* howard b. Wilder robert p. Ludlum harriett mc. Cune brown


- Số các tiểu bang duy trì nô lệ bằng với số các tiểu bang giải phóng nô lệ



tải về 2.16 Mb.
trang30/33
Chuyển đổi dữ liệu29.07.2016
Kích2.16 Mb.
#9902
1   ...   25   26   27   28   29   30   31   32   33

- Số các tiểu bang duy trì nô lệ bằng với số các tiểu bang giải phóng nô lệ

Ông B trả lời rằng: “Đó là điều mà tôi đang nghĩ ra để giải quyết, tôi đã lập một danh sách những tiểu bang nguyên thủy và những tiểu bang mới gia nhập Cộng đồng Liên bang kể từ khi đất nước chúng ta giành được độc lập. Tôi cũng đã ghi rõ những năm mà các tiểu bang mới được thâu nhận vào Cộng đồng Quốc gia. Trong danh sách này tôi chia làm hai cột, một cột dành cho các tiểu bang được phép duy trì chế độ nô lệ, và cột kia dành cho các tiểu bang tự do:



MƯỜI BA TIỂU BANG NGUYÊN THỦY

Tiểu bang nô lệ Tiểu bang tự do

Delaware New Hamsphire

Maryland Massachusetts

Virginia Rhode Island

North Carolina Connecticut

South Carolina New York

Georgia New Jersey

Pennsylvania



NHỮNG TIỂU BANG MỚI

Tiểu bang nô lệ Tiểu bang tự do

Kentucky 1792 Vermont 1791

Tennessee 1796 Ohio 1803

Louisiana 1812 Indiana 1816

Mississippi 1817 Illinois 1818

Albama 1819 Maine 1820

Missouri 1821 Michigan 1837

Arkansas 1836 Iowa 1846

Florida 1845 Wiscosin 1848

Texas 1845



- Nếu các tiểu bang tự do trở nên mạnh hơn thì những gì sẽ xảy ra

Ông B nói tiếp: “Ông thấy là hầu hết thời gian và con số các tiểu bang nô lệ và các tiểu bang tự do đều bằng nhau. Các tiểu bang nô lệ mới và các tiểu bang tự do mới đều được thâu nhận một lượt. Việc thâu nhận các tiểu bang này hầu như đi từng cặp một. Mỗi tiểu bang có hai thượng nghị sĩ. Cho nên nếu vấn đề gì mà hai miền Nam, Bắc không đồng ý với nhau thì có những số phiếu bằng nhau bỏ cho mỗi bên. Hơn nữa, đa số các vị Tổng thống là người miền Nam, chúng ta cũng hy vọng là các ông ấy sẽ lo lắng quyền lợi của miền Nam”.

Ông A nói: “cho tới bây giờ thì mọi việc đều tốt đẹp. Trong Thượng viện, số thượng nghị sĩ của hai miền Nam Bắc đều bằng nhau và thường thì Tổng thống sẽ đứng về phía chúng ta”.

Ông B trông có vẻ suy nghĩ hơn bao giờ hết. Ông nói: “Vâng, đúng vậy, nhưng ở Hạ viện lại là một chuyện khác, cả hai chúng ta đều nhận thấy rằng trong 50 năm vừa qua, dân số ở miền Bắc đã gia tăng nhanh hơn miền Nam. Tại Hạ viện, dĩ nhiên là con số dân biểu của các tiểu bang tùy thuộc vào số dân của tiểu bang đó. Vì thế mà con số các vị dân biểu của các tiểu bang miền Bắc gia tăng nhanh chóng. Đây là bảng danh sách ghi những gì đã xảy ra ở Hạ viện từ năm 1800. bảng ghi này không những chỉ ghi con số các vị dân biểu của các tiểu bang miền Bắc cũng như của miền Nam, mà còn ghi con số phần trăm bao nhiêu dân biểu của miền Nam”



Năm

1800

1810

1820

1830

1840

1850

Số dân biểu của các tiểu bang tự do

76

96

123

141

135

142

Số dân biểu của các tiểu bang nô lệ

65

79

90

99

88

90

Số bách phân của các dân biểu miền Nam

46

45

42

41

39.5

38.8

Ông B kết luận rằng: “Bây giờ chúng ta đang mất dần sức mạnh đầu phiếu ở Hạ viện. Giả thử rằng Tổng thống là người của miền Bắc, nếu miền Bắc kiểm soát các vùng lãnh thổ và nếu các tiểu bang mới gia nhập Cộng đồng Quốc gia là những tiểu bang tự do, như vậy là chúng ta cũng sẽ bị thiểu số ở Hạ viện”.

Ông A trả lời với vẻ lo lắng: “Tôi đã thấy rõ, chúng ta là những người miền Nam phải làm tất cả những gì để ngăn chặn những vùng đất mới này khi gia nhập Cộng đồng Quốc gia không thể trở thành các tiểu bang tự do được. Tôi không thể để cho miền Bắc can thiệp vào lối sinh sống của chúng ta được”.



- California muốn trở thành một tiểu bang

Sau khi khám phá ra vàng ở California thì việc tranh luận nên làm gì đối với vấn đề nô lệ ở trong các vùng đất vừa mới chiếm được của Mễ Tây Cơ trở nên hàng đầu. Các bạn đã thấy trong chương XVIII rằng việc khám phá ra vàng ở California khiến cho nhiều người đổ xô đến vùng đất này. Dân định cư ở đây thành lập một chính quyền riêng cho họ và nộp đơn xin gia nhập Cộng đồng Quốc gia như là một tiểu bang tự do. Đối với dân miền Nam thì đây là một sự lăng nhục họ. Họ khẳng định rằng California không được cấm đoán chế độ nô lệ. Dân miền Bắc xác quyết rằng cần phải cấm.

Nếu vấn đề nô lệ ở California được đem ra Quốc hội để bàn cãi thì vấn đề nô lệ ở những vùng đất mới còn lại cũng cần phải được đưa ra Quốc hội để bàn cãi. Và nếu không có một thỏa hiệp nào để giải quyết được vấn đề này thì đất nước có thể chia ra làm hai phần. Viễn ảnh thật là đen tối.

- Những vĩ nhân đại diện cho các tiểu bang ở trong Quốc hội

Trong khi quốc hội đang phải đương đầu với những vấn đề rắc rối thì lại có những vĩ nhân xuất hiện. Đặc biệt là có ba người trở nên nổi tiếng. Ba ông này đã bước vào làm việc ở tòa nhà lập pháp từ 40 năm về trước, và gần như trọn đời phục vụ trong nghề dân biểu của họ. Trong đó có ông Daniel Webster, người của tiểu bang Massachusetts, một chính khách mà cũng là một nhà đại hùng biện. Dù là ông không thích chế độ nô lệ, nhưng ông ước vọng một cái gì khác hơn, đó là giữ cho đất nước được đoàn kết. Ông Henry Clay, người của tiểu bang Kentucky, được nổi tiếng là người “ôn hòa” (great compromiser). Ông Clay rất có tài trong việc tìm cách hòa giải giữa những người bất đồng chính kiến với nhau. Trong năm 1820, chính ông đã có công trợ giúp thỏa hiệp Missouri. Và bây giờ là đúng 30 năm sau, ông lại đem những cố gắng để kiến tạo một thỏa hiệp khác cho hai miền Nam Bắc. Ông John Calhoun thuộc tiểu bang Carolina, người chiếm giải quán quân về việc tranh đấu cho các quyền tự do của các tiểu bang. Mặc dầu là ông đã già yếu nhưng ông cũng vẫn cương quyết là South Carolina và chế độ nô lệ phải có tiếng nói của họ. Ông chống lại bất kỳ một thỏa hiệp nào.

Ngoài ra còn có những vị dân biểu nổi tiếng trong mấy năm sau này. một trong những người này là ông Stephen A. Douglas thuộc tiểu bang Illinois, ông cho rằng dân chúng trong các vùng lãnh thổ mới này phải giải quyết mọi vấn đề như vấn đề nô lệ cho chính họ. Người khác nữa là ông William H. Seward thuộc tiểu bang New York. Ông Seward tuyên bố rằng luật của Thượng đế là con người sinh ra là phải được tự do, và luật của thượng đế còn cao hơn cả Hiến pháp của Hiệp chủng quốc. Ngoài ra còn có những vị dân biểu trẻ xuất sắc bênh vực cho miền Nam. Trong đó có các ông Jefferson Davis thuộc tiểu bang Mississippi và ông Alexander H. Stephens thuộc tiểu bang Georgia. Sau này, khi miền Nam lập chính phủ riêng thì chính hai ông này trở thành Tổng thống và Phó Tổng thống.

- Quốc hội thông qua thỏa hiệp 1850

Sau những cuộc bàn cãi dài vô tận, Quốc hội đồng ý một thỏa hiệp mệnh danh là thỏa hiệp 1850. Thỏa hiệp này giải quyết vấn đề nô lệ ở các vùng đất vừa mới chiếm được của Mễ Tây Cơ và một vài vấn đề khác, dưới đây là những phần quan trọng của thỏa hiệp 1850.

1. California được thu nhận vào Cộng đồng Quốc Gia như là một tiểu bang tự do.

2. Những vùng đất còn lại vừa chiếm được của Mễ Tây Cơ được chia ra làm lãnh thổ Mexico và lãnh thổ Utah. Vấn đề nô lệ ở đây được trao cho dân chúng tự giải quyết lấy. Nói một cách khác là dân chúng ở đây sẽ phải tự quyết định xem có nên duy trì chế độ nô lệ hay không.

3. Sẽ không được buôn bán nô lệ ở quận Columbia

4. để làm cho nô lệ khó có thể giải thoát được bằng cách trốn từ các tiểu bang nô lệ sang các tiểu bang tự do, Quốc hội cho thông qua một đạo luật ngặt nghèo gọi là luật về nô lệ đào tẩu (Fugitive Slave Law). Luật này buộc dân chúng ở các tiểu bang tự do phải giúp đỡ để bắt các nô lệ chạy trốn.

Qua thỏa hiệp này, Quốc hội hy vọng sẽ mãi mãi giải quyết được vấn đề nô lệ. Các vị dân biểu trong Quốc hội không muốn có một cuộc tranh luận gay cấn nào khác nữa có thể gây nguy hiểm cho đất nước. Nhân dân Hoa Kỳ đã thở ra nhẹ nhõm. Chắc chắn là có nhiều người đã nghĩ rằng việc tranh chấp về vấn đề nô lệ đã rơi vào quên lãng.

*

* *



PHẦN HAI

HAI MIỀN NAM BẮC ĐÃ TIẾN DẦN ĐẾN CHIẾN TRANH

NHƯ THẾ NÀO?
Người Hoa Kỳ nào nghĩ rằng thỏa hiệp 1850 có thể giải quyết được vấn đề nô lệ và chấm dứt mọi tranh chấp giữa hai miền Nam Bắc thì tỏ ra rất hy vọng. Nhều biến cố xảy ra trong nhiều năm sau đó đã làm cho sự tranh chấp tái diễn thường hơn và còn gây thêm hận thù và dữ dội hơn nhiều.

- Tác phẩm “Chiếc lều của chú Tom” làm sôi nổi dư luận ở miền Bắc

Năm 1852, nữ sĩ Harriet Beacher Stowe viết một cuốn sách với tựa đề là “Chiếc lều của chú Tom”. Đây là cuốn sách nói lên sự đau khổ của dân nô lệ và sự tàn ác của các ông chủ. Tất cả quả là bức tranh rõ rệt nhất ở khắp các miền Nam. Những thảm trạng này đã khiến cho hàng trăm ngàn độc giả của tác phẩm này phải đau lòng. Đúng ra tác phẩm “Chiếc lều của chú Tom” không có gì khác hơn là gây ảnh hưởng với nhân dân miền Bắc trong vấn đề chống chế độ nô lệ. Người ta nói rằng trong những năm sau này, Tổng thống Abraham Lincoln đã ca tụng bà Stowe như “Người thiếu phụ nhỏ bé đã viết một tác phẩm gây nên một cuộc đại chiến”. Tuy nhiên, ở miền Nam, “Chiếc lều của chú Tom” đã gây nên những làn sóng phản kháng và khuấy động lòng căm thù đối với những người chủ trương hủy bỏ chế độ nô lệ.



- Đường xe lửa bí mật giúp đỡ những người nô lệ chạy trốn

Mặc dầu đã có đạo luật về những người nô lệ chạy trốn, dân miền Bắc vẫn tiếp tục giúp đỡ những người nô lệ có cơ hội chạy trốn được. Một cách mà họ sử dụng để giúp đỡ những nô lệ nào chạy trốn là đường xe lửa bí mật. Thực ra, đây không phải là một đường xe lửa thực sự mà chỉ là một cách giúp đỡ cho các nô lệ chạy trốn để tới những nơi an toàn. Những nô lệ tới được miền Bắc thì được những người chống lại chế độ nô lệ cho ăn ở. Những người này gọi là những người hướng dẫn, đêm đến thì họ mang nô lệ đi từ một căn nhà hay trạm đến một trạm khác xa dần về phía Bắc. Cuối cùng người nô lệ này đi tới Gia Nã Đại, và ở đây họ có thể sinh sống như những người tự do. Mặc dù không có nhiều nô lệ trốn đi theo cách này, nhưng đường xe lửa bí mật cũng đã làm cho tinh thần chống đối nhau giữa hai miền Nam Bắc càng gia tăng.



- Khi vấn đề nô lệ lại được đặt ra thì tranh chấp càng trở nên dữ dội

Những dị biệt giữa miền Nam và miền Bắc vẫn tiếp tục trở nên trầm trọng hơn. Tuy nhiên, đầu năm 1854, hàng loạt biến cố xảy ra khiến cho việc tranh chấp hai miền càng tiến dần đến điểm không thể nào hàn gắn được. Nếu chúng ta có thể ngồi xem một chương trình truyền hình của một vài biến cố quan trọng thì chắc chắn chúng ta có thể xem được một vài hoạt cảnh dưới đây:

HOẠT CẢNH 1

- Luật Kansas- Nebraska làm tái diễn vụ tranh chấp về vấn đề nô lệ (1854)

Chúng ta đến xem phòng Thượng viện ở trong điện Capitol tại Hoa Thịnh Đốn. Các thượng nghị sĩ đang bàn cãi với nhau về dự luật Kansas – Nebraska, một dự luật để thiết lập hai chính quyền mới. Một ở lãnh thổ Kansas và một ở lãnh thổ Nebraska. Nếu dự luật này thành luật thì dân chúng ở hai vùng lãnh thổ sẽ tự quyết định có nên chấp nhận chế độ nô lệ hay không. Một thượng nghị sĩ thuộc miền Bắc đang đọc bài diễn văn với những lời lẽ sau đây:

“Thưa quý vị, hãy nhìn vào bản đồ, Kansas ở phía Bắc đường ranh giới do thỏa hiệp Missouri ấn định. Liệu rằng chúng ta có thể chấp nhận chế độ nô lệ ở đó được không? Không, dân chúng miền Bắc sẽ không chấp nhận như vậy”.

Và một thượng nghị sĩ miền Nam cãi lại:

“Thỏa hiệp Missouri đã nói rằng chế độ nô lệ không được phép du nhập vào vùng lãnh thổ này. nhưng dự luật này, dự luật Kansas – Nebraska sẽ khai tử thỏa hiệp Missouri. Nơi nào có ngọn cờ của Hiệp Chủng Quốc thì ở đó có thể đu nhập chế độ nô lệ vào. Nó phải như vậy. Nô lệ là của cải, là tiền bạc. Chúng tôi có quyền tự do mang tài sản nô lệ của chúng tôi đến bất cứ một nơi nào ở miền Tây cũng như các bạn ở miền Bắc có quyền mang tài sản như ngựa và bò của các bạn đến đó vậy. Dân chúng ở miền Nam sẽ khẳng định quyền tự do này”.

Dự luật được thông qua ở Thượng và Hạ viện và trở thành luật. Thỏa hiệp Missouri không còn nữa. Luật Kansas – Nebraska thay thế thỏa hiệp Missour. Dân chúng ở các vùng lãnh thổ Kansas và Nebraska có thể tự quyết định có nên chấp nhận chế độ nô lệ hay không.

HOẠT CẢNH 2

- Bạo động bùng nổ về vấn đề nô lệ ở Kansas (1854-1857)

Chúng ta thấy có một người cao lớn, với chòm râu bạc đứng ở ngoài trời trong đêm tối. Ông ta nhìn xuống năm người đang hấp hối. Có người hỏi: “John Brown, tại sao anh lại bắn họ?” Hắn trả lời: “Những người chống lại chế độ nô lệ đã bị giết, cho nên những kẻ ủng hộ chế độ nô lệ cũng phải chết”.

Địa điểm xảy ra là Kansas, nơi được đặt ra vấn đề tự do hay nô lệ. Dân từ miền Bắc và miền Nam lũ lượt kéo đến đây lập nghiệp. Những người gốc miền Nam nói: “Chúng tôi sẽ mang nô lệ vào Kansas. Nếu cần, chúng tôi sẽ chiến đấu để bảo vệ nô lệ của chúng tôi”. Những người gốc miền Bắc nói: “chúng tôi sẽ không để cho nô lệ tồn tại ở Kansas. Nếu cần chúng tôi sẽ chiến đấu để không cho đem nô lệ vào lãnh thổ này”.

Sự giết những người ủng hộ chế độ nô lệ của John Brown chỉ là một trong những hoạt cảnh báo động trong thời kỳ dân đi lập nghiệp kéo đến định cư ở Kansas. Lúc đầu, người ta nổi lửa tiêu hủy làng Lawence của những người chống chế độ nô lệ. Có cả đoàn người cưỡi ngựa đi lang thang trên khắp các nẻo đường. Họ mang theo súng trường và nhắm bắn bất kỳ những người nào khác. đây là những người ủng hộ và chống chế độ nô lệ đánh lẫn nhau để giành giật, nắm quyền kiểm soát Kansas. Bạo động ở Kansas dần dần cũng nguôi ngoai lắng dần, nhưng cuộc đấu tranh để dành quyền kiểm soát Kansas vẫn tiếp tục. Vì số người chống chế độ nô lệ đông hơn nên cuối cùng họ đã thắng cuộc. Năm 1861, Kansas gia nhập Cộng đồng Liên bang như là một tiểu bang tự do.

HOẠT CẢNH 3

- Đảng Cộng Hòa ra đời (1854)

Chúng ta thấy có một nhóm người tụ tập ở ngoài trời tại một thị trấn ở Wisconsin. Một trong bọn họ nói: “chúng tôi không thể bầu cho những người thuộc các chính đảng cũ, tức là đảng Tự do và đảng Dân chủ nữa”. Những người khác vỗ tay hoan hô.

Diễn giả nói tiếp: “Vấn đề quan trọng hôm nay là chúng ta sẽ phải duy trì chế độ nô lệ hay chế độ tự do ở trong các vùng lãnh thổ mới? Các chính đảng cũ không thể đồng ý với nhau về câu trả lời cho câu hỏi này. Quốc hội đã thông qua đạo luật Kansas – Nebraska, định rằng dân chúng ở các vùng lãnh thổ này sẽ phải tự quyết định xem có nên chấp nhận chế độ nô lệ hay không. Nhưng chúng ta là những người có mặt trong cuộc họp này tin tưởng rằng Quốc hội sẽ có quyền và có bổn phận phải cấm đoán chế độ nô lệ ở các vùng lãnh thổ mới này. Chúng ta mạnh và chúng ta phải trở nên mạnh hơn. Chúng ta hãy thành lập một chánh đảng mới và tự gọi chúng ta là những người của đảng Cộng hòa. Chúng ta hãy chiến đấu để không cho chế độ nô lệ du nhập vào các vùng lãnh thổ mới”. Ở các tỉnh khác trong khắp miền Bắc đều có hoạt cảnh như vậy “Không chấp nhận chế độ nô lệ ở các vùng lãnh thổ mới. Hãy liên kết với những người của đảng Cộng hòa”.

Chính đảng mới này thâu nhận được nhiều đảng viên. Trong kỳ bầu cử năm 1856, những người của đảng Cộng hòa chiếm được 2/3 trong các tiểu bang miền Bắc và chọn ông John C. Fremont một quân nhân kiêm thám hiểm gia, làm ứng cử viên. Tuy nhiên, hầu như không có đảng viên đảng Cộng hòa nào ở miền Nam. Cho nên đảng Dân chủ ở cả miền Bắc lẫn miền Nam đủ mạnh để bầu ông James Buchanan lên làm Tổng thống. Dù rằng bị thất bại, đảng Cộng hòa cũng không chán nản. Họ biết rằng bước đầu của họ tiến hành tốt đẹp hơn và hy vọng vào năm 1860 họ sẽ bầu được người của đảng Cộng hòa lên làm Tổng thống.

HOẠT CẢNH 4

- Trong vụ Dred Scott, thỏa hiệp Missouri bị tuyên bố là bất hợp hiến (1857)

Chúng ta thấy trong một căn phòng nhỏ hẹp im lặng, nơi đó Tối cao Pháp viện đang nhóm họp. Trên hàng ghế ở trên bục cao, các vị thẩm phán Hoa Kỳ mặc áo choàng đen ngồi sau dãy bàn dài có khảm trông rất là long trọng. Đây là tòa án tối cao của đất nước. Họ diễn giải ý nghĩa của Hiến pháp Hoa Kỳ và quyết định về một đạo luật do Quốc hội ban hành có vi hiến hay không.

Các vị thẩm phán này đang cứu xét vụ án của một người da đen tên là Dred Scott. Scott vốn là người nô lệ ở miền Nam được ông chủ mang đến một tiểu bang tự do, và tiểu bang này nằm ở phía Bắc đường ranh do thỏa hiệp Missouri ấn định. Thỏa hiệp Missouri quy định rằng trong lãnh thổ này sẽ không thể nào có chế độ nô lệ hay được phép duy trì nô lệ. Vì thế cho nên Scott đòi quyền là một người tự do. Ông ta cũng đã thỉnh cầu Tối cao Pháp viện buộc ông chủ của ông phải phóng thích ông. Một vị thẩm phán chậm rãi đọc những lời lẽ của Tối cao Pháp viện quyết định. Nô lệ là tài sản, là tiền bạc, và nô lệ không có quyền tự do của một công dân. Hiến pháp bảo vệ tài sản trong các vùng lãnh thổ cũng như ở trong các tiểu bang. Quốc hội không có quyền cấm đoán chế độ nô lệ ở trong bất cứ phần đất nào ở trong các vùng lãnh thổ. Vì vậy mà thỏa hiệp Missouri là bất hợp hiến.

Quốc hội đã ấn định trong luật Kansas – Nebraska rằng thỏa hiệp Missouri đã chết rồi, nhưng lại đề nghị rằng các cử tri trong một vùng lãnh thổ sẽ tự quyết định lấy về vấn đề nô lệ. Bây giờ trong vụ án Dred Scott, Tối cao Pháp viện lại quyết định rằng không thể không cho du nhập nô lệ vào trong các vùng lãnh thổ.

Dân miền Nam dĩ nhiên là rất hài lòng với quyết định của Tối cao Pháp viện, nhưng người miền Bắc thì hết sức kinh ngạc. Đặc biệt là các đảng viên đảng Cộng hòa, họ phản đối rằng Tối cao Pháp viện đã thiên vị ủng hộ miền Nam.

HOẠT CẢNH 5



­ - Một cuộc tranh luận dữ dội xảy ra ở Illinois (1858)

Chúng ta thấy tại một công viên ở trong một thị trấn nhỏ bé thuộc Illinois, trên một cái bục gỗ, có hai người đứng trước một đám đông chật ních cả công viên. Có cái gì trái ngược hẳn nhau giữa hai người này. Người này thì cao hơn người kia rất nhiều. Thật ra, nếu người cao kia mà vươn thẳng tay ra thì người lùn này có thể đi dưới cánh tay người cao. Người cao thì ăn mặc cẩu thả đến độ tay áo choàng của ông ta không tới háng, và ống quần của ông ta không tới giày. Người lùn kia thì trái ngược hẳn lại, ăn mặc rất chỉnh tề. Người cao lớn thì rất vụng về và mặt thì nhăn nhó buồn rầu. Người lùn thì tự tin, vui vẻ và niềm nở.

Người cao là ông Abraham Lincoln, đảng viên đảng Cộng hòa; người lùn là ông Stephen A. Douglas thuộc đảng Dân chủ. Người nào cũng hy vọng sẽ được dân chúng Illinois bầu làm Thượng nghị sĩ tại Thượng viện Hoa Kỳ. Muốn cho dân chúng biết họ sẽ bỏ phiếu ở thượng viện ra sao, họ tranh luận về vấn đề nô lệ ở trong các vùng lãnh thổ (chưa thành tiểu bang). Bất kể các quyết định của Tối cao Pháp viện trong vụ án Dred Scott, ông Douglas nói rằng dân chúng ở trong các vùng lãnh thổ sẽ phải quyết định xem có nên duy trì chế độ nô lệ ở trong lãnh thổ này hay không? (Tư tưởng này gọi là chủ quyền nhân dân). Không ai ngạc nhiên khi thấy ông Douglas nói như vậy, vì rằng chính ông là người đã soạn thảo luật Kansas – Nebraska.

Ông Lincoln nói rằng chế độ nô lệ là lầm lẫn, Ông tuyên bố rằng Quốc hội có quyền giải phóng nô lệ ở trong các vùng đất thuộc về toàn thể nhân dân Hoa Kỳ. Thế có nghĩa là trong tất cả các vùng lãnh thổ chứ không phải trong tất cả các tiểu bang. Ông nói tiếp rằng đảng Cộng hòa nghĩ rằng chế độ nô lệ là lầm lẫn. Vì lý do này mà đảng Cộng hòa muốn giới hạn chế độ nô lệ ở trong các tiểu bang đã có sẵn nô lệ từ trước, và ngăn chặn không cho nô lệ tràn sang các vùng lãnh thổ khác.

Tuy thế, nhưng trong thâm tâm của ông Lincoln lại sợ rằng không thể nào tránh được một cuộc tranh chấp giữa miền Bắc và miền Nam. Trong một bài diễn văn trước đó, ông đã cảnh cáo với nhân dân Hoa Kỳ rằng: “Một gia đình mà chia rẽ thì sẽ không tồn tại được. Tôi tin rằng chính phủ này sẽ không thể nào mãi mãi chịu đựng được cái cảnh một nửa là nô lệ và một nửa là tự do”.

Ông Stephen Douglas đã thắng kỳ bầu cử này. Nhưng ông Abraham Lincoln đã trở nên nổi tiếng về các vấn đề đã nêu ra, nhất là vấn đề nô lệ.

HOẠT CẢNH 6

- John Brown tấn công kho vũ khí của chính phủ liên bang tại bến phà thuộc làng Harper, tiểu bang Virginia (1859)

Tại bến phà ở làng Harper trên bờ sông Potomac, chúng ta thấy căn nhà tạm giam với những bức tường dầy. Súng nổ, quân lính đổ xô tới cửa và chiếm giữ tòa nhà. Ở bên trong, người ta thấy John Brown và một số người. Phần lớn trong đám người này đã chết hay đã bị thương. Đấy chính là John Brown mà chúng ta đã thấy ở Kansas. Ông ta đang làm gì ở đấy bây giờ.

Ông Brown và một số đông bạn của ông đã tới Virginia với ý định giải phóng nô lệ. Sau khi chiếm đóng vũ khí của chính phủ Liên bang ở tại bến đò làng Harper để cướp vũ khí, ông kêu những người nô lệ ở gần đó “Chúng tôi có mặt ở đây để giải phóng các bạn! Hãy võ trang và bảo vệ tự do của các bạn”. Nhưng không có người nô lệ nào theo ông cả. Ông Brown bị bắt và bị xử về tội phản bội, ông bị xử giảo.

Mặc dù những người theo chủ trương hủy bỏ chế độ nô lệ coi ông Brown như là một vị thánh, nhưng nhiều người miền Bắc lại coi hành động của ông như là hành động của người điên. Tuy nhiên, dân miền Nam thì rất là sợ hãi. Họ sợ rằng những người theo chủ trương hủy bỏ chế độ nô lệ ở miền Bắc đang tiến hành khuyến khích dân da đen nổi loạn và dùng võ lực để giải phóng nô lệ. Người miền Nam bảo rằng: “Chúng ta không thể chịu đựng được hơn nữa”.

*

* *
PHẦN BA



NHỮNG BIẾN CỐ NÀO ĐÃ TRỰC TIẾP ĐƯA ĐẾN CHIẾN TRANH GIỮA MIỀN NAM VÀ MIỀN BẮC

CUỘC BẦU CỬ ĐỊNH MẠNG



- Ông Abraham Lincoln đắc cử Tổng thống

Năm 1860, toàn thể đất nước lo sợ và căng thẳng như đang chờ đợi những biến cố trầm trọng nhất của mấy năm qua. Cuộc bầu cử Tổng thống được tổ chức vào năm này, vấn đề chính sẽ là vấn đề nô lệ. Kết quả sẽ như thế nào?

Trong kỳ bầu cử này có 4 đảng chính trị, không giống như trước kia chỉ có hai hay ba chính đảng thôi. Đảng Dân chủ cũ đã phân hóa ra làm hai nhóm. Một nhóm là đảng Dân chủ miền Nam muốn bầu ông John C. Breckinridge thuộc tiểu bang Kentucky. Đảng này tin tưởng ở quyền tự do của các tiểu bang và khẳng định rằng phải bảo vệ chế độ nô lệ ở trong các vùng lãnh thổ. Đảng Dân chủ miền Bắc tin tưởng rằng giải pháp tốt đẹp nhất cho vấn đề nô lệ là tư tưởng chủ quyền của nhân dân của ông Stephen Douglas. Hãy để cho dân chúng ở trong các vùng lãnh thổ tự quyết định. Đảng này chọn ông Douglas ra làm ứng cử viên. Một chính đảng thứ ba là đảng Đoàn kết Lập hiến (The Union Constitutional Paryt). Những người ở đảng này là những người yêu chuộng hòa bình và muốn cho quốc gia được đoàn kết. Họ hy vọng sẽ có một thỏa hiệp khác về vấn đề nô lệ. Họ chọn ông John Bell làm ứng cử viên Tổng thống.

Sau hết là đảng Cộng hòa. Đảng này nhắc lại những gì mà họ đã đòi hỏi vào năm 1854, rằng phải ngăn chặn không cho chế độ nô lệ du nhập vào các vùng lãnh thổ. Đảng Cộng hòa cũng cố gắng hoạt động để miền Bắc và miền Tây ủng hộ bằng cách:

1. Nâng cao thuế mậu dịch.

2. Phân phối ruộng đất miễn phí cho dân miền Tây.

3. Thiết lập các đường xe lửa chạy tới bờ biển Thái bình dương. Đảng này chọn ông Abraham Lincoln, một vị luật sư ở nơi xa xôi hẻo lánh thuộc tiểu bang Illinois ra làm ứng cử viên Tổng thống.

Chính đảng nào mà bị phân hóa vào những khi ra tranh cử thì thường thường là bị thất bại. Cho nên đảng Dân chủ đã bị thất bại vào năm 1860. Đảng Cộng hòa thắng trong kỳ bầu cử này, dù là ở hầu hết các tiểu bang miền Nam đảng này không có phiếu. Ông Abraham Lincoln trở thành Tổng thống Hoa Kỳ vào năm 1861.




tải về 2.16 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   25   26   27   28   29   30   31   32   33




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương