Khổng tử đã “san định”
Kinh Thi, tất đã bỏ đi một số; và những bài giữ lại, có thể ông cho là vô
hại: tình trong đó tự nhiên, chính đáng.
Ông không quá nghiêm khắc nhƣ các nhà nho thời sau chăng? Thuyết này có ngƣời cho là sai:
Khổng tử không hề san
Kinh Thi, ông giữ đủ; và “tƣ vô tà” là thái độ của ta
nên có khi đọc
Kinh
Thi. Nhƣng theo nguyên văn thì Khổng tử xét về
Kinh Thi chứ không xét về cách đọc
Kinh Thi.
II.3
Tử viết: “Đạo chi dĩ chính, tề chi dĩ hình, dân miễn nhi vô sỉ. Đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỉ
thả cách”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Dùng chính lệnh để dắt dẫn dân, dùng hình phạt để bắt dân vào khuôn
phép, dân tránh khỏi tội nhưng không biết hổ thẹn. Dùng đạo đức để dắt dẫn dân, dùng lễ giáo
để đặt dân vào khuôn phép, dân biết hổ thẹn mà lại theo đường chính”.
Chú thích. - Chữ
tề có thể hiểu là tề chỉnh, hoặc nhất luật nhƣ nhau. “Vào khuôn phép” diễn đủ
đƣợc hai ý đó. Chữ
cách, có ngƣời giảng là
chí, đến (đạt đƣợc mức thiện). Lại có bài giảng là
“thuần phục”.
Bài này bổ túc bài 1 ở trên.
II.4
Tử viết: “Ngô thập hữu ngũ nhi chí ƣ học; tam thập nhi lập; tứ thập nhi bất hoặc; ngũ thập
nhi tri
thiên mệnh; lục thập nhi nhĩ thuận; thất thập nhi tòng tâm sở dục, bất du củ”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Ta mười lăm tuổi để chí vào việc học (đạo); ba mươi tuổi biết tự lập (tức
khắc kỉ phục lễ, cứ theo điều lễ mà làm); bốn mươi tuổi không nghi hoặc nữa (tức có trí đức, nên
hiểu rõ ba đức nhân, lễ, nghĩa); năm mươi tuổi biết mệnh trời (biết được việc nào sức người làm
được, việc nào không làm được); sáu mươi tuổi biết theo mệnh trời (chữ nhĩ ở đây không có
nghĩa là tai, mà có nghĩa là dĩ = đã); bảy mươi tuổi theo lòng muốn của mình mà không vượt ra
ngoài khuôn khổ đạo lí (không phải suy nghĩ, gắng sức mà hành động tự nhiên, hợp đạo lí).
Chú thích. - Có ngƣời hiểu
lập là tự mình biết theo chính đạo; chúng tôi theo những câu “lập ƣ
lễ” (Thiên
Thái Bá, bài 8), “bất tri lễ vô dĩ lập” (Thiên
Nghiêu viết, bài 3) mà dịch nhƣ trên. –
Thiên mệnh có ngƣời hiểu là luật trời, sự biến hoá, diễn tiến trong vũ trụ. –
Nhĩ thuận, hầu hết
các sách đều giảng là: tai thuận, tức nghe ai nói thì hiểu đƣợc ngay ngƣời đó nghĩ gì, muốn nói
gì, có ý gì.
II.5
Mạnh Ý tử vấn hiếu. Tử viết: “vô vi”.
Phàn Trì ngự, tử cáo chi viết: “Mạnh tôn vấn hiếu ƣ ngã, ngã đối viết: “vô vi”. Phàn Trì viết: “Hà
vị dã?” Tử viết: “Sinh, sự chi dĩ lễ; tử, táng chi dĩ lễ, tế chi dĩ lễ”.