* howard b. Wilder robert p. Ludlum harriett mc. Cune brown



tải về 2.16 Mb.
trang27/33
Chuyển đổi dữ liệu29.07.2016
Kích2.16 Mb.
#9902
1   ...   23   24   25   26   27   28   29   30   ...   33

CHƯƠNG XVIII

LÃNH THỔ HOA KỲ MỞ RỘNG ĐẾN TẬN BỜ BIỂN THÁI BÌNH DƯƠNG
Các bậc tiền bối của chúng ta mong muốn đất nước Hoa Kỳ ngày càng trở nên rộng lớn và hùng mạnh hơn. Họ đã đều đều tiến về miền Tây và hăng say hướng nhìn về vùng đất hoang vắng xa xăm. Họ muốn làm chủ giải đất hoang vắng xa xăm này. Nói về công cuộc đi tìm kiếm đất, một người Hoa Kỳ nhiệt thành hăng hái đã ví Hoa Kỳ như một con trâu đi lang thang khắp cả các vùng đồng bằng miền Tây:

“Tôi bảo rằng hãy mở đường cho con trâu Hoa Kỳ còn trẻ- nó chưa đủ đất đai; nó mong muốn có thêm đất để làm nơi nghỉ mát trong mùa hè- nó ước mong có thêm đất để làm cánh đồng cỏ xinh tươi. Tôi bảo anh là chúng ta sẽ cho nó miền Oregon để cho nó làm nơi nghỉ mát trong mùa hè, cho nó miền Texas để làm cánh đồng cỏ trong mùa đông. Giống như những chủng tộc khác, nó cũng cần muối, như vậy thì nó cần phải sử dụng hai đại dương – Thái Bình Dương oai hùng vĩ đại và Đại Tây Dương cuồn cuộn sóng sẽ là của nó…”

Vào năm 1783, lãnh thổ Hoa Kỳ nằm dài từ biên giới Gia Nã Đại đến Florida, và từ Đại tây dương tới bờ sông Mississippi. Hai mươi năm sau đó, Tổng thống Jefferson mua lãnh thổ Louisiana (đã nói ở chương XIII). Dù rằng mua được giải đất Louisiana là làm tăng gấp đôi lãnh thổ Hoa Kỳ, nhưng người dân Hoa Kỳ vẫn chưa hài lòng. Người nói những lời lẽ đã ghi trên đây đã nghĩ rất đúng rằng con trâu Hoa Kỳ chắc là không bằng lòng với lãnh thổ của Hoa Kỳ vào năm 1803.

Chương này sẽ bàn tại sao Hoa Kỳ càng ngày càng kiếm được thêm đất đai cho tới khi lãnh thổ vươn tới tận Thái bình dương.

Các bạn sẽ tìm hiểu những vấn đề dưới đây:

1. Công cuộc thám hiểm và định cư ở vùng đất Louisiana như thế nào?

2. Hoa Kỳ đã chiếm được giải đất Florida như thế nào?

3. Hoa Kỳ đã chiếm được miền Tây Nam, Texas và California ra làm sao?

4. Sự khám phá ra vàng ở California đã khiến cho California gia nhập cộng đồng quốc gia liên bang ra làm sao?

5. Hoa Kỳ đã chiếm được Oregon như thế nào?

*

* *


PHẦN MỘT

CÔNG CUÔC THÁM HIỂM VÀ ĐỊNH CƯ Ở VÙNG ĐẤT LOUISIANA NHƯ THẾ NÀO?
- Lãnh thổ Louisiana vào năm 1803 ra làm sao?

Khi Tổng thống Jefferson mua của Pháp lãnh thổ Louisiana thì ngay cả chính ông và bất kỳ người nào khác cũng không biết rõ vùng lãnh thổ vĩ đại này rộng lớn là bao nhiêu. Vùng đất Louisiana nằm giữa sông Mississippi và rặng núi đá Rockies chạy dài từ biên giới Gia Nã Đại tới vịnh Mễ Tây Cơ. Thực ra, đây là một giải đất cho con “Trâu Hoa Kỳ”. Vùng đại đồng bằng chạy dài từ bờ sông Mississippi đến tận rặng núi đá Rockies. Vùng thượng lưu thung lũng sông Mississippi là những khu rừng rậm đầy những hươu nai và các loài thú rừng khác. Xa hơn về phía Tây và phía Nam có hàng đàn trâu lông lá lồm xồm đông như kiến đi lang thang trong miền đại đồng bằng này, kéo nhau đi ăn trên cánh đồng cỏ chạy dài hàng trăm dặm. Con sông Mississippi tiếp nhận nước của sông Missouri uốn khúc chảy qua vùng đất phì nhiêu rộng lớn rồi trườn mình ra tới tận vịnh Mễ Tây Cơ.



- Ngoại trừ thành phố New Orleans, lúc bấy giờ có rất ít người định cư lập nghiệp ở Louisiana

Vào năm 1803, có chừng vài ngàn người Pháp và Hoa Kỳ sinh sống ở dọc theo hai bên bờ sông Mississippi, phần lớn ở đây là các làng xóm của người Pháp được thiết lập ở đó đã từ lâu. (Hẳn các bạn còn nhớ rằng toàn thể thung lũng con sông này đã có một lần thuộc về Tân Pháp). Những vùng định cư chính ở trong giải đất Louisiana mua được là Saint Louis và New Orleans. Trước kia Saint Louis là thị trấn buôn bán da thú có khoảng chừng 160 căn nhà gỗ. Tuy nhiên, lúc bấy giờ New Orleans đã là một thị trấn trù phú sầm uất có tới 10 ngàn dân. Thành phố này ở trên một vị trí cách xa cửa sông Mississippi.

New Orleans đã có một lịch sử oai hùng sáng lạn. New Orleans do người Pháp thành lập vào năm 1718, và sau đó được trao cho Tây Ban Nha vào khi chấm dứt trận chiến giữa người Anh với người Pháp và với người da đỏ. Cuối thế kỷ thứ XVIII, nhiều người Tây Ban Nha giàu có đến đây sinh sống một cách huy hoàng, vương giả. Rồi thì Louisiana lại rơi vào tay người Pháp, sau cùng Louisiana lại đổi chủ, nước Pháp đem bán giải đất này cho Hoa Kỳ vào năm 1803. Khi đó, New Orleans là thành phố của dân cư hỗn tạp gồm người Pháp, người Tây Ban Nha và nhiều dân nô lệ da đen. Thành phố này còn là một hải cảng để xuất nhập hàng hóa và sản phẩm cho vùng thung lũng sông Mississippi. Gần thành phố này có nhiều đồn điền rộng lớn trồng chàm, mía và bông vải.

- Hai ông Lewis và Clark thám hiểm vùng lãnh thổ Louisiana

Tổng thống Jefferson muốn biết rõ hơn về giải đất rộng lớn mà Hoa Kỳ vừa mới mua được, cho nên ngay khi mua xong ông liền gửi một toán quân đi thám hiểm vùng Louisiana. Cầm đầu toán quân này là đại úy Meriwether Lewis và đại úy William Clark, em trai của ông George Rogers Clark, một nhân vật tiếng tăm thời chiến tranh cách mạng. Khởi hành từ Saint Louis vào năm 1804, toán quân thám hiểm đi ngược dòng sông Missouri, băng qua vùng đất của người da đỏ Sioux. Bản đồ trang sẽ ghi rõ đường đi của toán quân thám hiểm này.



Mùa Đông năm đó, hai ông Lewis và Clark dừng lại ở vùng đất mà ngày nay gọi là South Dakota. Mùa xuân tới, đoàn quân lại tiếp tục lên đường theo dòng sông Missouri ngược tới dãy núi đá Rockies cho tới khi đi tới chỗ sông vô cùng hẹp mà người ta có thể bước qua được. Khi tới rặng núi đá Rockies, thay vì phải quay lại, nhưng nhờ có sự hướng dẫn của một phụ nữ da đỏ tên là Sacajewea, đoàn quân này tiến tới vượt qua rặng núi đá Rockies. Họ cẩn thận ghi lại tất cả sự vật mà chính mắt họ nhìn thấy như chim muông, thú vật, cây cỏ, hoa lá, sông ngòi. Những giấy tờ ghi lại của họ cho ta thấy phần nhiều họ phải chịu cơ cực, khổ nhọc không phải do người da đỏ gây nên, mà trái lại, là do ruồi, muỗi gây nên vào những ngày tháng mùa hè. Cuối cùng, đoàn quân đi tới sông Columbia, rồi đi theo dòng sông này tới bờ biển Thái bình dương. Đoàn quân thám hiểm an toàn về tới Saint Louis vào năm 1806, sau cuộc hành trình dài tới 8 ngàn dặm.

Công trình của đoàn thám hiểm của hai ông Lewis và Clark không những đã giúp cho nhân dân Hoa Kỳ hiểu rõ tin tức về vùng lãnh thổ này, mà còn mở đường cho những người đi săn thú, thương gia và nông dân tiền phong đi lập nghiệp ở vùng đất mới. Tài liệu về chuyến đi của hai ông Lewis và Clark đã được ấn hành, và chúng ta có thể tìm thấy những tài liệu này trong các thư viện. Đó cũng là những tài liệu thích thú cho người đọc.

- Ông Zebulon Pike đi thám hiểm để biết rõ hơn về vùng lãnh thổ Louisiana

Cũng vào thời kỳ này, một nhà thám hiểm khác là ông Zebulon Pike hướng dẫn một đoàn thám hiểm khác đi về phía Bắc để tìm kiếm thượng nguồn phát xuất ra con sông Mississippi. Dù rằng không tìm được nguồn phát xuất ra con sông này, nhưng ông Pike cũng hiểu được rất nhiều về vùng thượng lưu của nó. Sau khi trở về, năm 1806, ông Pike lại từ giã Saint Louis để khởi hành chuyến đi thám hiểm khác nữa. Chuyến đi này ông tiến về phía Tây. Mục đích của ông là thám hiểm lãnh thổ Louisiana, vùng phía Nam của con đường đi của hai ông Lewis và Clark. Sau nhiều tuần lễ đi theo dòng sông Arkansas, ông Pike tới dãy núi Rockies. Núi Pike ở Colorado là do ông khám phá và được đặt tên theo tên nhà thám hiểm dũng cảm này.

Đúng vào mùa đông, ông Pike và đoàn người thám hiểm của ông tới dãy núi đá Rockies. Lạnh và mệt, họ liền quay về phía Nam để đi tìm dòng sông Hồng (Red river). Thực sự họ đã đi vào vùng đất dọc theo con sông Rio Grande – vùng này không thuộc về lãnh thổ Louisiana mà thuộc về Tây Ban Nha. Tại đây, ông Pike và đoàn người thám hiểm lập đồn ải và treo cờ Hoa Kỳ trên đồn ải này. Đoàn quân bị người Tây Ban Nha bắt giam và ông Pike bị đem đến trình diện viên Thống đốc Tây Ban Nha của vùng này. Sau đó, ông được phóng thích và đi xuyên qua lãnh thổ Tây Ban Nha để trở về Hoa Kỳ. Ông mang về được nhiều bản đồ đáng giá và rất nhiều tin tức về vùng đất mà ông đã đi thám hiểm.

- Nhiều dân định cư đổ xô tới lãnh thổ Louisiana

Khi đọc chuyện về cuộc thám hiểm của các ông Lewis, Clark, và Zebulon Pike, một lần nữa, người Hoa Kỳ lại cảm thấy hăng hái tiến về miền Tây. Nhiều dân đi định cư dùng thuyền bè đi xuôi theo các dòng sông tiến về miền Tây và miền Nam. Nhiều người khác dùng xe ngựa. Trong vòng mấy năm, dân đi lập nghiệp dùng tàu chạy bằng hơi nước đi từ sông Ohio tới sông Mississippi. Dọc theo sông Mississippi, tại nhiều nơi người ta có thể dùng đò đi sang bờ phía Tây. Có hàng ngàn dân đi lập nghiệp hăng hái vượt sông Mississippi tiến vào vùng đất mới.

Đời sống của dân định cư trong các khu rừng ở thượng lưu thung lũng sông Mississippi không khác gì đời sống của người dân định cư ở bên bờ phía Đông sông Mississippi. Dân định cư lập nghiệp ở trong các cánh đồng cỏ lại gặp nhiều vấn đề. Những cánh đồng cỏ cuộn sóng chạy dài hàng trăm dặm không có cây cối. Dân định cư phải ra sông Mississippi và các chi nhánh của con sông này để vớt gỗ nổi về làm nhà. Việc cày đất ở các cánh đồng cỏ có những cỏ cứng cũng là một công việc nặng nhọc và khó khăn. Tuy nhiên, một khi đã cày đất rồi thì người ta có thể trồng bắp hay trồng lúa mì. Xa về phía Nam ở miền Nam Missouri và Arkansas, dân đi lập nghiệp từ các tiểu bang miền Nam đến mang theo nô lệ và họ khởi lập các đồn điền trồng bông.

- Nhiều tiểu bang được thành lập ở phía Tây sông Mississippi

Thời gian sau, nhiều thị trấn xuất hiện ở bên bờ phía Tây sông Mississippi. Một số thị trấn phát triển ở chung quanh các đồn ải được thiết lập để bảo vệ dân định cư. Các thị trấn Nes Moines, Leavenworth, Kansas khởi đầu là những đồn ải quân sự. Mineapolis, Minesota được phát triển ở gần đồn Swelling. Những thị trấn khác như Davenport, Iowa khởi đầu là những trung tâm buôn bán da thú. Saint Louis phát triển mau chóng thành một trung tâm buôn bán da thú và đồng thời cũng là một giang cảng. Ngay khi các tàu thuyền chạy bằng hơi nước lưu thông trên sông Mississippi, người ta chuyển vận da thú và các nông phẩm từ các thị trấn này xuống tới New Orleans.

Ít năm sau, nhiều tiểu bang mới được thành lập, dọc theo bờ phía Tây sông Mississippi. Louisiana, vốn đã đông dân từ khi mới mua giải đất này, gia nhập cộng đồng liên bang vào năm 1812. Tiếp theo, vào năm 1821 là tiểu bang Missouri, và 15 năm sau đó, đến lượt Arkansas. Năm 1846, Iowa trở thành tiểu bang. Năm 1858, tiều bang Minnesota là tiểu bang chót nằm trên bờ sông phía Tây sông Mississippi gia nhập Cộng đồng Liên bang. Trong chương tới, chúng ta sẽ tìm hiểu công cuộc định cư ở phần đất phía Tây giải đất Louisiana như thế nào?



NGỰA TỐC HÀNH ĐƯA THƯ

PHẦN HAI

HOA KỲ ĐÃ CHIẾM ĐƯỢC FLORIDA NHƯ THẾ NÀO?
Khi Hoa Kỳ mua giải đất Louisiana thì cả người Pháp lẫn người Hoa Kỳ đều không biết chắc nơi nào là biên giới của vùng đất này. Hẳn các bạn còn nhớ là ông Jefferson chỉ muốn nắm quyền kiểm soát con sông Mississippi để dân miền Tây có thể gửi hàng hóa và sản phẩm qua hải cảng New Orleans đến thị trường tiêu thụ. Tuy nhiên, Tây Ban Nha lúc bấy giờ lại là chủ nhân ông giải đất hẹp dọc theo vịnh Mễ Tây Cơ (gọi là miền Tây Florida) cũng như bán đảo Florida mà ngày nay chúng ta gọi là Florida, nhưng bấy giờ gọi là miền Đông Florida (bản đồ trang 381b). Tây Ban Nha đòi quyền chiếm miền Tây Florida chạy dài xa về phía Tây tới tận New Orleans và sông Mississippi. Mặt khác Tổng thống Jefferson đòi rằng việc mua Louisiana phải bao gồm cả giải đất rộng lớn ở phía đông sông Mississippi.

- Hoa Kỳ mở rộng lãnh thổ tới miền Tây Florida

Sự tranh chấp này kéo dài trong nhiều năm. Cuối cùng vào năm 1812, khi Louisiana trở thành một tiểu bang, chính phủ Liên bang Hoa Kỳ sát nhập vào tiểu bang này tất cả vùng đất nằm ở phía đông sông Mississippi, nơi mà ngày nay bao gồm cả tiểu bang Louisiana. Tây Ban Nha lúc bấy giờ quá yếu nên không thể nào bảo vệ quyền chiếm đất của họ được.

Tuy nhiên, Hoa Kỳ lại nóng lòng muốn làm chủ toàn thể miền Tây Florida. Nhiều người Hoa Kỳ đổ xô đến định cư ở ngay phía Bắc giải đất này. Đồng thời, dân định cư ở Alabama và Mississippi lại muốn sử dụng những con sông chảy qua lãnh thổ Tây Ban Nha. Hoa Kỳ cho biết muốn mua Florida, nhưng Tây Ban Nha từ chối và không chịu bán. Trong thời kỳ chiến tranh 1812, Hoa Kỳ đã chiếm thêm nhiều đất ở miền Tây Florida. Cho nên sau khi chiến tranh chấm dứt, mặc dù Tây Ban Nha không chấp nhận, Hoa Kỳ cũng chiếm phần lớn đất đai ở miền Tây Florida.




- Tướng Andrew Jackson tiến vào Florida

Trong khi ấy miền Đông Florida trở thành nơi rối loạn. Những người nô lệ ở Georgia chạy trốn đến miền Đông Florida ẩn núp để trốn tránh nhà cầm quyền Hoa Kỳ. Hơn nữa, những người da đỏ hiếu chiến thường tấn kích vào các khu định cư ở vùng biên cương, phía Bắc biên giới vùng đất do Tây Ban Nha kiểm soát. Mặc dù Tây Ban Nha đã đồng ý là sẽ kiểm soát những người da đỏ, nhưng quân đội của chính quyền Tây Ban Nha ở đây lại không đủ mạnh để làm như vậy. Cuối cùng, Tổng thống Monroe ra lệnh cho tướng Andrew Jackson phải chặn đứng mọi vụ tấn kích của người da đỏ.

Tướng Jackson đã tuân hành lệnh của Tổng thống Monroe một cách quá mức. Dù rằng ông không có quyền cho quân tràn vào vùng đất do người Tây Ban Nha kiểm soát, nhưng ông cũng hạ lệnh cho quân sĩ dưới quyền truy kích quân da đỏ vào sâu trong đất Florida. Ông chiếm đóng luôn cả hai đồn ải của người Tây Ban Nha. Thực ra, ông đang xâm lăng và chinh phục xứ Florida. Mặc dầu nhân dân Hoa Kỳ hết sức hoan hô tán đồng ông Jackson, nhưng dù sao ông cũng tạo nên một hoàn cảnh rắc rối cho Tổng thống Monroe, người không có ý định gây thù hận với Tây Ban Nha. Vì thế cho nên hai đồn ải quân sự này lại được trao trả cho người Tây Ban Nha, và quân đội Hoa Kỳ lại rút về lãnh thổ Hoa Kỳ.

- Hoa Kỳ mua Florida

Cuộc xâm lăng của tướng Jackson vào vùng đất Florida cho thấy rõ là Tây Ban Nha không bảo vệ lãnh thổ của họ được. Hơn nữa, Tây Ban Nha lúc bấy giờ rất bận tâm với những cuộc cách mạng đang diễn ra ở Mễ Tây Cơ và Nam Mỹ (chương X). Cho nên trong một hòa ước ký kết với Hoa Kỳ vào năm 1819, Tây Ban Nha bỏ mọi quyền chiếm đất cả miền Đông lẫn miền Tây Florida. Đổi lại, chính phủ Hoa Kỳ đồng ý trả cho Tây Ban Nha khoản tiền mà họ nợ của người Hoa Kỳ là 5 triệu Mỹ kim. Hòa ước này cũng xác định biên giới giữa Hoa Kỳ và lãnh thổ do Tây Ban Nha kiểm soát ở phía tây sông Mississippi. Hòa ước này có hiệu lực vào 2 năm sau đó. Kể từ năm 1783, đây là lần thứ hai Hoa Kỳ chiếm thêm đất mới.

*

* *
PHẦN BA



HOA KỲ ĐÃ CHIẾM TEXAS, MIỀN TÂY NAM VÀ CALIFORNIA NHƯ THẾ NÀO?
Sau khi mua đất Florida không được bao lâu, Hoa Kỳ lại hướng về phía Tây Nam nhòm ngó vào lãnh thổ rộng lớn của Mễ Tây Cơ. Chúng ta đã thấy ở chương X, năm 1821, Mễ Tây Cơ đã tranh đấu giành được độc lập, thoát khỏi ách thống trị của Tây Ban Nha. Tân Cộng hòa Mễ Tây Cơ đòi quyền chiếm tất cả các vùng đất do người Tây Ban Nha khai khẩn, nghĩa là toàn thể vùng mà ngày nay là miền Tây Nam Hoa Kỳ (xem bản đồ). Lúc bấy giờ đã có nhiều người Hoa Kỳ đi lập nghiệp bắt đầu tiến đến vùng này. Vả lại, nhiều người cho rằng vùng đất này thuộc về Hoa Kỳ. Họ tin rằng đó là định mệnh dành sẵn cho Hoa Kỳ được mở rộng lãnh thổ chạy dài từ Đại Tây dương đến Thái Bình dương. Những người Hoa Kỳ muốn chiếm đất thêm được mệnh danh là những người theo chủ nghĩa bành trướng, vì rằng họ muốn mở rộng lãnh thổ Hoa Kỳ. Năm 1845, ông James K. Polk, một người nhiệt thành theo chủ nghĩa bành trướng lên làm Tổng thống. Trong nhiệm kỳ Tổng thống của ông, nhiều vùng đất mới được sát nhập vào lãnh thổ Hoa Kỳ. Câu chuyện về việc sát nhập các vùng đất mới sẽ được nói trong những trang kế tiếp sau đây.

TEXAS TRỞ THÀNH MỘT QUỐC GIA, RỒI BIẾN THÀNH MỘT TIỂU BANG



­- Người Hoa Kỳ đến định cư ở Texas

Chuyện này bắt đầu vào khoảng năm 1820 ở Texas. Lúc bấy giờ vùng đất này có rất ít người đến định cư. Chỉ có một số ít người Tây Ban Nha giàu có làm chủ các đồn điền, trang trại. Họ dùng thổ dân da đỏ và người Tây Ban Nha lai da đỏ làm việc trong các trại ấp của họ. Vùng này cũng có rất nhiều trung tâm truyền giáo của các tu sĩ truyền giáo thiết lập, và một số đồn ải quân sự. Nhưng hầu hết dân cư ở đây là thổ dân da đỏ.

Năm 1822, một thanh niên tên là Stephen F. Austin dẫn một gia đình người Hoa Kỳ đến Texas lập nghiệp. Trước đó 2 năm, thân phụ của ông Stephen F. Austin đã thuyết phục chính quyền Tây Ban Nha tại Texas là hãy cho ông một giải đất rộng lớn ở đây để cho người Hoa Kỳ đến định cư. Sau khi thân phụ ông mất đi, ông Stephen F. Austin mạnh tiến thi hành kế hoạch này. Ông thu xếp với chính phủ Mễ Tây Cơ, chính quyền này vừa mới giành được độc lập, để mang người tới định cư lập nghiệp ở Texas. Ông hứa rằng dân đến định cư này sẽ thuộc về giáo hội Công giáo, sẽ trở thành công dân Mễ Tây Cơ và tuân theo luật lệ Mễ Tây Cơ. Ông Austin có thể phân phối đất đai cho dân định cư mà chỉ cần phải trả ít tiền, và thuộc địa của ông phát triển mau chóng. Tại nơi đây, dân định cư khai thác ruộng đất, làm nhà và xây trường học.

Chính quyền Mễ Tây Cơ muốn mở mang Texas nên sẵn sàng mở rộng cửa đón nhận dân định cư Hoa Kỳ đến lập nghiệp. Tiếp theo đó là một làn sóng người đến chiếm đất. Khi đó, một người định cư có thể mua được 4 ngàn mẫu mà chỉ phải trả có 30 Mỹ kim. Nhiều tiểu điền chủ ở Hoa Kỳ đến đây mua đất. Các chủ đồn điền ở miền Nam cũng đem theo gia đình và nô lệ tiến vào vùng đất màu mỡ ở Texas. Vào khoảng năm 1835, có khoảng chừng 30 ngàn người Hoa Kỳ ở Texas. Con số này lớn hơn con số người Tây Ban Nha đến đây lập nghiệp trong 300 năm qua.



- Mễ Tây Cơ lo ngại

Mễ Tây Cơ nhận thấy rằng để cho người Hoa Kỳ đến lập nghiệp ở trong lãnh thổ của họ là một sự lầm lẫn, nhưng quá trễ. Người Hoa Kỳ không sống thuần thảo với chính phủ Mễ Tây Cơ cũng như đối với người Tây Ban Nha ở Texas. Người Hoa Kỳ sử dụng ngôn ngữ khác, theo tôn giáo khác, và lối sống của họ cũng khác nữa. Hơn nữa, họ có tinh thần độc lập, không thích sống theo luật lệ của Mễ Tây Cơ. Dầu sao đi nữa, chính quyền Mễ Tây Cơ dĩ nhiên là mong muốn họ phải tuân theo luật pháp. Thật là dễ dàng cho chúng ta thấy rằng có những tranh chấp giữa người Hoa Kỳ định cư ở Texas và chính quyền Mễ Tây Cơ. Có một sự tranh chấp về vấn đề nô lệ. Luật lệ ở lãnh thổ Mễ Tây Cơ có cấm chế độ nô lệ, nhưng người Hoa Kỳ bất cần, họ vẫn mang nô lệ vào Texas.



- Dân Texas tuyên bố độc lập

Để ngăn chặn không cho những vụ tranh chấp này trở nên nghiêm trọng hơn, chính quyền Mễ Tây Cơ cố gắng chặn đứng không cho người Hoa Kỳ nhập cảnh vào Texas nữa. Sự việc này lại càng làm cho kiều dân Hoa Kỳ càng trở nên giận dữ hơn. Vì rằng họ không thích để cho họ sống lẻ loi trong đám những người mà họ không ưa. Tới khi vị tướng đầy tham vọng tên là Santa Anna lên cầm quyền ở Mễ Tây Cơ, vấn đề lại càng trở nên tệ hại hơn nữa. Kiều cư Hoa Kỳ ở Texas phản đối, chống lại sự cai trị hà khắc của tướng Santa Anna, và cuối cùng họ nổi loạn chống lại Mễ Tây Cơ. Ngày mùng 2 tháng 3 năm 1836, họ tuyên bố Texas là một quốc gia độc lập.

Mễ Tây Cơ cố gắng đè bẹp vụ nổi loạn này. Chính tướng Santa Anna dẫn quân vào Texas để trừng phạt kiều cư Hoa Kỳ. Dân Texas hai lần bị đại bại, nhưng trận cuối cùng họ chiến thắng vẻ vang. Trận đại bại lần đầu ở đồi Alamo nằm trong thành phố San Antonio. Đồn Alamo vốn là một trung tâm truyền giáo của Tây Ban Nha chung quanh có tường bao bọc. Một trăm tám mươi bảy quân Texas dưới quyền chỉ huy của đại tá William Barrett Travis lo tăng cường công sự phòng thủ trong đồn, bị tướng Santa Anna đem 3 ngàn quân Mễ đến bao vây. Mặc dầu bị quân đối phương đông hơn quá nhiều, quân Texas nhất định không chịu đầu hàng, và tiếp tục cầm cự được 13 ngày. Khi trận đánh kết thúc thì tất cả quân sĩ trong đồn đều chết cả. “Hãy nhớ đồn Alamo” trở thành tiếng thét của người dân Texas. Liền sau trận đánh đồn Alamo chấm dứt, quân đội Mễ tiến lên bao vây và tấn công quân Texas tại Goliad. Lại một lần nữa, quân địch quá đông so với quân Texas cho nên quân Texas buộc phải đầu hàng. Santa Anna hạ lệnh tàn sát hết quân Texas và rêu rao rằng họ là quân Mễ gian (phản bội quốc gia Mễ). Sự tàn ác của Santa Anna gợi lòng căm thù đối với toàn dân Texas.

- Texas thắng lợi giành được độc lập, tách rời khỏi Mễ Tây Cơ

trong trận đánh San Jacinto vào ngày 21 tháng 4 năm 1836, quân Texas đã hoàn toàn rửa nhục được những trận đại bại trước kia. Lực lượng 8 trăm quân Texas dưới quyền chỉ huy của tướng San Houston đã làm cho đạo quân Mễ đông đảo hơn phải kinh ngạc. Thét lên những tiếng thét “Hãy nhớ đồn Alamo! Đừng quên Goliad!” quân Texas giết và bắt sống gần hết quân Mễ tại đây. Chính Santa Anna cũng bị bắt trong trận này. Trận đại thắng này chấm dứt cuộc chiến. Quân Mễ buộc phải rút lui về phía bên kia bờ sông Rio Grande. Texas giành được độc lập. Năm 1836, nước Cộng Hòa Texas với ngọn cờ độc tú được thành lập. Ông San Houston, cựu thống đốc tiểu bang Tennessee trở thành vị Tổng thống đầu tiên của quốc gia này. Đệ nhất quốc hội của cộng hòa Texas nhóm họp tại Columbia. Sau này thủ đô của xứ Texas được thiết lập tại một địa điểm nằm trên bờ sông Colorado và được đặt tên là Austin, để kỷ niệm và tôn kính ông Stephen F. Austin, “cha đẻ ra xứ Texas”.



- Texas gia nhập Cộng đồng Liên bang

Dân Texas không muốn xứ Texas là một quốc gia cộng hòa độc lập lâu dài. Họ tự coi họ là người Hoa Kỳ, và mong muốn Texas phải là một phần của quốc gia Hoa Kỳ. Hơn nữa, vì Mễ Tây Cơ từ chối không chịu nhìn nhận nền độc lập của họ nên họ cảm thấy không được yên ổn. Năm 1836, Texas đệ đơn lên Quốc hội xin sáp nhập vào lãnh thổ Hoa Kỳ, nhưng có nhiều người Hoa Kỳ lại chống lại dữ dội việc thâu nhận Texas vào Cộng đồng Liên bang. Những người chống đối nói rằng Texas là một tiểu bang chấp nhận chế độ nô lệ, thâu nhận Texas vào Cộng đồng Liên bang có nghĩa là làm cho số tiểu bang chấp nhận chế độ nô lệ nhiều hơn số tiểu bang chống chế độ nô lệ. Nhiều người Mỹ khác cũng phản đối vì họ cho rằng Mễ Tây Cơ còn đòi chủ quyền ở Texas, và đe dọa sẽ sử dụng đến chiến tranh, nếu Hoa Kỳ chấp nhận Texas. Hậu quả là Thượng viện từ chối không chấp thuận đơn xin gia nhập vào Cộng đồng Liên bang của Texas.

Nước Cộng Hòa độc tú độc lập kéo dài gần 10 năm. Tuy nhiên, vào năm 1845, sau khi ông Polk đắc cử Tổng thống, tinh thần chống việc thâu nhận Texas đã giảm đi nhiều. Tháng chạp năm 1845, Texas được thu nhận vào Cộng đồng Liên bang. Ngày nay dân Texas gọi tiểu bang của họ là tiểu bang độc tú, và ngọn cờ độc tú vẫn còn phất phới tung bay.

Dân Texas rất hãnh diện về công cuộc tranh đấu oai hùng giành độc lập và chế độ Cộng Hòa ngày xưa của họ.

CHIẾN TRANH BÙNG NỔ GIỮA HOA KỲ VÀ MỄ TÂY CƠ

- Mễ Tây Cơ bất bình về việc sát nhập Texas

Như chúng ta đã biết là Mễ Tây Cơ không bao giờ chịu công nhận nền độc lập của Texas. Đồng thời, Santa Anna cũng cho chính phủ hay rằng Hoa Kỳ sát nhập Texas có nghĩa là Hoa Kỳ tiến đến chiến tranh với Mễ Tây Cơ. Khi Texas gia nhập Cộng đồng Liên bang thì Mễ Tây Cơ rất căm giận Hoa Kỳ. Mễ Tây Cơ cho rằng ngay từ lúc đầu, Stephen Austin đã có ý tranh đấu giành Texas cho Hoa Kỳ. Vấn đề còn trở nên tệ hơn nữa là Texas còn mạnh bạo đòi chiếm miền phía Tây biên thùy sông Rio Grande. Mễ Tây Cơ khẳng định rằng Cộng hòa Texas chỉ có thể bao gồm giải đất xa về phía Nam và xa về phía Tây tới tận sông Nueces thôi.



- Người Hoa Kỳ nhòm ngó Tân Mễ Tây Cơ

Việc sát nhập Texas đồng thời cũng gây nên một hậu quả khác nữa. Những người Hoa Kỳ mong muốn Hoa Kỳ phải mở rộng lãnh thổ, bắt đầu nhòm ngó đến vùng đất thuộc về Mễ Tây Cơ ở ngoài lãnh thổ Texas. Các thương gia Hoa Kỳ thường lui tới qua lại Tân Mễ Tây Cơ qua các ngã đường mòn Santa Fe. Hàng năm có hàng đoàn xe lũ lượt khởi hành từ Independence, thuộc tiểu bang Missouri, băng qua đại đồng bằng (nơi mà ngày nay gọi là Kansas) để tiến tới Santa Fe ở Mễ Tây Cơ. Thị trấn này quá xa đối với những nơi cung cấp các hàng hóa của Mễ Tây Cơ nên dân định cư phải mua hầu hết các hàng hóa của thương gia Hoa Kỳ mang tới. Mặc dầu hầu hết các thương gia này kiếm được rất nhiều lời và lại trở về quê nhà, nhưng cũng có một số người ở lại Santa Fe. Người Hoa Kỳ bắt đầu mong muốn toàn thể vùng này trở thành một phần lãnh thổ của Hoa Kỳ.




tải về 2.16 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   23   24   25   26   27   28   29   30   ...   33




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương