nhập 800.000 đồng/tháng. Tức là người đi học được lợi hơn, còn Nhà nước thì thu được ít hơn là khả năng các hộ có thể đóng góp cho việc học tập của con em trong khả năng chi trả bình thường (6% thu nhập) của họ.

Tương tự như vậy, những hộ gia đình có thu nhập dưới mức trung bình 800.000 đồng/tháng tới 650.000 đồng/tháng đều chỉ đóng một mức học phí là 17.000 đồng/tháng, tương ứng với thu nhập 650.000 đồng/tháng. Còn thu nhập dưới 650.000 đồng /tháng thì không phải đóng học phí.

Đối với huyện miền núi có thu nhập bình quân 400.000 đồng/tháng thì thực tế sẽ miễn học phí cho tất cả học sinh, ngoài ra đa số còn được hỗ trợ 13.000 đồng/tháng để giúp gia đình mua sách, vở, đồ dùng học tập cho các em (ngoài 6% thu nhập các gia đình đã dành cho việc này).

Theo Quyết định số 70/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ năm 1998 về khung học phí thì từ năm 1998, đối với các đô thị, học phí trung học phổ thông đã tới 35.000 đồng/tháng, vùng nông thôn tới 25.000 đồng/tháng và vùng miền núi là 15.000 đồng/tháng. Đối chiếu với quy định này thì học phí mới tính theo khả năng chi trả 6% thu nhập, là tương đương với vùng đô thị (35.000 đồng/tháng), thấp hơn với vùng đồng bằng (17.000 đồng/tháng so với 25.000 đồng/tháng) và thêm hỗ trợ (13.000 đồng/tháng) của nhà nước cho các gia đình rất nghèo chứ không phải đóng học phí (15.000 đồng/tháng).

Nếu tính thu nhập bình quân của Hà Nội năm 2008 là 1.440.000 đồng/người/tháng thì mức học phí sẽ là 112.000 đồng/tháng. Mức này bằng 3,2 lần mức học phí tối đa 35.000 đồng/tháng dành cho đô thị năm 1998 theo Quyết định số 70/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, tuy nhiên hoàn toàn là khả thi với thu nhập bình quân của người dân thủ đô, và chi phí cho học tập vẫn không vượt quá 6% thu nhập của gia đình.

Tóm lại đối với giáo dục mầm non và phổ thông học phí mới theo nguyên tắc phù hợp với khả năng chi trả của hộ dân sẽ làm cho học phí không là gánh nặng tài chính với hộ gia đình, đồng thời đã giảm đáng kể tính bình quân, bao cấp của việc đóng học phí, khắc phục tình trạng nhà nước bao cấp, hỗ trợ cho các hộ gia đình có thu nhập cao cũng giống như cho các hộ có thu nhập thấp trong việc cung cấp dịch vụ giáo dục cho học sinh. Các hộ có thu nhập thấp được hỗ trợ thiết thực để con em đi học.



Áp dụng nguyên tắc trên để tính toán mức chi trả khả thi cho học tập của 1 hộ 1 tháng và học phí của mỗi vùng kinh tế-xã hội trong từng tỉnh, thành phố và cả nước trong giai đoạn 2009-2014 . Mức chi trả khả thi được tính toán dựa trên dự báo thu nhập bình quân 1 nhân khẩu 1 tháng ước tính theo tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.(Biểu 47).

Каталог: UserControls -> ckfinder -> userfiles -> files
files -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ SÁU quốc hội khoá XII
files -> Phụ lục số 1 danh mục các văn bản hưỚng dẫn thi hành pháp luật về giao thôNG
files -> PHỤ LỤC 1 KẾt quả XỬ LÝ ĐƠN, thư CỦa uỷ ban tư pháp từ sau kỳ HỌp thứ SÁU ĐẾn truớc kỳ HỌp thứ BẢy quốc hội khóa XII
files -> Phần I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
files -> II. Các kiến nghị về chính sách đối với giáo viên
files -> BÁo cáo việc thực hiện chính sách, pháp luật về thành lập trường, đầu tư và đảm bảo chất lượng đào tạo trong giáo dục đại học

tải về 5.56 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   ...   33




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương