ĐỀ ÁN ĐỔi mới cơ chế TÀi chính giáo dục giai đOẠN 2009-2014


Biểu 39a: Hệ số phụ cấp ưu đãi và thu hút đối với giáo viên



tải về 5.56 Mb.
trang12/33
Chuyển đổi dữ liệu19.07.2016
Kích5.56 Mb.
#2071
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   ...   33

Biểu 39a: Hệ số phụ cấp ưu đãi và thu hút đối với giáo viên

TT

Đối tượng được hưởng


Hệ số phụ cấp

ưu đãi và thu hút



1

Nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục đang công tác tại trường năng khiếu thể dục, thể thao; trường năng khiếu nghệ thuật; trường phổ thông dân tộc bán trú; trường dự bị đại học

50%

2

Nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục đang công tác tại trường phổ thông dân tộc nội trú; trường trung học phổ thông chuyên, trường, lớp dành cho người tàn tật, khuyết tật

70%

3

Nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục (thuộc địa phương hoặc từ địa phương khác đến) được điều động đến công tác hoặc đang công tác tại vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn

70%

4.3. Tình hình về tiền lương bình quân/tháng của nhà giáo

Trong những năm gần đây, nhà nước đã ban hành một số chính sách nhằm tăng thu nhập cho đội ngũ nhà giáo các cấp. Theo báo cáo của các tỉnh, thành phố trong cả nước và các trường trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học thì tiền lương bình quân tháng của nhà giáo năm 2006 (bao gồm phụ cấp ưu đãi) như sau:



Biểu 39b: Tiền lương bình quân/tháng của nhà giáo các cấp năm 2006

Đơn vị : đồng/tháng






Giáo viên, giảng viên

Tiền lương bình quân/tháng

(năm 2006)



1

Giáo viên mầm non

1.675.000

2

Giáo viên tiểu học

2.070.000

3

Giáo viên trung học cơ sở

1.957.000

4

Giáo viên trung học phổ thông

2.302.000

5

Giáo viên trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề

2.500.000

6

Giảng viên cao đẳng, đại học

2.578.000




Bình quân toàn ngành

2.058.000

Với chế độ lương giáo viên và phụ cấp như hiện nay, thì tiền lương bình quân của giáo viên trung học cơ sở thấp hơn tiền lương bình quân của giáo viên tiểu học, là do giáo viên tiểu học có hệ số phụ cấp bình quân cao hơn giáo viên trung học cơ sở, mặt khác do số giáo viên tiểu học dạy ở các vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa có phụ cấp ưu đãi cao nhất (50%) nhiều hơn số giáo viên trung học cơ sở ở các vùng này.

4.4. Chính sách tiền lương đối với nhà giáo hiện nay

Liên bộ Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT-BNV-BTC ngày 05/01/2005 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang. Theo đó lương giáo viên thay đổi như sau:

- Lương giáo viên mầm non đạt chuẩn trình độ trung học sư phạm được chuyển xếp vào ngạch viên chức loại B cao hơn so với chế độ tiền lương trước đây (trước đây xếp vào viên chức loại C). Do vậy, hệ số lương mới của giáo viên mầm non được tăng lên. Ví dụ: bậc 1 của giáo viên mầm non được tăng từ 1,40 lên 1,86 (tăng 32,85%).

- Đối với giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở đều có 3 ngạch lương: giáo viên, giáo viên chính, giáo viên cao cấp. Giáo viên có trình độ cao đẳng, đại học được xếp lương ở các ngạch khác nhau không phải xếp chung một ngạch lương như trước đây. Ví dụ: Giáo viên tiểu học, mầm non có trình độ đại học được xếp lương vào ngạch viên chức loại A1 như giáo viên trung học phổ thông có trình độ đại học; giáo viên tiểu học, mầm non có trình độ cao đẳng được xếp lương vào ngạch viên chức loại Ao như giáo viên trung học cơ sở có trình độ cao đẳng v.v...

- Khi được tuyển dụng mới, giáo viên có trình độ thạc sĩ xếp bậc 2, tiến sĩ xếp bậc 3 của ngạch viên chức A1 (có trình độ đại học).

Như vậy đã có sự phân hoá để khuyến khích giáo viên học tập, nâng cao trình độ, giáo viên có trình độ cao hơn được xếp lương cao hơn.

- Đối với giáo viên và cán bộ quản lý tại các trường học ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, ở trường chuyên biệt khi thực hiện Nghị định số 61/2006/NĐ-CP ngày 20/6/2006 đã cơ bản khắc phục được những tồn tại về chính sách đãi ngộ quy định tại Nghị định số 35/2000/NĐ-CP, tạo không khí phấn khởi trong đội ngũ này, như: Nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục đến công tác ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khăn trước ngày 25/07/1996 mà nay vẫn đang công tác ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì nay được hưởng phụ cấp thu hút với mức 70% lương trong thời gian 05 năm.

4.5. Một số hạn chế của chính sách tiền lương hiện nay đối với nhà giáo

- Tiền lương là khoản thu nhập duy nhất đối với đại bộ phận các nhà giáo, vì nhà giáo không có làm thêm, không có tiền thưởng như các ngành nghề khác (trừ một bộ phận nhỏ nhà giáo ở thành phố có dạy thêm đối với các bộ môn chính) nên thu nhập của đại bộ phận nhà giáo nói chung thấp hơn so với thu nhập của ngành nghề khác. Do vậy, đời sống của nhà giáo vẫn gặp nhiều khó khăn.

- Nhìn chung chính sách tiền lương mới chưa tạo điều kiện để nhà giáo yên tâm công tác, chưa thực sự đúng vị trí coi giáo dục và đào tạo là “Quốc sách hàng đầu”. Hệ thống thang bảng lương ngành giáo dục đào tạo cũng như thang bảng lương của các ngành khác (tốt nghiệp đại học đều có lương bậc 1 là 2,34), vẫn còn một số ngạch lương chưa bằng ngành khác, chẳng hạn như: Ngạch giáo viên trung học cao cấp (mã số: 15.112) có hệ số lương thấp hơn ngạch chính của các ngành khác (giáo viên trung học cao cấp có hệ số lương bậc 1 là 4,00, chuyên viên chính có hệ số lương bậc 1 là 4,40 (cao hơn 0,40); trong khi đó chuyên viên chính chỉ yêu cầu tốt nghiệp đại học còn giáo viên trung học cao cấp yêu cầu có trình độ sau đại học, thạc sĩ.

- Phụ cấp ưu đãi giáo viên đối với giáo viên mầm non, tiểu học ở miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa trước đây là 70% nay là 50%, nên tương quan tiền lương cũ - mới không tăng, có 1 số bậc lương có tăng nhưng tăng không đáng kể.

- Do những hạn chế nêu trên, nên tiền lương của nhà giáo còn thấp, chưa đủ để đảm bảo cuộc sống. Vì thế, nghề dạy học chưa đủ sức thu hút người giỏi, nhà giáo chưa có đủ điều kiện để thực sự toàn tâm toàn ý với nghề.

5. Đánh giá chung về cơ chế tài chính của giáo dục giai đoạn 2001-2008

5.1. Tám ưu điểm

- Nhà nước đã ưu tiên đầu tư cao cho giáo dục trong suốt 10 năm qua, đến năm 2008 đã đạt 20% tổng chi ngân sách như Nghị quyết của Quốc hội. Phần chi của nhà nước giữ vai trò quyết định sự phát triển của hệ thống giáo dục quốc dân (chiếm 92,7% tổng chi ở các trường công lập và chiếm 78,2% tổng chi toàn xã hội tại các trường công lập và ngoài công lập).

- Ngân sách nhà nước bước đầu đã tập trung cho các cấp học phổ cập, vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn và phát triển đội ngũ nhà giáo.

- Nhà nước đã ban hành một số định mức phân bổ ngân sách chi thường xuyên và chi đầu tư cho giáo dục.

- Đã ban hành một số văn bản về phân cấp quản lý và sử dụng ngân sách giáo dục nhằm tăng quyền tự chủ tự, chịu trách nhiệm về tài chính của các cơ sở giáo dục.

- Chính sách xã hội hóa giáo dục gần đây đã khuyến khích đầu tư của xã hội cho giáo dục, nhất là việc phát triển các trường ngoài công lập ở giáo dục mầm non, trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề và cao đẳng, đại học đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.

- Bên cạnh các chính sách tiền lương chung, nhà nước đã ban hành phụ cấp theo lương đối với nhà giáo, tạo điều kiện để đảm bảo thu nhập cho giáo viên, nhất là đối với giáo viên công tác tại vùng đặc biệt khó khăn.

- Một số chính sách cấp học bổng, miễn giảm học phí và cho vay đi học đối với học sinh, sinh viên thuộc diện chính sách và người nghèo đã mang lại hiệu quả thiết thực trong việc thực hiện công bằng xã hội.

- Một số quy định về kiểm tra, giám sát và công khai sử dụng tài chính ở các cơ sở giáo dục bước đầu đã có tác động tích cực đến nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính đầu tư cho giáo dục.

5.2. Tám tồn tại

- Mức phân bổ ngân sách chi thường xuyên còn thấp, ở hầu hết các địa phương không đảm bảo được cơ cấu chi 80% cho chi lương, các khoản có tính chất lương, bảo hiểm...và 20% chi ngoài lương theo Quyết định số 151/2006/QĐ-TTg ngày 29/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ. Mức chi đầu tư xây dựng cơ bản còn thấp so với nhu cầu rất lớn của ngành.

- Định mức phân bổ ngân sách cho giáo dục chưa gắn chặt với các tiêu chí đảm bảo chất lượng đào tạo (giáo viên, điều kiện về cơ sở vật chất...), chưa làm rõ trách nhiệm chia sẻ chi phí đào tạo giữa nhà nước và người học ở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học, về cơ bản vẫn mang nặng tính bao cấp và bình quân.

- Chế độ học phí được thực hiện từ năm 1998 (theo Quyết định số 70/1998/QĐ-TTg ngày 31/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ), đến nay vẫn chưa thay đổi. Mức thu học phí quá thấp, dưới mức khả năng chi trả của người dân ở các khu đô thị, không phù hợp với mặt bằng giá cả cùng với chính sách cải cách tiền lư­ơng trong những năm qua.

- Việc miễn, giảm học phí trong các cơ sở giáo dục do các trường phải tự thực hiện và việc miễn học phí đối với học sinh ngành sư phạm là chưa hợp lý. Còn thiếu những cơ chế cụ thể trong việc hỗ trợ học sinh thuộc gia đình có hoàn cảnh khó khăn đi học được.

- Phương thức phân bổ và quản lý tài chính hiện nay giữa các bộ, ngành trung ương và giữa trung ương với địa phương cho thấy sự bất cập trong quản lý, giám sát nguồn ngân sách cho giáo dục, không tổng hợp được đầy đủ tình hình thu chi đối với các đơn vị ngoài công lập. Việc kiểm tra, phê duyệt quyết toán thu chi hàng năm là trách nhiệm của cơ quan chủ quản và cơ quan tài chính đồng cấp. Như vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo không quản lý ngân sách toàn ngành, thiếu thông tin để tổng hợp, theo dõi và đánh giá hiệu quả đầu tư của ngân sách nhà nước cho lĩnh vực giáo dục.

- Việc giao kế hoạch thu chi ngân sách hàng năm chưa gắn với kế hoạch phát triển trung hạn và dài hạn của ngành, gây khó khăn cho việc chủ động sắp xếp thứ tự ưu tiên thực hiện các nhiệm vụ, hoạt động, chế độ, chính sách và dự kiến kinh phí theo trần ngân sách được xác định trước để cân đối giữa nhu cầu chi với khả năng nguồn lực tài chính công.

- Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và tài chính trong các cơ sở giáo dục công lập chưa phát huy được hiệu quả. Với nguồn ngân sách cấp hàng năm còn hạn hẹp và mức thu học phí rất thấp nên các cơ sở giáo dục không thể có đủ nguồn lực để bổ sung thu nhập cho giáo viên và tăng cường trang thiết bị, cơ sở vật chất nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.

- Mặc dù đã có chủ trương và chính sách khuyến khích xã hội hoá giáo dục, tuy nhiên vẫn chưa có cơ chế hữu hiệu nhằm huy động nhiều hơn nữa các nguồn lực của xã hội đầu tư cho giáo dục.

PHẦN IV

MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN VÀ NHU CẦU ĐẦU TƯ
CHO GIÁO DỤC GIAI ĐOẠN 2009 - 2020

1. Các quan điểm định hướng phát triển giáo dục đến năm 2020

Các quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước về sự nghiệp giáo dục đã được thể hiện trong Hiến pháp, Luật giáo dục 2005, các Nghị quyết TW 4 (khóa VII), TW 2 (khóa VIII), Kết luận Hội nghị TW 6 (khóa IX) và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X. Để đáp ứng các yêu cầu đối với sự nghiệp giáo dục trong thời kỳ mới, phải tiếp tục quán triệt các quan điểm cơ bản của Đảng, đồng thời cần cụ thể hóa và bổ sung một số nội dung có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn sau đây:

- Phát triển giáo dục với mục đích tạo lập nền tảng và động lực công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đồng thời, góp phần xây dựng một nền văn hóa tiên tiến trong bối cảnh toàn cầu hóa.

- Phát triển nền giáo dục của dân, do dân và vì dân là quốc sách hàng đầu, là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Hội nhập quốc tế về giáo dục phải được đẩy mạnh dựa trên cơ sở bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc góp phần xây dựng một nền giáo dục giàu tính nhân văn, tiên tiến, hiện đại.

- Xã hội hóa giáo dục là phương thức phát triển giáo dục tiến đến một xã hội học tập.

- Phát triển dịch vụ giáo dục và tăng cường yếu tố cạnh tranh trong hệ thống giáo dục là một trong các động lực phát triển giáo dục.

- Giáo dục phải đảm bảo chất lượng tốt nhất trong điều kiện chi phí còn hạn hẹp.



2. Mục tiêu chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2020

2.1. Giáo dục mầm non

Thực hiện phổ cập giáo dục trẻ 5 tuổi để đảm bảo hầu hết trẻ 5 tuổi đều được chăm sóc, giáo dục trong các cơ sở giáo dục. Năm 2020 có 97% trẻ 5 tuổi được qua lớp mẫu giáo chuẩn bị vào lớp 1. Mạng lưới các cơ sở giáo dục mầm non, nhất là ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa được phát triển. Đảm bảo đến năm 2010 có 80%, năm 2015 có 95% và năm 2020 có 100% xã, phường trên toàn quốc có trường, lớp mầm non.

Đến năm 2020 có trên 90% số trẻ 5 tuổi đạt chuẩn phát triển. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng trong các cơ sở giáo dục mầm non ở mức dưới 5%. Từ năm 2010 áp dụng trên toàn quốc chương trình giáo dục mầm non được đổi mới theo hướng tích hợp nội dung các chủ đề giáo dục và tăng cường hoạt động của trẻ. Đến năm 2015 có 50% và năm 2020 có 80% số giáo viên mầm non đạt trình độ đào tạo từ cao đẳng trở lên; năm 2015 có 80% và 2020 có 95% giáo viên mầm non đạt chuẩn nghề nghiệp.

2.2. Giáo dục phổ thông

Duy trì tỷ lệ trẻ đi học đúng độ tuổi. Phấn đấu đến năm 2010 có 98%, năm 2015 có 99% và năm 2020 trên có 99% trẻ em trong độ tuổi tiểu học, năm 2010 có 95%, năm 2015 có 98% và năm 2020 có 99% trẻ em trong độ tuổi trung học cơ sở và 70% trẻ khuyết tật được đến trường. Đến năm 2010 có 64/64 tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục 9 năm trong đó, có 70% tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục 9 năm đúng độ tuổi. Tỷ lệ này sẽ đạt 100% vào năm 2020. Phấn đấu đến 2020 có 80% thanh niên Việt Nam trong độ tuổi đạt trình độ học vấn tương đương trung học phổ thông.

Mạng lưới trường phổ thông được phát triển khắp toàn quốc, riêng đối với tiểu học đảm bảo cự ly để không còn tình trạng học sinh bỏ học vì nhà quá xa. Củng cố và mở rộng hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú cấp tỉnh và cấp huyện, trường bán trú. Phát triển giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật trong phạm vi toàn quốc.

Đối với giáo dục tiểu học: Năng lực đọc hiểu và kỹ năng làm toán của học sinh được nâng cao, tỷ lệ học sinh đạt yêu cầu trong các đánh giá quốc gia về đọc hiểu và làm toán trên 90% vào năm 2020. Một bộ phận lớn học sinh tiểu học được học chương trình tiếng Anh mới từ lớp 3, đến năm 2020 có 70% số học sinh theo học chương trình này và đạt mức độ 1 theo chuẩn năng lực ngoại ngữ quốc tế.

Đối với giáo dục trung học: Học sinh có tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, ý thức tự lực, khả năng tự học, kỹ năng sống căn bản và ý thức chấp hành pháp luật. Học sinh được trang bị học vấn cơ bản, hiện đại và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và nghề phổ thông, được học một cách liên tục và có hiệu quả chương trình ngoại ngữ mới, trong đó bắt đầu từ những lớp cuối cấp trung học cơ sở một số môn học được dạy và học bằng tiếng Anh để đến 2020 có 45% số học sinh trung học phổ thông theo học chương trình ngoại ngữ mới và đạt mức độ 2 theo chuẩn năng lực ngoại ngữ quốc tế.

Chậm nhất là năm 2015 áp dụng trên phạm vi toàn quốc một chương trình giáo dục phổ thông được đổi mới một cách căn bản theo hướng phát triển năng lực người học, định hướng nghề nghiệp và tạo cơ hội cho mỗi cá nhân học tập phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, nhu cầu và năng lực của mình.

Đội ngũ giáo viên phổ thông được phát triển đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu để có thể thực hiện giáo dục toàn diện, dạy học phân hóa, dạy học 2 buổi/ngày, dạy học song ngữ Anh-Việt ở một số môn học; trình độ đào tạo của giáo viên được tiếp tục nâng cao; đến 2020 có 100% số giáo viên tiểu học đạt trình độ cao đẳng trở lên, 100% số giáo viên trung học cơ sở và trung học phổ thông đạt trình độ đại học trở lên.

Phát triển hệ thống các trường chuyên trở thành là nơi đào tạo nhân tài ở tuổi học sinh cho mỗi địa phương.



2.3. Giáo dục nghề nghiệp

Phấn đấu tăng mạnh tỷ lệ lao động qua đào tạo, tỷ lệ lao động trong độ tuổi được đào tạo đạt 60% vào năm 2020 từ trình độ sơ cấp đến trình độ trung cấp (chuyên nghiệp và nghề) và cao đẳng nghề. Đến 2020 có trên 95% số học sinh tốt nghiệp được các doanh nghiệp và cơ quan sử dụng lao động đánh giá đáp ứng được các yêu cầu của công việc. Hình thành một số cơ sở đào tạo nghề trình độ cao ở khu vực.

Một hệ thống giáo dục được tái cấu trúc với phân luồng và liên thông mạnh mẽ. Giáo dục nghề nghiệp được tiếp tục phát triển để có đủ khả năng tiếp nhận 10% năm 2010, 20% năm 2015 và 30% năm 2020 số học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở vào học một ngành, nghề và có thể tiếp tục học các trình độ cao hơn khi có điều kiện. Đến 2020 có khoảng 30% số học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông được học trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Một hệ thống đào tạo chất lượng cao sẽ được xây dựng để đào tạo nhân lực có trình độ từ công nhân kỹ thuật đến kỹ thuật viên đạt chuẩn quốc tế đối với một số lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của đất nước.

Sau khi hoàn thành các chương trình giáo dục nghề nghiệp, học sinh có trình độ, kỹ năng nghề, ý thức kỷ luật lao động và tác phong lao động hiện đại, khả năng sử dụng ngoại ngữ nhất là tiếng Anh trong học tập và làm việc tương đương với học sinh ở các nước phát triển trong khu vực, đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu lao động và khả năng cạnh tranh nhân lực của đất nước. Đến 2020 có trên 95% số học sinh tốt nghiệp được các doanh nghiệp và cơ quan sử dụng lao động đánh giá đáp ứng được các yêu cầu của công việc.

Đến năm 2010, hệ thống đào tạo nghề được hoàn chỉnh với mạng lưới 120 trường cao đẳng nghề (trong đó có 40 trường đạt chuẩn quốc gia), 250 trường trung cấp nghề (trong đó có 45 trường đạt chuẩn quốc gia); năm 2015 có 200 trường cao đẳng nghề (phấn đấu có 2 trường đạt trình độ tiên tiến của thế giới và 5 trường đạt trình độ tiến tiến của khu vực Đông Nam Á), 300 trường trung cấp nghề (trong đó có 100 trường đạt chuẩn quốc gia).

Danh mục nghề nghiệp mới và chương trình giáo dục nghề nghiệp mới được xây dựng, ban hành và thực hiện từ năm 2010; đối với trình độ cao đẳng nghề, một số môn học được dạy bằng tiếng Anh từ năm 2015.

Giai đoạn 2009-2010, quy mô dạy nghề tăng tăng khoảng 10%/năm, trong đó trình độ trung cấp nghề, cao đẳng nghề tăng 18,5%/năm. Giai đoạn 2011-2015, quy mô dạy nghề tăng 7%/ năm, trong đó cao đẳng nghề và trung cấp nghề tăng khoảng 16%/năm.

Đội ngũ giáo viên của giáo dục nghề nghiệp được phát triển đảm bảo về số lượng và cơ cấu; trình độ đào tạo của giáo viên được nâng lên, đến năm 2015 có 100% giáo viên đạt trình độ đại học, đến năm 2020 có 20% số giáo viên ở các trường trung cấp nghề có trình độ thạc sỹ, tiến sỹ; 35% số giáo viên ở các trường cao đẳng nghề có trình độ thạc sỹ, tiến sỹ.

2.4. Giáo dục đại học

Nâng tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân lên 200 vào năm 2010, 300 vào năm 2015 và 450 vào năm 2020. Tỷ lệ học đại học và cao đẳng đạt 35% trong độ tuổi vào năm 2020. Mở rộng quy mô đào tạo trong các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập, phấn đấu đến 2020 tỷ lệ sinh viên học trong các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập chiếm 40% tổng số sinh viên trong cả nước. Hình thành một số trường đại học có trình độ cao ở khu vực, có ít nhất một trường được đánh giá là thuộc tốp 200 đại học hàng đầu thế giới năm 2020.

Sinh viên sau khi tốt nghiệp có kiến thức hiện đại, vững chắc, có khả năng lao động sáng tạo, có tư duy độc lập, phê phán và năng lực giải quyết vấn đề, có khả năng thích ứng cao với những biến động, có khả năng sử dụng tiếng Anh trong học tập, nghiên cứu và làm việc sau khi tốt nghiệp, 80% số sinh viên tốt nghiệp đạt mức 3 theo chuẩn năng lực ngoại ngữ quốc tế. Đến năm 2020 có ít nhất 5% tổng số sinh viên tốt nghiệp đại học có trình độ ngang bằng với sinh viên tốt nghiệp loại giỏi ở các trường đại học hàng đầu trong khối ASEAN, 80% số sinh viên tốt nghiệp được các doanh nghiệp và cơ quan sử dụng lao động đánh giá đáp ứng được các yêu cầu của công việc. Đồng thời, với việc nâng cao chất lượng toàn diện sinh viên diện đại trà, mở rộng diện đào tạo, bồi dưỡng sinh viên tài năng để chuẩn bị đội ngũ nhân lực có trình độ cao, thạo ngoại ngữ, đủ sức cạnh tranh trong khu vực và thế giới để đến năm 2020, Việt Nam đứng trong nhóm 50 nước đứng đầu về năng lực cạnh tranh về nhân lực.

Các chương trình đào tạo tiên tiến quốc tế được tiếp tục áp dụng trên quy mô rộng, đến năm 2010 có ít nhất 50 chương trình, 2020 có ít nhất 150 chương trình quốc tế được thực hiện, trong số đó, một số chương trình sẽ do các giáo sư của các đại học có uy tín quốc tế thực hiện giảng dạy trực tiếp bằng tiếng Anh.

Đội ngũ giảng viên các trường cao đẳng và đại học được chuẩn bị đầy đủ cả về số lượng và chất lượng để thực hiện nhiệm vụ đổi mới toàn diện giáo dục đại học. Đến năm 2015 có 30% giảng viên cao đẳng đạt trình độ thạc sỹ trở lên, trong đó có 5% là tiến sỹ, đến năm 2020, các tỷ lệ này là 50% và 10%. Đến năm 2015 có 55% giảng viên đại học đạt trình độ thạc sỹ trở lên, trong đó có 25% là tiến sỹ, đến năm 2020 các tỷ lệ này là 65% và 30%.

Năng lực và hiệu quả hoạt động khoa học công nghệ của các cơ sở giáo dục đại học được nâng cao. Tăng số lượng trường đại học theo hướng nghiên cứu lên 14 vào năm 2010, 25 vào năm 2015 và 30 vào năm 2020. Sự gắn kết phối hợp giữa đào tạo - nghiên cứu khoa học - sản xuất dịch vụ được đẩy mạnh.



2.5. Giáo dục thường xuyên

Tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi từ 15 trở lên là 96% vào năm 2010, 97% vào năm 2015 và 98% vào năm 2020, trong đó tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi từ 15 đến 35 là 98% vào năm 2010, 99% vào năm 2015 và 100% vào năm 2020.

Mạng lưới các cơ sở giáo dục thường xuyên tiếp tục được mở rộng. Đến năm 2010 có 90%, năm 2015 có 95% và năm 2020 có 100% quận, huyện có trung tâm giáo dục thường xuyên. Đến năm 2010 có 80%, năm 2015 có 90% và năm 2020 có 95% xã, phường có trung tâm học tập cộng đồng.

Kết quả xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục 9 năm được củng cố một cách bền vững. Các chương trình sau xoá mù, bổ túc văn hoá trên tiểu học, các chương trình đáp ứng yêu cầu người học, các chương trình bồi dưỡng thường xuyên được xây dựng lại, cung cấp được cho người học kiến thức và kỹ năng hiện đại. Công nghệ thông tin được ứng dụng mạnh mẽ trong giáo dục thường xuyên để đổi mới phương pháp dạy học và thực hiện giáo dục từ xa.



2.6. Các nguồn lực cho giáo dục

Đảm bảo duy trì tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo trong tổng chi NSNN là 20% trong giai đoạn 2009-2014, phấn đấu đạt 21% vào năm 2015, trong đó tập trung ưu tiên cho giáo dục phổ cập, giáo dục ở những vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa và hỗ trợ tài chính cho những học sinh, sinh viên thuộc các nhóm thiệt thòi và các nhóm được hưởng chính sách ưu tiên. Ngoài NSNN, nguồn lực cho giáo dục sẽ được huy động từ các tổ chức kinh tế-xã hội, được chia sẻ với người học và các hộ gia đình để đảm bảo có đủ nguồn tài chính thực hiện giáo dục có chất lượng.

Tỷ lệ hỗ trợ nghiên cứu khoa học của các cơ sở giáo dục đại học trong NSNN đạt và duy trì ở mức 1,5% từ năm 2015.

Ngoài NSNN, nguồn lực cho giáo dục sẽ được huy động từ các tổ chức kinh tế-xã hội, được chia sẻ với người học và các hộ gia đình để đảm bảo có đủ nguồn tài chính thực hiện giáo dục có chất lượng.

Việc phân bổ tài chính cho các cơ sở giáo dục được thực hiện dựa trên nhu cầu thực và kết quả hoạt động của từng cơ sở nhằm tạo sự cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích các cơ sở phấn đấu nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo.

Nguồn lực cho giáo dục được quản lý và sử dụng có hiệu quả trên cơ sở nâng cao tính tự chủ của các cơ sở giáo dục, đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm đối với Nhà nước, người học và xã hội. Từ nay đến 2020, tất cả các cơ sở giáo dục đều được kiểm toán và công bố công khai kết quả kiểm toán.



Каталог: UserControls -> ckfinder -> userfiles -> files
files -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ SÁU quốc hội khoá XII
files -> Phụ lục số 1 danh mục các văn bản hưỚng dẫn thi hành pháp luật về giao thôNG
files -> PHỤ LỤC 1 KẾt quả XỬ LÝ ĐƠN, thư CỦa uỷ ban tư pháp từ sau kỳ HỌp thứ SÁU ĐẾn truớc kỳ HỌp thứ BẢy quốc hội khóa XII
files -> Phần I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
files -> II. Các kiến nghị về chính sách đối với giáo viên
files -> BÁo cáo việc thực hiện chính sách, pháp luật về thành lập trường, đầu tư và đảm bảo chất lượng đào tạo trong giáo dục đại học

tải về 5.56 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   ...   33




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương