Ủy ban nhân dân tỉnh đIỆn biêN (Dự thảo)



tải về 1.01 Mb.
trang7/10
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích1.01 Mb.
#19254
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

Đào Can Mộc



Hàm


Nghi


Hàm Nghi (1871-1943), là con thứ 5 của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Phan Thị Nhàn. Là vị Hoàng đế thứ 8 của nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Cùng với các vị vua Thành Thái, Duy Tân ông là một trong ba vị vua yêu nước trong thời kỳ Pháp thuộc.

Hàm Nghi





Trần Đại

Nghĩa

(1913-1997): Trần Đại Nghĩa, tên thật là Phạm Quang Lễ, quê tỉnh Vĩnh Long; học ở Pháp, theo lời kêu gọi của Bác Hồ, tình nguyện về nước tham gia kháng chiến, được phong Thiếu tướng, Cục trưởng Cục Quân giới, sáng chế ra súng không giật SKZ, Badoca; là Viện sĩ nước ngoài Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước, Anh hùng Lao động, Giải thưởng Hồ Chí Minh.

Trần Đại Nghĩa



Nguyễn Bá

Ngọc

Nguyễn Bá Ngọc là học sinh lớp 4B (năm học 1964- 1965) trường phổ thông cấp I xã Quảng Trung. huyện Quảng Xương tỉnh Thanh Hóa.

Năm 1964, giặc Mỹ vừa ồ ạt  đưa quân vào miền Nam, vừa cho máy bay leo thang ra  đánh phá các tỉnh miềm Bắc nước ta . Chúng ném bom cả trường học và bệnh viện . Nguyễn Bá Ngọc và các bạn phải đi học trong cảnh sơ tán dưới hầm hào. Ngày 04/4/1965 máy bay Mỹ đã tới ném bom, bắn phá xã Quảng Trung. Lúc ấy người lớn đã ra đồng làm việc , trong nhà chỉ còn có trẻ em. Nghe tiếng máy bay , Ngọc đã kịp chạy xuống hầm và bom đã rơi xuống bên cạnh nhà Ngọc. ở dưới hầm, Ngọc nghe thấy có tiếng khóc to, bên nhà Khương, Khương là bạn của Ngọc. Không chút ngần ngừ Ngọc nhào lên, chạy sang nhà Khương thì thấy bạn của mình đã bị thương. Các em nhỏ của Khương và Toanh, Oong, Đơ đang kêu khóc. Ngọc vội vừa bế vừa dìu 2 em Oong, Đơ xuống hầm . Ngọc bò gần tới nơi trú ẩn thì giặc lại thả bom bi và em đã bị 1 viên bi bắn vào lưng rất hiểm. Cứu được 2 em nhỏ rồi Ngọc mới tái mặt, lả đi, vết thương quá nặng, Ngọc đã hy sinh vào lúc 2 giờ sáng ngày 5/4/1965 ở bệnh  viện.           



Nguyễn Bá Ngọc



Đặng Văn

Ngữ 

Đặng Văn Ngữ (1910-1967): giáo sư, bác sĩ, quê ở An Cựu, Huế. Nhà khoa học xuất sắc để lại nhiều công trình có giá trị cho ngành y và chuyên ngành ký sinh trùng. Ông là giáo sư chủ nhiệm bộ môn Sinh Học, Đại học Y khoa, Viện trưởng Viện Sốt rét - Ký sinh trùng. Ông hy sinh tại Thừa Thiên khi đi thực nghiệm chống sốt rét cho quân Giải phóng miền Nam, được truy tặng liệt sĩ, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Đặng Văn Ngữ



Ngô Thì

Nhậm 

Ngô Thì Nhậm (1746-1803): nhà văn hóa-quân sự lớn, người làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội. Đỗ tiến sĩ, làm tới Công bộ Hữu thị lang thời Lê Mạt. Quang Trung ra Bắc Hà, trọng dụng công, cử ông trấn giữ Thăng Long cùng với Ngô Văn Sở. Quân Thanh xâm lược, ông hiến kế lui quân về Tam Điệp bảo toàn lực lượng, đợi đại quân Tây Sơn ra, cùng tiến đánh giải phóng kinh thành – mùa xuân Kỷ Dậu 1789. Triều Tây Sơn mất, ông bị nhà Nguyễn bắt, hãm hại bằng trận đòn thù ở sân Văn Miếu, về nhà ốm chết. Ông để lại nhiều tác phẩm giá trị về văn, sử, triết, ngoại giao.

Ngô Thì Nhậm



Đỗ

Nhuận

Đỗ Nhuận (1922-1991), quê quán: xã Thái Học, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương ông là một nhạc sĩ tiên phong của âm nhạc cách mạng, cũng là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên viết Opera. Ông là Tổng thư ký đầu tiên của Hội nhạc sĩ Việt Nam khóa I, II. Năm 1943, ông tham gia hoạt động cách mạng và bị thực dân Pháp bắt giam vào các nhà lao: Hải Dương, Hoả Lò, Sơn La. Năm 1955, ông đạt giải nhất Hội văn nghệ Việt Nam. Ông có nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó nổi bật là bài hát Chiến thắng Điện Biên… Ông được Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Độc lập hạng Nhì, Giải thưởng Hồ Chí Minh, Huân chương Chiến sĩ hạng Nhì, Huân chương Chiến thắng hạng Nhì.

Đỗ Nhuận




Trần Đăng


Ninh

Trần Đăng Ninh là một nhà hoạt động cách mạng và quân sự, Chủ nhiệm đầu tiên của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng, Chủ nhiệm đầu tiên của Tổng cục Cung cấp (sau là Tổng cục Hậu cần, Quân đội Nhân dân Việt Nam) giai đoạn 1950-1955. Ông được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng các Huân chương Độc lập hạng nhất, Quân công hạng nhì, Chiến thắng hạng nhất, truy tặng Huân chương Sao Vàng năm 2003.

Trần Đăng Ninh



Hải Thượng Lãn

Ông

Hải Thượng Lãn Ông là biệt hiệu của danh y Lê Hữu Trác (1720-1791), quê ở xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Ông là đại danh y có đóng góp lớn cho nền y học dân tộc Việt Nam, từng chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm. Ông để lại nhiều tác phẩm lớn như: Hải Thượng y tông tâm lĩnh, Lĩnh Nam bản thảo, Thượng kinh ký sự

Hải Thượng Lãn Ông


Lê Hồng



Phong

Tên thật là Lê Huy Doãn, quê xã Thông Lạng, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Ông được Nguyễn Ái Quốc giới thiệu học trường Hoàng Phố - Trung Quốc, tốt nghiệp Sĩ quan lục quân, sang Liên Xô học trường Không quân Lêningrat, Đại học Phương Đông, phụ trách Ban Hải ngoại của Đảng, đại biểu dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Tại Đại hội I Đảng Cộng sản Đông Dương, ông được cử là người đứng đầu Ban Chấp hành Trung ương Ban Chấp hành Trung ương. Về Sài Gòn lãnh đạo phong trào, bị địch bắt, ông bị đày ra Côn Đảo, trước những đòn tra tấn dã man, liên tục của địch, đồng chí vẫn nêu cao chí khí cách mạng, không khai báo một lời. và hy sinh tại đó.

Lê Hồng Phong



Trần

Phú

 Trần Phú, quê huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh; đỗ đầu Cao đẳng Tiểu học (1922), dạy ở trường Tiểu học Cao Xuân Dục, tham gia hội Phục Việt (sau đổi là Tân Việt), được cử sang Quảng Châu (1926) rồi sang học trường Đại học Phương Đông (Liên Xô). Tháng 4/1930, về nước được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương (hội nghị ở Hương cảng tháng 10/1930), soạn thảo bản Luận cương Chính trị đề ra đường lối cho cách mạng Việt Nam. Tháng 4/1931, bị địch bắt, tra tấn dã man, ốm và mất tại nhà thương Chợ Quán khi mới 27 tuổi (06/9/1931).

Trần Phú



Phan Đình

Phùng 

Phan Đình Phùng (1847-1895): người làng Đông Thái, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, đỗ tiến sĩ năm 1877, làm quan Ngự sử triều Nguyễn. Năm 1883 bị cách chức vì không ủng hộ Tôn Thất Thuyết phế vua Dục Đức lập Hiệp Hòa. Ông về quê theo Hàm Nghi mộ quân Cần Vương, lãnh chức Hiệp thống quân vụ. Nghĩa quân của ông hoạt động khắp vùng núi Hương Sơn, Hương Khê, duy trì cuộc kháng chiến gần 10 năm, đánh Pháp nhiều trận. Ông bị bệnh mất tại căn cú Núi Quạt, trong dãy Trường Sơn.

Phan Đình Phùng



Vũ Trọng

Phụng 

Vũ Trọng Phụng (1912-1939): quê gốc ở huyện Mĩ Hào, Hưng Yên, từ nhỏ sống ở Hà Nội; nhà báo, nhà văn xuất chúng, với các tác phẩm phản ánh xã hội đương thời một cách sinh động, sắc sảo như: Số đỏ, Vỡ đê, Giông Tố, Làm đĩ …

Vũ Trọng Phụng



Nguyễn Tri

Phương

Nguyễn Tri Phương (1800-1873), quê ở Làng Đường Long, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế; hồi trẻ, ông làm thơ lại ở huyện Phong Điền, thế rồi dần dần tiến đến làm thơ lại ở bộ Hộ sau được người tiến cử và vua Minh Mạng đã thu dụng ông. Năm Mậu Ngọ (1858), tàu chiến Pháp đến uy hiếp Đà Nẵng, ông được cử làm Quân thứ tổng thống đại thần trực tiếp chỉ huy quân đội chống giặc. Với vũ khí tối tân Pháp đã phá hủy một số lớn đồn lũy của ta, ông bị triều đình giáng cấp nhưng vẫn lưu tại chức.

Năm 1860, ông được sung chức Gia Định quân thứ, Thống đốc quân vụ cùng Tham tán đại thần Phạm Thế Hiển trông coi việc quân sự ở miền Nam. Tại đây, ông xây dựng đồn Chí Hòa để chống Pháp. Ngày 25-10-1861, Pháp công phá đồn, ông bị thương, em trai ông là Nguyễn Duy tử trận. Rồi Pháp chiếm Gia Định, ông bị triều đình cách chức, năm sau được cử làm Đổng nhung quân vụ Biên Hòa. Ngày 19-11-1873, quân Pháp do Garnier chỉ huy, đánh úp Hà Nội. Con trai ông là phò mã Nguyễn Lâm hy sinh tại trận, ông bị trọng thương. Giặc Pháp chiếm thành Hà Nội, chúng bắt được ông trong lúc bị thương nặng, lính Pháp biết về ông nên cố cứu chữa, nhưng ông đã từ chối và nói rằng: “Bây giờ nếu ta chỉ gắng lây lất mà sống, sao bằng thung dung chết về việc nghĩa”. Sau đó, ông tuyệt thực một tháng và mất vào 20-12-1873 (1-11 Âm lịch), thọ 73 tuổi, thi hài ông được an táng tại quê nhà.

Yêu nước, thương dân, bất khuất trước kẻ thù, Nguyễn Tri Phương đã chọn cái chết để thỏa lòng trung với nước. Quả là một tấm gương, một bài học quý cho đời.


Nguyễn Tri Phương



Lạc Long

Quân

Lạc Long Quân (khoảng thế kỷ 8-7 TCN): là nhân vật truyền thuyết Việt Nam, con trai của Kinh Dương Vương Lộc Tục và con gái Động Đình Quân tên là Thần Long. Lạc Long Quân được xem là vị vua của nhà nước sơ khai Xích Quỷ trước Văn Lang và là Thủy Tổ sinh ra dân tộc Việt Nam theo truyền thuyết "bọc trăm trứng".

Lạc Long Quân



Cao Bá

Quát 

(1808-1855): tự Chu Thần, quê xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, sống ở Thăng Long, đỗ cử nhân, làm Giáo thụ Quốc Oai (Sơn Tây), năm 1854 cùng Lê Duy Cự khởi nghĩa Mỹ Lương (nay là Mỹ Đức, Hà Nội) bị đàn áp dã man và hy sinh. Nhà thơ lớn để lại hơn 1300 bài thơ, ông còn là nhà thư pháp, được người đời tôn ông là “Thánh Quát”.

Cao Bá Quát



Ngô

Quyền

Ngô Quyền (899-944), quê quán làng Đường Lâm, ba Vì, Hà Nội, là một tướng tài và con rể của Dương Đình Nghệ. Trong cuộc đấu tranh chống triều đình Nam Hán do Dương Đình Nghệ lãnh đạo nhằm giành độc lập dân tộc vào những năm 930-931, ông đã góp một phần công sức rất quan trọng. Sau khi đã thắng lợi, Dương Đình Nghệ tự xưng là Tiết độ sứ (931), và cử ông trông coi châu Ái. Cuối năm 938, Ngô Quyền kéo quân từ châu Ái ra Bắc trị tên phản nghịch. Và cũng trong năm này, ông đã lập một chiến công lừng lẫy trên sông Bạch Đằng, quét sạch đội thủy quân Nam Hán do Vạn vương Hoằng Thao, con vua Nam Hán dẫn đầu, dựa vào lời cầu cứu của Kiều Công Tiễn, kéo sang định xâm lược nước ta lần nữa. Hoằng Thao cùng tướng tá bị vùi sâu xuống lòng sông và đội quân cứu viện của vua Nam Hán mới sang đến nửa đường, nghe tin vội bỏ chạy.

Có thể nói nói, bằng chiến thắng vang dội của mình, Ngô Quyền đã mở ra một trang sử mới mà các triều đại về sau sẽ tiếp tục ghi thêm những chiến công bất hủ.Ông xứng đáng được xem là người khởi đầu cho thời kỳ tự chủ trong lịch sử dân tộc.



Ngô Quyền



Võ Thị

Sáu

Võ Thị Sáu (1935–1952), tên thật: Nguyễn Thị Sáu, quê ở xã Phước Long Thọ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là anh hùng Lực lượng vũ trang (truy tặng 1993), khi hi sinh là đội viên Công an Xung phong quận Đất Đỏ. Tham gia cách mạng năm 1948. Sớm có ý thức căm thù thực dân Pháp, dũng cảm, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao như giao liên, mua hàng tiếp tế cho các tổ chức cách mạng. Tháng 5.1948, tham gia phá tề, trừ gian, giết cai tổng Tòng. Ngày 14.7.1949, cùng đồng đội phá cuộc mít tinh kỉ niệm quốc khánh Pháp do ngụy quyền tổ chức. Đã trực tiếp diệt nhiều lính Pháp ở Vũng Tàu.Tháng 5.1950, bị địch bắt giam ở Bà Rịa, sau chuyển đến Khám Chí Hoà, Sài Gòn. Mặc dù bị địch tra tấn dã man vẫn giữ vững khí tiết người công an cách mạng. Bị thực dân Pháp kết án tử hình - vụ án đã gây chấn động dư luận xã hội lúc đó. Khi bị dẫn đi làm thủ tục trước khi hành quyết đã khước từ rửa tội, từ chối bịt mắt khi ở pháp trường, giữ vững khí tiết người chiến sĩ cách mạng đến phút cuối cùng. Võ Thị Sáu hi sinh anh dũng hồi 7 giờ ngày 23.1.1952 và được truy tặng Huân chương Chiến công hạng nhất.

Võ Thị Sáu



Trương Hán

Siêu 

Trương Hán Siêu (?-1355): quê huyện Yên Ninh (nay là Tp Ninh Bình), Ninh Bình; được Trần Hưng Đạo nuôi dưỡng và tiến cử, sau làm tới chức Hành khiển, Tả Tham tri Chính sự; trở thành nhà văn, nhà chính trị nổi tiếng thời Trần, là tác giả Hoàng Triều đại điển, Bạch Đằng giang phú …

Trương Hán Siêu



Nguyễn Văn

Siêu 

Nguyễn Văn Siêu (1799-1872): tự Tốn Ba, hiệu Phương Bình, người làng Kim Lũ (nay là xã Đại Kim), huyện Thanh Trì; sống ở thôn Cổ Lương, bờ sông Tô. Đỗ bảng, làm án sát sứ Hưng Yên, rồi về dạy học, lập trường Phương Đình (số nhà 12-14 phố này). Ông giỏi văn chương, học rộng, được người đời gọi là Thần Siêu, cùng với Thánh Quát (Cao Bá Quát) là bạn, nổi tiếng thời ấy. Ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị và có công tạo đền Ngọc Sơn, Đài Nghiên, Tháp Bút, ở đây còn nhiều những câu đối và đại tự do ông viết.

Nguyễn Văn Siêu



Nguyễn

Sơn

Nguyễn Sơn (1908–1956) là một trong những người Việt Nam được phong quân hàm tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam đợt đầu tiên vào năm 1948. Ông cũng được Trung Quốc phong quân hàm tướng vào năm 1955 nên còn được gọi là "Lưỡng quốc tướng quân". Năm 1925, ông gia nhập "Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội", trở thành một trong những đảng viên sớm nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cũng trong thời gian đó, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh giới thiệu tham gia vào cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Quảng Châu và học Trường Quân sự Hoàng Phố. Tháng 8/1927, ông gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc từ đó tham gia vào cuộc khởi nghĩa vũ trang do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo. Năm 1934, ông được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương nước Cộng hòa Xô viết Trung Hoa. Tháng 11 năm 1945, ông trở về nước hoạt động theo đề nghị của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội và chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ như: Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính miền Nam Việt Nam, Tư lệnh kiêm Chính ủy hai Liên khu 4 và 5, Hiệu trưởng trường Lục quân Trung học Quảng Ngãi, Cục trưởng Cục Quân huấn Bộ Tổng Tham mưu, Tư lệnh kiêm Chính ủy Liên khu 4. Năm 1948, ông được Nhà nước Việt Nam phong quân hàm thiếu tướng trong đợt phong quân hàm đầu tiên. Ông mất năm 1956 và sau đó được Nhà nước Việt Nam truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh.

Nguyễn Sơn



Lý Quốc



Lý Quốc Sư (1065-1141), quê quán: Gia Viễn, Ninh Bình, là pháp danh của thiền sư Nguyễn Minh Không. Quốc sư đã có công lớn chữa bệnh hoá hổ cho vua Lý Thần Tông. Ngài là ông tổ nghề y, đúc đồng, thủ công nghiệp, trồng lúa nước, đã có công truyền nghề cho dân vùng Nam Định, được nhân dân Nam Định ghi nhớ công ơn, lập đền thờ.

Lý Quốc Sư



Duy


Tân


Vua Duy Tân (1900-1945) là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Nguyễn. Năm 1916, lúc ở Châu Âu có cuộc Đại chiến, ông bí mật liên lạc với các lãnh tụ Việt Nam Quang Phục Hội như Thái Phiên, Trần Cao Vân, ông dự định khởi nghĩa. Dự định thất bại và Duy Tân bị bắt ngày ngày 6 tháng 5 và đến ngày 3 tháng 11 năm 1916 ông bị đem an trí trên đảo Réunion ở Ấn Độ Dương. Trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939-1945) ông gia nhập quân Đồng Minh chống phát xít Đức. Ngày 26 tháng 12 năm 1945, ông mất vì tai nạn máy bay ở Cộng hoà Trung Phi ở tuổi 45.

Duy Tân





Tống Duy

Tân

Tống Duy Tân (1837- 1892), quê quán: xã Đông Biện, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá là nhà yêu nước kháng Pháp. Năm1875 thi đỗ Tiến sĩ, bổ làm Tri phủ Vĩnh Tường, rồi Đốc học Thanh Hoá, sau làm Thương biện tỉnh vụ, đổi sang Chánh sứ Sơn phòng tỉnh Thanh Hoá, có lúc ông đã chán chường đường quan lại bỏ về dạy học. Năm 1885, sau khi Kinh đô Huế thất thủ, ông hưởng ứng phong trào Cần Vương tham gia khởi nghĩa chống Pháp, ông lập căn cứ và trở thành thủ lĩnh của chiến khu Ba Đình, tỉnh Thanh Hoá. Nghĩa quân của ông bị Pháp bao vây khủng bố, ông đành phải rút lui, lúc thì lánh ra Bắc, lúc chạy vào Hồng Lĩnh khiến cho quân Pháp nhiều phen bạt vía. Được một thời gian, ông bị tên Cao Ngọc Lệ (có sách ghi là Lễ) làm phản báo cho quân Pháp vây bắt. Chúng kết án tử hình và hành quyết ông vào ngày 5/10, Nhâm Thìn, 1892, hưởng thọ 55 tuổi. Trước khi mất ông có câu đối: "Món nợ tiền sinh nay mới trả. Cái danh bất tử trước còn truyền".

Tống Duy Tân



Lê Trọng

Tấn

Đại tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam Lê Trọng Tấn, ông có công lớn trong trận Điện Biên Phủ, đại đoàn 312 do ông chỉ huy đã đánh trận mở màn vào cao điểm Him Lam (13 tháng 3 năm1954) và kết thúc chiến dịch vào ngày 7 tháng 5 năm 1954.

Lê Trọng Tấn



Hà Huy

Tập 

(1902-1941): nhà hoạt động Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông sinh tại Hà Tĩnh. Tốt nghiệp Cao đẳng Tiểu học (1923), dạy học ở các trường Nha Trang, Vinh, tham gia cách mạng học trường Đại học Phương Đông ở Matxcơva, tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ nhất ở Ma Cao được bầu là Ủy viên Trung ương Đảng rồi Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương. Ông về Sài Gòn lãnh đạo phong trào cách mạng, năm 1938, ông bị Pháp bắt giam. Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại (11-1940) ông bị Pháp bắt lần thứ hai, chúng xử bắn ông và các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần…Hà Huy Tập tích cực đấu tranh tuyên truyền cho Đảng Cộng sản. Ông đã viết Sơ thảo lịch sử phong trào Cộng sản Đông Dương bằng tiếng Pháp, ký tên là Hồng Thế Công (1932). Năm 1937, ông viết cuốn Tơ-rốt-xki và phản cách mạng, ký tên Thanh Hương. Ông cũng cộng tác với báo La lutte (1937).

Hà Huy Tập



Nguyễn Cơ

Thạch

Nguyễn Cơ Thạch (1921-1998), quê quán: xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định Ông tham gia tổ chức Thanh niên Dân chủ rồi Thanh niên phản đế tại Nam Định (1937-1939), bị giam tại nhà lao Nam Định, Hòa Bình, Sơn La (1040-1945). Năm 1943 ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau đó ông về công tác tại Bộ Quốc phòng, Bí thư cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp; Bí thư tỉnh ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Hành chính tỉnh Hà Đông (tháng 5/1949-5/1951); Bí thư Đảng ủy các cơ quan của Liên khu (1949-1954). Ông được nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Sao vàng…

Nguyễn Cơ Thạch



Phạm Ngọc

Thạch

Phạm Ngọc Thạch (1909-1968), quê quán ở Quy Nhơn, Bình Định là bác sĩ, giáo sư, Anh hùng Lao động; người Phan Thiết (Bình Thuận); tốt nghiệp trường Đại học y khoa ở Pháp (1934), năm 1936, ông là hội viên duy nhất ở Đông Dương của Hội nghiên cứu về bệnh lao của Pháp. Về nước, ông mở bệnh viện tư chữa lao ở Sài Gòn. Đầu năm 1941, chủ động liên hệ với Đảng Cộng sản và sôi nổi tham gia phong trào cách mạng; tham gia phong trào Mặt trận Bình dân, khởi nghĩa tháng Tám được cử vào Ủy ban nhân dân cách mạng Sài Gòn. Sau năm 1954 ra Bắc, làm Bộ trưởng Y tế (1958), Viện trưởng Viện chống lao, Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam. Tác giả của vắc-xin BCG nổi tiếng. Để có thực tế phục vụ chiến trường, năm 1968 ông trở về Nam và mất trong vùng giải phóng miền Đông Nam Bộ vì bệnh sốt rét ác tính ngày 07/11/1968. Phạm Ngọc Thạch có nhiều công trình nghiên cứu chuyên môn có giá trị về bệnh lao. Các luận văn viết bằng tiếng nước ngoài của ông đã được đăng trên nhiều kỷ yếu ở Bucarest (1961), New Delhi (1957), Moscou (1958) và Paris (1968).


tải về 1.01 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương