Ủy ban nhân dân tỉnh đIỆn biêN (Dự thảo)



tải về 1.01 Mb.
trang4/10
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích1.01 Mb.
#19254
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10





V. DANH NHÂN, ANH HÙNG LLVT, MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG
a. Các danh nhân trong lịch sử Việt Nam

STT

Họ và tên danh nhân


Tóm tắt thân thế, sự nghiệp

Tên dự kiến đặt


Chu Văn



An 

Chu Văn An ( 1292-1370), quê quán xóm Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội là một nhà giáo, thầy thuốc, đại quan nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông đỗ Thái học sinh nhưng không ra làm quan mà mở trường dạy học ở làng Huỳnh Cung. Ông có công lớn trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đức Khổng giáo vào Việt Nam. Vua Trần Minh Tông mời ông ra làm tư nghiệp Quốc tử giám, dạy cho Thái tử Trần Vượng. Đến đời Dụ Tông, ông dâng Thất trảm sớ xin chém 7 tên gian nịnh, nhưng vua không nghe. Ông chán nản từ quan về ở núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương) dạy học, viết sách cho tới khi mất.

Chu Văn An 



Đào Duy

Anh

Đào Duy Anh (1904-1988), quê Khúc Thuỷ, Hà Đông, Hà Nội. Năm 1926, tham gia Đảng Tân Việt. Ông cùng với cụ Huỳnh Thúc Kháng ra báo “Tiếng dân”, thành lập “Quan Hải tùng thư”. Sau Cách mạng tháng 8, ông là uỷ viên Ban chấp hành Hội văn hoá cứu quốc Trung bộ, Giáo sư Đại học Văn khoa tại Hà Nội năm 1946. Ông là một trong số ít nhân vật Việt Nam được ghi tên vào Bộ từ điển Larousse với tư cách là một Nhà bách khoa toàn thư của thời hiện đại. Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2000.

Đào Duy Anh



Nguyễn

Bặc

Nguyễn Bặc (924- 980): Nguyễn Bặc là người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (Ninh Bình), con trai của Ngài Nguyễn Thước là bộ tướng của Dương Đình Nghệ (triều Nam Hán cho làm An Nam Tiết độ sứ từ năm 931 đến năm 937) và của Ngô Quyền (939-944). Thuở nhỏ, Ngài kết nghĩa huynh đệ với Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Điền, Trịnh Tú và Lưu Cơ. Do đó, khi nhà Ngô suy vong, Ngài cùng Đinh Điền, Trịnh Tú và Lưu Cơ, cùng hai người anh là Nguyễn Bồ và Nguyễn Phục, đều theo Đinh Bộ Lĩnh hùng cứ ở Hoa Lư. Năm 965, khi Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn tử trận, loạn 12 sứ quân nổi lên quấy phá, Ngài đã cùng các bộ tướng của Đinh Bộ Lĩnh đem quân đánh dẹp, lập nên nhiều công trạng. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua (Hoàng Đế Đinh Tiên Hoàng), Ngài được phong làm Định Quốc công, trông coi việc nội chính. Năm Đinh Dậu - 1917, Định Quốc công Nguyễn Bặc được vua Khải Định sắc phong là Hộ Quốc Tướng Công Trác Võ Thượng Đẳng Phúc Thần.

Nguyễn Bặc



Nguyễn

Bính

Nguyễn Bính (1918-1966): là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của Việt Nam. Thơ ông phần lớn là thơ tình, nhưng mang một sắc thái quê mùa, dân dã riêng biệt. Cùng với Xuân Diệu, ông được mệnh danh là “Vua thơ tình”. Ông là một trong các nhà thơ xuất sắc nhất của thi ca Việt Nam hiện đại và được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000

Nguyễn Bính



Lương Văn

Can 

Lương Văn Can (1854-1927): nhà nho yêu nước, người làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội, đỗ cử nhân không ra làm quan, là một trong nhóm sáng lập trường Đông Kinh Nghĩa Thục, hoạt động được chín tháng thì bị đóng cửa. Năm 1914, Pháp viện cớ kết án ông 10 năm biệt xứ sang Phnôm Pênh, đến 1921 đã phải thả.

Lương Văn Can



Đội

Cấn 

Trịnh Văn Cấn (?-1918): quê xã Vũ Di, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên (Vĩnh Phúc) làm đội lính khố xanh ở Thái Nguyên, được Lương Ngọc Quyến (bị giam ở đấy) giác ngộ, phát động khởi nghĩa Thái Nguyên đêm 30-8-1917; bị Pháp đàn áp rút quân vào rừng Vĩnh Yên, thế cùng lực tận, ông tự sát, không chịu để giặc bắt.

Đội Cấn



Trần Văn

Cẩn 

Trần Văn Cẩn (1910-1994): Trần Văn Cẩn, quê thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh, tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, tham gia tích cực các hoạt động hội họa phục vụ kháng chiến và giảng dạy; từng là Hiệu trưởng trường Mỹ thuật Việt Nam, Viện sĩ Nước ngoài Viện Hàn lâm Mỹ thuật Đức; để lại nhiều tác phẩm tiêu biểu: Em Thúy, Gội đầu, Xuống đồng …; Giải thưởng Hồ Chí Minh.

Trần Văn Cẩn



Huy

Cận

Huy Cận (1919-2005), quê ở Ân Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào thơ mới. Sau cách mạng tháng 8, ông là Uỷ viên Ban thanh tra đặc biệt của Chính phủ, đại biểu Quốc hội khoá I, II, III. Năm 2001, ông được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm thơ thế giới. Ngoài ra, ông còn là thứ trưởng Bộ Văn hoá, Bộ trưởng đặc trách Văn hoá thông tin. Ông được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về Văn học nghệ thuật và Huân chương Sao Vàng (2005)

Huy Cận



Nguyễn Đức

Cảnh

Nguyễn Đức Cảnh (1908-1932), quê ở Thái Bình, năm 1928 gia nhập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Ngày 28 - 7 - 1929, thành lập Tổng công hội đỏ Bắc kỳ. Ngày 3 - 02 - 1930 là đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuối 1930 được bầu vào Ban Thường vụ Xứ ủy Trung kỳ. Năm 1932 bị thực dân Pháp bắt xử chém. Nguyễn Đức Cảnh thuộc lớp những người cộng sản đầu tiên có nhiều cống hiến đối với sự ra đời của tổ chức công đoàn và sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nguyễn Đức Cảnh



Văn

Cao 

Văn Cao (1923-1995): quê gốc ở huyện Vụ Bản, Nam Định nhưng sống ở Hải Phòng, là nhạc sĩ, họa sĩ, nhà thơ nổi tiếng, tác giả Quốc ca Việt Nam. Ông sáng tác nhiều ca khúc cách mạng nổi tiếng như Tiến quân ca, Chiến sĩ Việt Nam, Hải quân Việt Nam, Không quân Việt Nam, Bắc Sơn, Làng tôi, Ngày mùa, Trường ca sông Lô, Tiến về Hà Nội, Mùa xuân đầu tiên …

Văn Cao



Nam

Cao 

Nam Cao (1914-1951): tên thật là Trần Hữu Tri, người làng Đại Hoàng, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam; nhà văn hiện thực Việt Nam. Làm văn, viết báo từ năm 1936, tham gia Văn hóa cứu quốc và gia nhập Việt Minh từ năm 1941; đi Nam tiến 1946 rồi lên chiến khu Việt Bắc làm báo. Hy sinh trên đường vào công tác ở vùng địch hậu khu III. Tác giả nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết nổi tiếng: Chí Phèo, Sống mòn, Đôi mắt, Chuyện biên giới…

Nam Cao





Chân

Lê Chân (? - 43), quê xã An Biên, huyện Đông Triều (Quảng Ninh).bà đã tới An Dương (Hải Phòng) khai phá miền bờ biển trở thành một trại ấp lớn là An Biên (nay là khu phố Lê Chân). Bà đã mang quân theo Hai Bà Trưng để hợp sức đánh Tô Định. Khởi nghĩa thành công, bà được phong là Thánh Chân Công chúa.

Lê Chân



Phan Bội

Châu

Phan Bội Châu (1867 -1940), quê xã Xuân Hòa, Nam Đàn, Nghệ An Năm 1900, ông đỗ thủ khoa giải Nguyên trường Nghệ. Năm 1904, ông thành lập hội Duy Tân chủ trương dùng vũ trang bạo động và nhờ ngoại viện để đánh đuổi giặc Pháp. Năm 1905, ông tổ chức cho 200 thanh niên yêu nước xuất dương sang Nhật học tập. Năm 1911, ông đã thành lập “Việt Nam quang phục hội”, mà tôn chỉ duy nhất là “đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam”. Hội cử người về nước hoạt động đã gây nên một số vụ bạo động vũ trang nhằm lay tỉnh hồn nước. Năm 1925, Phan Bội Châu bị giặc Pháp bắt cóc đem về nước, bị đưa ra tòa án đề binh Hà Nội xét xử. Nhân dân cả nước đã bùng nổ phong trào “bãi khóa, bãi công, bãi thị”. Thực dân Pháp buộc phải tha bổng, song chúng đem cụ về Huế an trí, sống trong cảnh “cá chậu, chim lồng”, ông vẫn vươn lên, hy vọng tiếp tục hoạt động yêu nước. Ngày 29/10/1940, ông mất tại nhà tranh ở dốc Bến Ngự - Huế.

Phan Bội Châu



Mạc Đĩnh

Chi 

Mạc Đĩnh Chi (1272-1346): danh thần nhà Trần, quê ở Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương; đỗ trạng nguyên đời Trần. Ông thông minh, tài trí từ nhỏ, làm quan thanh liêm qua ba đời vua Trần, hai lần đi sứ nhà Nguyên mà nhà vẫn thanh đạm, Nổi tiếng với bài phú Ngọc tỉnh liên ví mình như đóa sen trong giếng ngọc.

Mạc Đĩnh Chi



Nguyễn

Chích

Nguyễn Chích (1382–1448), ông là người thôn Mạc, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông là danh tướng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và là trọng thần giữ phần đất phía Nam của triều Lê sơ, được cho theo họ vua, nên cũng gọi là Lê Chích. Cuối đời Trần, quân Minh xâm chiếm nước ta, ông chiêu tập nghĩa quân hơn 1000 người, đắp lũy trong vùng động Hoàng Nghêu làm căn cứ kháng chiến. Sau ông giúp Lê Lợi, làm Nội thiếu úy, công trận rất nhiều, lại từng hiến nhiều kế sách rất hay, thu đạt thắng lợi. Ông cũng người đã có công tạo ra bước ngoặt lịch sử cho phong trào Lam Sơn vào cuối năm 1424 ông đã đưa ra ý kiến: Mở rộng địa bàn hoạt động xuống vùng đồng bằng để tìm đất đứng chân, hướng tấn công là Nghệ An). Cuối năm 1427, ông cùng Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả đánh tan quân Mộc Thạnh ở Lê Hoa.. Cho đến đời nhà Nguyễn, các triều vua vẫn tưởng niệm, liệt ông vào công thần khai quốc nhà Hậu Lê

Nguyễn Chích



Nguyễn Đình

Chiểu

Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), quê ở Phong Điền, Thừa Thiên - Huế; tục gọi là Đồ Chiểu, xuất thân trong gia đình nhà. Ông là nhà thơ lớn nhất của miền Nam Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ 19. Ông làm nghề dạy học, làm thuốc và đem ngòi bút yêu nước của mình ra phục vụ cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào Nam Kỳ suốt trong hơn 20 năm, dù đã mù lòa. Ông người thầy mẫu mực, là một nhà thơ yêu nước, đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị: Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc…

Nguyễn Đình Chiểu



Phó Đức

Chính 

Phó Đức Chính (1908-1930): người làng Đa Ngưu, huyện Vân Giang, tỉnh Hưng Yên; một trong những người cùng Nguyễn Thái Học lập Việt Nam Quốc dân đảng. Trong cuộc khởi nghĩa tháng 2/1930, ông trực tiếp chỉ huy đánh đồn Thông (Sơn Tây), nhưng không thành. Sau đó bị Pháp đưa ra tòa Đề hình, kết án tử hình. Ông bị xử chém cùng với thủ lĩnh Nguyễn Thái Học và 11 đồng chí tại Yên Bái ngày 17/6/1930.

Phó Đức Chính



Phan Huy

Chú 

Phan Huy Chú (1782-1840): nhà bách khoa, nhà văn hóa nổi tiếng; con Phan Huy Ích, quê gốc Hà Tĩnh, sinh ở làng Thày (Sài Gòn) huyện Yên Sơn (nay là Quốc Oai, tỉnh Hà Tây); chỉ đỗ sinh đồ, nhưng có thực tài, hay chữ, mở trường dạy học và soạn sách. Năm 1821 Minh Mạng bổ ông làm Biên tu Quốc sử giám; đi sứ nhà Thanh hai lần (1825-1831), Phủ thừa Phủ Thừa Thiên, Hiệp trấn Quảng Nam rồi bị cách chức bắt đi phục vụ đoàn thuyền sang Nam Dương quần đảo. Tác giả nhiều sách giá trị: Lịch triều hiến chương loạn chí, Hoàng Việt dư địa chí, Hoa thiều ngâm lục.

Phan Huy Chú



Võ Chí

Công


Võ Chí Công (1912-2000), quê ở xã Tam Xuân 1, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1935. Năm 1943, ông giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Nam. Từ 1945 - 1976 ông tham gia hoạt động cách mạng và giữ nhiều chức vụ quan trọng: Phó Ban tổ chức cán bộ và thanh tra Quân khu 5, Bí thư Khu uỷ khu 5, Phó bí thư Trung ương cục, Phó chủ tịch Uỷ ban Trung ương, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Từ 1987 - 1991, ông được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng. Năm 1992, ông được Nhà nước phong tặng Huân chương Sao Vàng.

Võ Chí Công



Lương Định

Của 

Lương Định Của (1918-1975): nhà nông học Viẹt Nam hiện đại. Ông sinh ở Sóc Trăng, Nam Bộ, tốt nghiệp trường Đại học Tổng hợp Kyoto và Kiusiu, trở thành tiến sĩ thứ 96 của Nhật Bản. Năm 1954, ông về Sài Gòn, làm ở Viện Nghiên cứu canh nông, rồi ra chiến khu tập kết ra Bắc. Cả cuộc đời ông cống hiến cho sự nghiệp lai tạo các loại giống cây trồng, đặt nền móng cho nền khoa học nông nghiệp Việt Nam, làm Viện trưởng Viện cây lương thực và thực phẩm, được phong Anh hùng lao động.

Lương Định Của



Hồ Đắc

Di 

Hồ Đắc Di (1900-1984): bác sĩ, trí thức yêu nước người Huế. Trước cách mạng tháng Tám, ông làm hiệu trưởng trường Y kiêm Giám đốc Bệnh viện Đồn Thủy. Kháng chiến, ông theo Chính phủ Cụ Hồ, cùng giáo sư Tôn Thất Tùng lập trường Đại học Y của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ở chiến khu, đào tạo cho toàn quốc nhiều cán bộ y tế giỏi. Ông là đại biểu Quốc hội nhiều khóa và 38 năm làm Hiệu trưởng trường Đại học Y khoa. Truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh.

Hồ Đắc Di



Đoàn Thị

Điểm 

Đoàn Thị Điểm (1705-1748): Hiệu “Hồng Hà nữ sĩ”, quê ở xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, Hưng Yên. Từ nhỏ đã hay chữ, từng lên Thăng Long dạy cung nữ trong phủ Chúa. Bà lấy ông Nguyễn Kiều, tiến sĩ người làng Phú Xá (nay thuộc phường Phú Thượng, quận Tây Hồ). Bà là tác giả Truyền kỳ tân phả và dịch giả Chinh phụ ngâm.

Đoàn Thị Điểm



Xuân

Diệu

tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu (1916-1985), quê huyện Can Lộc, Hà Tĩnh; tham gia phong trào Việt Minh, Hội Văn hóa Cứu quốc; từng giữ các chức vụ: Ủy viên Thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn nghệ Dân gian; năm 1983 được bầu là Viện sĩ Thông tấn Viện Hàn lâm Nghệ thuật Cộng hòa Dân chủ Đức; là nhà thơ, nhà văn hóa, nhà lý luận, phê bình văn học cổ điển Việt Nam nổi tiếng. Xuân Diệu được xem là cây bút tiêu biểu cho thơ ca hiện đại Việt Nam, nhà bình luận văn học xuất sắc. Ông đã xuất bản hàng chục tác phẩm thơ, thơ dịch, nghiên cứu, phê bình văn học; trong đó có những công trình nghiên cứu có giá trị đặc biệt về các nhà thơ cổ điển Việt Nam như: Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương… Ông được trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật và nhiều giải thưởng cao quý khác.

Xuân Diệu



Hoàng

Diệu 

(1832-1882): quê ở Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, đỗ Phó bảng, giữ chức Tổng đốc Hà - Ninh (Hà Nội - Ninh Bình) Pháp đánh thành Hà Nội (25-4-1882), Hoàng Diệu chỉ huy cuộc chiến đấu tới cùng. Thấy không đủ sức chiến đấu, ông thắt cổ tuẫn tiết trên cây táo cạnh Võ Miếu. Tượng đồng của ông và Nguyễn Tri Phương được đặt tại Cửa Bắc thành Hà Nội để ghi nhớ hai ông đã hy sinh chống Pháp đánh thành.

Hoàng Diệu



Nguyễn Thị

Định

Nguyễn Thị Định (1920-1992), quê ở xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Bà được Tỉnh ủy chọn làm thuyền trưởng chuyến ra Bắc báo cáo và xin vũ khí chi viện. Bà từng làm việc ở Bộ Tư lệnh miền Nam (1961-1964), giữ chức Phó Tổng Tư lệnh quân giải phóng miền Nam đến năm (1965-1975). Năm 1974, Bà được phong quân hàm Thiếu tướng. Bà được Nhà nước truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Nguyễn Thị Định



Trương

Định 

Trương Định (1820-1864) quê ở Gò Công, Tiền Giang, là võ quan nhà Nguyễn, và là thủ lĩnh chống Pháp giai đoạn 1859-1864 ở Nam Bộ. Năm 1859, quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định, ông đánh thắng Pháp nhiều trận như chiến thắng Cây Mai, Thị Nghè... Đầu năm 1861, Pháp tấn công Gia Định lần thứ hai, Trương Định đem quân phối hợp với quân của tướng Nguyễn Tri Phương phòng giữ chiến tuyến Chí Hòa. Khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ, ông lui về Gò Công, trấn giữ vùng Gia Định - Định Tường. Ở đây, Trương Định tổ chức lại lực lượng, bố phòng trấn giữ các vùng Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Chợ Lớn, Sài Gòn, Đồng Tháp Mười và kéo dài đến tận biên giới Campuchia.

Trương Định 



Trần Hưng



Đạo


Trần Hưng Đạo (1232-1300), quê ở Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, còn gọi là Trần Quốc Tuấn hương Tức-mặc, phủ Thiên- trường, được phong ấp ở hương Vạn-kiếp, thuộc huyện Chí Linh, châu Nam sách, lộ Lạng-giang.Ông có học vấn rất uyên bác, vừa giỏi văn chương vừa hiểu thấu lục thao tam lược, cưỡi ngựa, bắn cung đều thành thạo. Năm 1257, quân Nguyên sang xâm lược nước ta lần đầu, ông được cử cầm quân giữ biên thuỳ phía Bắc. Ba chục năm sau, trong hai cuộc kháng chiến chông Nguyên Mông lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1287 -88), ông lại được đè bạt làm tiết chế thông lĩnh toàn quân và đã giành thắng lợi lẫy lừng.Trần Hưng Đạo đã biết đề ra một đường lối quân sự ưu việt, có tính chất nhân dân, mà tiêu biểu là hai cuộc rut lui chiến lược khỏi Kinh thành Thăng-long, những trận phục kích lừng danh như trận Bạch-đằng đã làm cho tên tuổi của ông sống mãi. Ngay đến kẻ thù cũng phải nhắc đến mấy chữ Hưng đạo vương với niềm kính trọng. Bên cạnh tư tưởng quân sự kiệt xuất, ông còn có nhiều tác phẩm như Binh gia diệu lý yếu lược (còn gọi là binh thư yếu lược) và Vạn-kiếp tông bí truyền thư, nhưng văn bản nay đều đã gần như thất lạc. Tác phẩm thứ ba duy nhất còn giữ được của ông là bài Dụ chư tỳ tướng hịch văn, vẫn quen gọi là Hịch tướng sĩ. Bài hịch chứng tỏ tài năng văn chương trác luyện và nhiệt tình yêu nước cháy bỏng của ông.


Trần Hưng Đạo




Nguyễn Đăng

Đạo

Nguyễn Đăng Đạo(1651 - 1719) quê xã Liên Bảo, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, ông được mệnh danh là lưỡng quốc trạng nguyên thứ 3 trong lịch sử khoa cử Việt Nam được cả Việt Nam và Trung Quốc công nhận, ông có tài đối ứng và có nhiều công lao trong việc xây dựng đất nước và giữ gìn ổn định trên biên giới với các nước láng giềng

Nguyễn Đăng Đạo



Trần Thủ

Độ 

Trần Thủ Độ (1194-1264): Trần Thủ Độ, quê huyện Hưng Hà, Thái Bình; lập nên triều Trần bằng cách buộc Lí Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, trở thành nhân vật trụ cột của triều đình, có công lớn trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất với câu nói “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”; được truy tặng Thượng phụ Thái sư Trung vũ Đại vương.

Trần Thủ Độ



Lê Quý


Đôn

Lê Quý Đôn sinh ngày 5/7/1726 tại thôn Phú Hiếu, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình mất ngày 14/4/1784. Ông là con tiến sĩ Lê Phú Thứ,. Nổi tiếng thần đồng, ông có trí nhớ lạ lùng, tài ứng đối mau lẹ, 14 tuổi đã học được hầu hết các bộ sách của Nho học, sau đó đỗ đầu các kỳ thi Hội và thi Đình. Khi mất ông được truy phong là thượng thư Bộ công. Suốt đời, ôm ấp hoài bão lớn. Về chính trị, ông Lê Qúy Đôn thi hành những cải cách, thiết định lại pháp chế, chăm lo đời sống kinh tế, làm cho dân giầu - nước mạnh, xã hội đạt đến mức thái bình - thịnh  trị. Về văn hoá và văn học, Lê Qúy Đôn được đọc sách và chuyên tâm viết sách. Tài năng, đức độ, trí tuệ, phong cách của Lê Quý Đôn xứng danh là nhà Bác học lớn của Việt Nam. Nhưng cuộc đời Lê Quý Đôn, chưa bao giờ được chính quyền Lê - Trịnh tạo đủ điều kiện để ông thi thố tài năng về chính trị.

Lê Quý Đôn đã để lại khối lượng tác phẩm đồ sộ, bao quát hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế chính trị, văn hoá, địa lý, nông học... Ở lĩnh vực nào, Lê Quý Đôn cũng nêu cao tinh thần độc lập, sáng tạo và ý thức tự tôn - tự cường dân tộc.



Lê Quý Đôn


tải về 1.01 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương