LUẬN NGỮ
(Nguyễn Hiến Lê chú dịch và giới thiệu)
Vài lời thưa trước (của người đăng)
Trong bài Lời nói đầu cuốn Khổng tử, cụ Nguyễn Hiến Lê cho đôi điều về việc dịch lại cuốn
Luận ngữ nhƣ sau:
“Tôi đã bỏ ra hơn hai tháng đọc lại những sách về Khổng tử mà tôi có hoặc mƣợn đƣợc (nhƣ của
Lữ Chấn Vũ: Lịch sử tƣ tƣởng chính trị Trung Quốc; Hầu ngoại Lƣ: Tƣ tƣởng cổ đại
Trung
Quốc; Quan Phong và Lâm Duật Thời: Bàn về Khổng Tử - đều do ngoài Bắc dịch); đọc lại các
bản dịch và chú giải Luận ngữ của mình, và của Trung Hoa (nhƣ Luận ngữ độc bản của Thẩm
Tri Phƣơng và Tƣởng Bá Tiềm, Luận ngữ dịch chú của Triệu Thông; lại bỏ ra hơn hai tháng nữa
để dịch lại bộ Luận ngữ, vừa dịch vừa phân loại theo đề tài lập bảng tra tên ngƣời, tên đất”.
Về việc “dịch lại”, trong chú thích bài XVI.1, cụ Nguyễn Hiến Lê bảo: “Bài này chúng tôi dịch
trong cuốn Nhà giáo họ Khổng (Cảo Thơm, 1972), nay dịch lại”. Dƣới đây tôi xin nêu thêm vài
ví dụ nữa:
- Bài II.2: Trong bộ Đại cƣơng văn học sử Trung Quốc, câu “Thi tam bách, nhất ngôn dĩ tế chi,
viết: Tƣ vô tà”, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch là: “Cả 300 thiên
trong Kinh Thi, chỉ một câu có thể
trùm đƣợc, là: không nghĩ bậy”. Trong cuốn Luận ngữ, cụ dịch lại, đặc biệt là ba chữ “tƣ vô tà”,
nhƣ sau: “Kinh Thi có ba trăm thiên, một lời đủ bao quát tất cả, là tƣ tƣởng thuần chính”.
- Bài VI.8: Trong bộ Mặc học, câu “Vô chi, mệnh hĩ phù? Tƣ nhân dã nhi hữu tƣ tật dã!”, cụ
dịch là: “Con [tức Bá Ngƣu] sắp mất. Số mệnh đó thôi. Ngƣời nhƣ vậy mà bệnh nhƣ vậy!”;
Trong cuốn Luận ngữ, cụ hiểu chữ “vô” theo một nghĩa khác, và cả câu đó đƣợc lại thành: “Vô
lí! Do mệnh trời chăng? Con ngƣời nhƣ vậy mà bị bệnh đó!”.
- Bài VIII.3: Trong bộ Trang tƣ – Nam
hoa kinh, câu “Nhi kim nhi hậu, ngô tri miễn phù, tiểu
tử” (lời của Tăng tử), cụ dịch là: “Từ đây về sau ta mới biết chắc rằng ta giữ đƣợc (thân ta) khỏi
các điều hƣ hỏng, tàn tật đó các trò”. Trong cuốn Luận ngữ, cụ dịch lại là: “Từ nay về sau, ta mới
biết thoát khỏi hình lục, đó các trò” (cụ đã hiểu hai chữ “miễn phù” theo một nghĩa khác).
- Bài XVIII.6: Trong bộ Đại cƣơng triết học Trung Quốc, câu “Thao thao giả thiên hạ giai thị dã,
nhi thuỳ dĩ dịch chi”, hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê dịch là: “Ùa ùa nhƣ nƣớc chảy một
chiều, thiên hạ đều thế cả, ai mà theo mình để sửa đổi việc loạn ra trị”. Trong cuốn Luận ngữ, cụ
Nguyễn Hiến Lê dịch lại (đặc biệt là hai chữ “thao thao”): “Khắp thiên hạ đâu đâu cũng là dòng
nƣớc (đục) cuồn cuộn, ông Khổng Khâu sẽ cùng với ai mà sửa thiên hạ?”.
Lý do khác biệt trong hai lần dịch bài VI.8 là do chữ 亡 trong nguyên văn. Trong bộ Mặc học, cụ
Nguyễn Hiến Lê đọc chữ đó là “vong” và dịch theo nghĩa của chữ 亡là “chết mất”; còn
trong
cuốn Luận ngữ cụ đọc là “vô” và dịch theo nghĩa của chữ “vô” 無 là “không”. Cũng có trƣờng
hợp đọc khác nhƣng ý nghĩa cũng vậy nhƣ chữ 哂 trong bài XI.25, trong cuốn Cổ văn Trung
Quốc, cụ đọc là “sẩn” (Thiều Chửu cũng đọc là “sẩn”); còn trong cuốn Luận ngữ, cụ đọc là
“thẩn”, nhƣng nghĩa cũng vẫn là “mỉm cƣời”. Nhân vật Nhụ Bi trong bài XVII.20 cuốn Luận
ngữ, chữ Hán là 孺悲, trong cuốn Nhà giáo họ Khổng (bài Dƣơng Hoá – 19) gọi là Nhũ Bi.
Cũng trong cuốn Cỗ văn Trung Quốc, cụ Nguyễn Hiến Lê tỏ ý ngờ rằng thiên Hƣơng đảng (thiên
X) là do ngƣời sau chép thêm; cụ bảo: “(…) hình nhƣ cũng có vài chỗ do ngƣời đời sau viết
thêm, chẳng hạn nhƣ thiên Hƣơng Đảng”. Nhƣng trong cuốn Luận ngữ chúng ta không thấy cụ
không nhắc lại ý nghi ngờ đó nữa, trong cuốn Khổng tử cũng vậy.
Cuốn Luận ngữ mà tôi chép lại ở đây là theo ebook do một bạn trẻ, bạn PNT, gởi tặng.
Ebook
đó, về sau gọi là “ebook nguồn”, không ghi tên nhà xuất bản và năm xuất bản. Theo ảnh bìa đăng
trên trang thì nhà xuất bản là nhà Văn học (tôi tạm dùng ảnh đó, sửa lại đôi chút để làm ảnh bìa
cho ebook mới này).
Trong ebook nguồn cũng không thấy chép chữ Hán, các chữ Hán trong ebook mới này là do tôi
ghi thêm dựa theo các bản Luận ngữ đang lƣu hành trên mạng, đặc biệt là bản Khổng tử Luận
ngữ do Nguyễn Thiên Thụ chú dịch hiện đang phổ biến trên website website Sơn Trung Thƣ
Trang. Bản của Nguyễn Thiên Thụ và bản của cụ Nguyễn Hiến Lê có vài chỗ không giống nhau.
Sau đây là vài ví dụ về chữ Hán khác nhau:
- Trong bài I.6, Nguyễn Thiên Thụ chép là: 凡愛眾,而親仁 “phàm ái chúng nhi thân nhân” và
dịch là: “Thƣơng mọi ngƣời, mà gần gũi ngƣời nhân đức”; tƣơng ứng với chữ “phàm” 泛, cụ
Nguyễn Hiến Lê chép là “phiếm” [泛] và dịch là: “yêu khắp mọi ngƣời mà gần gũi ngƣời nhân
đức”.
- Trong bài IX.3, Nguyễn Thiên Thụ chép là: 雖遠衆 “tuy viễn chúng”, dịch là: “trái với đại
chúng”; cụ Nguyễn Hiến Lê chép là: “tuy vi [違] chúng”, dịch là: “tuy trái với số đông).
- Trong bài II.16, Nguyễn Thiên Thụ chép là: 攻乎異端,斯害也己
“Công hồ dị đoan tƣ hại dã
kỉ” và dịch là “Nghiên cứu việc hoang đƣờng thì có hại cho mình”; chữ cuối, cụ Nguyễn Hiến Lê
chép là “dĩ” [已] và dịch là: “Chuyên tâm nghiên cứu những cực đoan thì có hại”.
Ngoài việc ghi thêm chữ Hán và các chú thích, trong phần Phụ lục tôi còn chép trọn tiết Luận
ngữ trong cuốn Cổ văn Trung Quốc. Trong tiết đó cụ Nguyễn Hiến Lê giới thiệu tác phẩm Luận
ngữ và ba bài: I.1, VII.14 và XI.25.
Xin chân thành cảm ơn bạn PNT và xin trân trọng giới thiệu cùng các bạn.
Goldfish
Tháng 7 năm 2011
---------------
Trong bài III. 5, bài VI.12… chữ “vong” cũng đƣợc đọc và hiểu là “vô”. Tƣơng tự, trong bài I.1,
V.5… chữ “thuyết” 說 đọc là “duyệt” 悅; bài II.17, III.6… chữ “nữ” 女 đọc là “nhữ” 汝; bài
III.15, III.23… chữ “đại” 大 đọc là “thái” 太.