Viettudan tài liệu/28. 07. 11: DỨt bỏ csvn đỂ phát triểN



tải về 0.94 Mb.
trang6/11
Chuyển đổi dữ liệu28.07.2016
Kích0.94 Mb.
#8595
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11

=> Đối với nhân lực:
* Thiếu yếu tố kích thích làm việc. Trong những Công ty Nhà Nước, nhân lực làm việc không có sự tự động cố gắng, mà làm theo lệnh, theo kiểm soát. Từ đó nhân lực dễ đi đến tình trạng lẻn lút hối lộ để tránh né công việc. Trong những chế độ độc tài chỉ huy Kinh tế, thay vì lợi nhuận là yếu tố kích thích, Nhà Nước thường áp dụng những bằng Khen Thưởng. Nhưng đây không phải là yếu tố kích thích thực tiễn cho những nhân công cần tiền bạc để sống. Hệ thống Kinh tế tư nhân Tự do/Thị trường lấy tiền bạc để kích thích thì thực tế hơn. Một người chơi Thể thao như Tennis chẳng hạn. Khi họ thắng thì muốn lãnh bao nhiêu tiền cho riêng họ, chứ không cần chỉ với tấm bằng Khen Thưởng suông.
* Trong trường hợp thiếu trách nhiện thi hành công việc, chế độ Công ty quốc doanh xử dụng khiển trách, phạt kỷ luật, nhưng chế độ tư doanh xử dụng đơn giản là đuổi việc để chế tài. Đuổi việc cũng là xử dụng trừng phạt bằng đồng tiền mà nhân công đang muốn có.
* Ở những Công ty Nhà Nước, nhất là trong chế độ độc tài, nhân lực làm việc theo chỉ thị vì ngại sợ kỷ luật trừng phạt nếu sáng kiến cá nhân có những va chạm với cấp trên trong tổ chức. Trong hệ thống Kinh tế tư nhân Tự do/Thị trường, nhân lực được khuyến khích có những sáng kiến cá nhân để kiện toàn công việc cho mau chóng. Đây là phương diện làm cho Năng suất nhân lực mỗi ngày mỗi tăng.
=> Đối với Vốn xử dựng:
Chúng tôi xin nhắc lại câu nói trong Kinh tế tư nhân Tự do/Thị trường:“Kiếm tiền đã khó, mà tiêu tiền còn khó hơn“ (Gagner de l’argent est difficile, mais le Dépenser est encore plus difficile). Việc chi tiêu tiền khó hơn vì trong việc chi tiêu đã phải tính toán căn cơ để một đồng tiền tiêu ra, phải kiếm vào lợi nhuận cao hơn., nghĩa là việc tiêu tiền đã hàm ngụ việc kiếm tiền rồi theo tinh thần Kinh tế Tự do/Thị trường. Tiêu tiền theo Kinh tế không phải là quảng tiền qua cửa sổ. Mọi người đều thích tiêu tiền của người khác. Đối với một Công ty tư doanh, Vốn là tư hữu của Công ty, vì vậy mà việc xử dụng phải chắt bóp căn cơ, nhất là phải ước tính lợi nhuận thu vào, trong khi ấy, đối với một Công ty Nhà Nước, Vốn là do Nhà Nước cung cấp, nên dễ chi tiêu như tiền chùa. Nhiều trường hợp, các người trách nhiệm Công ty quốc doanh còn tìm đủ mọi lý do không thuộc lãnh vực làm ăn kinh tế để tiêu tiền chùa từ Nhà Nước. Đây là tình trạng Lãng phí mà mọi người đều công nhận tại những Tập đoàn Kinh tế Nhà Nước Việt Nam.
Chi tiêu không căn cơ, hoang phí làm cho Năng suất xử dụng vốn thấp kém.

Năng suất theo lợi nhuận kinh tế
Ở phần trên, chúng tôi phân tích Năng suất tách rời ra từng phương tiện sản xuất được xử dụng trong chính nội bộ của Công ty. Trong phần này, chúng tôi phân tích Năng suất theo Lợi nhuận, nghĩa là tổng số Chi cho mọi phương tiện sản xuất phải được so sánh với tổng số Thu tại Thị trường trao đổi hàng hóa với bên ngoài để từ đó dành ra phần Lợi nhuận hay thua Lỗ.

Mức Lợi nhuận (hay thua Lỗ ) được tóm trong công thức định nghĩa Kế toán như sau:


MB = CAN - CT
MB : Mức độ Lợi nhuận thô

CAN = Q x Pv : Tổng số Thu thô từ lượng hàng bán nhân với giá bán ở Thị trường

CT = Q x Cm : Tổng số Chi nhân với lượng hàng sản xuất và bán được.
Mục đích tối hâu của Công ty là tối đa hóa Mức độ Lợi nhuận (Maximiser la Marge Bénéficiaire MB). Muốn cho MB càng rộng, thì phải quản trị hai phía cùng một lúc: (i) một mặt tìm Thị trường có giá bán cao để bán hàng hóa; (ii) mặt khác phải giảm thiểu tối đa Chi tiêu (Minimiser le Cout total CT). Ở một Thị trường tự do cạnh tranh, giá bán thường cố định do sự cạnh tranh, rất khó quản trị dù bằng những chiến thuật Marketing tinh xảo. Chính vì vậy mà việc quản trị Chi tiêu (Gestion des Charges) trở thành quan trọng cho các Công ty. Ơû cùng một Thị trường Tiêu thụ, nhưng Mức độ Lợi nhuận của các Công ty khác nhau là do sự quản trị Chi tiêu khác nhau của từng Công ty. Chú thích liền ở đây rằng những Tập đoàn Kinh tế liên quốc (Multinationales) đến làm việc ở Việt Nam hay Trung quốc là áp dụng việc quản trị Chi tiêu, lợi dụng nhân công rẻ mạt ở những nước này với sự độc đoán bắt ép nhân công từ Chính quyền độc tài để có hàng hóa rẻ đem bán ở những Thị trường với giá bán cao như Hoa kỳ và Liên Aâu.

MB

-------------------- : Năng suất xử dụng vốn Chi cho cả nhân lực và những phương tiện khác



CT x thời gian

Như phần trên, chúng tôi đã trình bầy rằng Năng suất xử dụng nhân lực và Năng suất xử dụng Vốn cho những phương tiện khác tại những Công ty Nhà Nước đều yếu kém, thì câu kết luận rất rõ rệt là Năng suất Lợi nhuận đối với Chi tiêu tổng quát tất nhiên yếu kém tại những Công ty Nhà Nước sánh với những Công ty tư doanh Tự do/Thị trường.


Để kết luận tổng quát theo Chủ đề, PHẢI DỨT BỎ CHỨ KHÔNG CHỈ CẢI CÁCH CƠ CHẾ HIỆN HÀNH. Cơ chế hiện hành là việc chủ trương độc tài Chính trị nắm chặt ấy độc quyền Kinh tế cho đảng CSVN thông qua những Tập đoàn Kinh tế Nhà Nước. Đòi hỏi dứt bỏ CƠ CHẾ HIỆN HÀNH là một đòi hỏi thuần túy Kinh tế nhằm tăng mọi Năng suất trong việc phát triển Kinh tế Quốc gia vững chắc và lâu dài vậy.

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

Bài 07:
TẤT CẢ MỌI CAN THIỆP NHÀ NƯỚC

LÀM PHÁT SINH

ĐẦU CƠ, CHỢ ĐEN VÀ CHI PHÍ TỐN KÉM
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

Web: http://vietTUDAN.net/11604/index.html

23.10.2008

Trong ít tuần nay, nhân cuộc khủng hoảng Tài chánh, các Chính quyền bỏ vốn ra để cứu vớt Lãnh vực Ngân Hàng/Tài chánh. Có hai khuynh hướng thuộc giới Chính trị khi Nhà Nước bỏ ra những số tiền khổng lồ:


1) Chính trị khuynh hướng xã hội thì muốn sự can thiệp trực tiếp và lâu dài của Nhà Nước vào Lãnh vực Ngân Hàng/ Tài chánh.
2) Chính trị khuynh hướng tự do thì muốn những Chương trình cứu vớt chỉ là trợ lực giai đoạn cho Lãnh vực Ngân Hàng/ Tài chánh trong lúc ốm bệnh, rồi sau đó Nhà Nước rút về vị trí của mình.
Dù là với khuynh hướng xã hội đi nữa, thì quyền lực của Nhà Nước cũng chỉ hạn định ở món tiền của mình bỏ vào, nghĩa là những quyền quyết định Tài chánh/ Kinh tế vẫn được đo lường bằng sức mạnh đồng vốn bỏ vào. Điều này khác với những quyết định hoàn toàn có tính cách Chính trị ở Việt Nam với thể chế độc tài độc đảng.

Can thiệp nắm mạch máu

Kinh tế sản xuất tại Việt Nam
Trong hai ngày 17-18.10.2008, tại cuộc Hội thảo được tổ chức tại Đại học PRINCETON Hoa kỳ, vấn đề Tài chánh và Ngân Hàng tại Việt Nam trở thành đề tài chính. Diễn giả chính của buổi hội thảo, tiến sĩ Nguyễn Hồng Sơn, Phó Hiệu Trưởng Trường Đại Học Kinh Tế, thuộc Đại Học Quốc Gia Hà Nội, nhận định, rằng “thị trường tài chánh Việt Nam đặt nền tảng trên hệ thống ngân hàng,” phát triển nhanh, nhưng phần vốn Nhà Nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn.
Ông nói: “Hệ thống ngân hàng Việt Nam cung cấp hơn 20% vốn cho toàn bộ lượng đầu tư xã hội trong nền kinh tế Việt Nam. Số lượng ngân hàng hoạt động tăng rất nhanh, từ 9 đơn vị trong năm 1991, tăng lên đến con số 80 trong năm 2008.”
Mặc dầu phát triển nhanh, tính chất của hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn mang tính quốc doanh, vì tỷ lệ ngân hàng có vốn nhà nước hoặc do nhà nước làm chủ, vẫn chiếm đa số.
Cho đến nay, mặc dầu Nhà Nước Việt Nam chỉ làm chủ 6 ngân hàng, nhưng số vốn thuộc Nhà Nước trong toàn bộ hệ thống lại chiếm đến hơn 67%.
Nếu tính trong khu vực ngân hàng cổ phần, thì phần lớn trong số 34 ngân hàng loại này đều do Nhà Nước thành lập hoặc cung cấp vốn.
Tham gia đóng góp ý kiến tại buổi hội thảo, tiến sĩ Regina M. Abrami, giáo sư môn Khoa Học Chính Trị, Khoa Quản Trị Kinh Doanh thuộc đại học Harvard, nói rằng vai trò của Nhà Nước trong thị trường VN không được phân định rõ ràng.
Câu hỏi đặt ra, là Nhà Nước đóng vai trò giám sát hay vai trò cổ đông góp vốn? Từ câu hỏi này, người ta đặt lại vấn đề của tính minh bạch. Ví dụ cụ thể là Tổng Công Ty Đầu Tư Vốn Nhà Nước, SCIC. Trong khi SCIC có nhiệm vụ mua lại càng nhiều càng tốt các công ty quốc doanh, thì trong một nghĩa nào đó, Tổng Công Ty này đóng cả hai vai trò, vừa là người giám sát, vừa là người góp vốn.
Hiện nay, SCIC có trong danh mục của mình hơn 900 công ty con, thuộc Nhà Nước, và khoảng 200 tỷ đồng tài sản.
Giáo sư Abrami, một chuyên gia về Việt Nam và Trung Quốc, nhận xét, rằng: “Trong khi Việt Nam thúc đẩy tính minh bạch cùng quá trình giám sát các cơ chế tài chánh, thì Nhà Nước đã thực hiện nhiều cách thức làm phát sinh sự phức tạp.”
Theo thông tin mà tiến sĩ Nguyễn Hồng Sơn cho biết, thì hệ thống ngân hàng, vai trò “cột sống” của thị trường tài chánh Việt Nam, “phát triển nhanh” trong “môi trường thiếu tính cạnh tranh.”
Tổng quát những nhận định này cho thấy rằng Kinh tế VN định hướng XHCN có thể nói là nằm trong tay Nhà Nước. Mà Nhà Nước ở đây là đảng CSVN độc tài. Hệ thống Ngân Hàng/Tài chánh, mạch máu của Kinh tế có thể gọi là hệ thống Ngân Hàng/Tài chánh Mafia nhóm đảng, liên hệ gia đình của những người nắm quyền đảng. Tỉ dụ con gái của Nguyễn Tấn Dũng nắm một số vốn đầu tư khá lớn do Nhà Nước cung cấp.
Theo phân tích của Bà Frnacoise NICOLAS về cuộc Khủng hoảng Tài chánh Á châu năm 1997, thì một hệ thống Ngân Hàng/ Tài chánh như vậy là nguồn của Khủng hoảng.

Can thiệp trực tiếp Nhà Nước

Vào Xuất Nhập cảng
Những Tổng Công ty Nhà Nước giữ những độc quyền Xuất Nhập cảng hoặc giữ những Quotas ưu đãi về những hàng hóa tiêu thụ lớn. Tình trạng này phát sinh ra việc nhường bán Quotas từ những Tổng Công ty Nhà Nước có đặc quyền. Đây là lý do làm mất sự sinh động và hiệu lực thương mại của Thị trường. Hã lấy hai tỉ dụ: Xuất cảng Gạo và Nhập cảng Dầu Lửa mà Dân chúng Việt Nam đang bị thiệt thòi hiện nay.
Những Tổng Công ty Nhà Nước có những đặc quyền lấy Gạo xuất cảng. Chúng tôi đã có dịp nói chuyện với Tổng Công ty TIGIFOOD Tiền Giang và được biết rằng Nhà Nước không có những Quỹ điều hợp Lúa Gạo tương xứng cho Nông dân, thiếu điều kiện Silo dự trữ khiến cho Thị trường dễ bị ếm giá cho đầu cơ. Hiện nay, nông dân được mùa, nhưng vấn đề là không bán được.
Ngày 19.10.2008, TS LÊ VĂN BẢNH - viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL tóm tắt tình hình ứ đọng lúa gạo như sau: “Lúa gạo đang tồn đọng trong thời gian dài và chưa biết khi nào giải phóng hết đang làm hàng triệu nông dân ĐBSCL điêu đứng. Trong chuyện này ngoài "lỗi" của giống lúa IR 50404 còn có trách nhiệm của DN xuất khẩu lúa gạo, của Nhà nước và cả người nông dân trồng lúa.“

Chúng tôi đã có dịp quan sát Thị trường tiêu thụ gạo ở Phi châu như Brazaville, Bénin, Lagos và thấy vắng bóng Gạo của Việt Nam, mặc dầu những xứ này chuộng ăn gạo của Việt Nam với 25% broken vì giá hạ thuộc tầm mua của họ.


Việc Nhập Cảng Dầu Lửa cũng nằm trong tay Nhà Nước. Hiện nay Giá Dầu Thế giới xuống mạnh, nhưng Nhà Nước độc quyền cũng không điều chỉnh giá xuống cho Dân.
Tóm lại khi Nhà Nước nắm độc quyền hay giữ Quotas, thì vấn đề Xuất Nhập cảng không có cạnh tranh và lưu hành sinh động.

Can thiệp trực tiếp Nhà Nước

Về Giá cả Thị trường tiêu thụ hàng ngày
Khuynh hướng của một Nhà Nước Xã hội dễ can thiệp trực tiếp vào giá cả tiêu thụ hàng ngay của Thị trường nhân danh bào vệ người nghèo. Nhà Nước dễ ấn định Giá trần và Giá sàn cho hàng hóa, nhất là những hàng hóa tiêu thụ đại chúng.
=> Đinh Giá trần (Prix plafond)
Khi giá một nhu yếu phẩm có đà tăng lên, nghĩa là phía Cầu tăng lên hơn phía Cung, Nhà Nước can thiệp trực tiếp vào Thị trường bằng cách định một Giá trần, nghĩa là giá bán không được tăng lên trên Giá trần đã do Nhà Nước ấn định. Nhà Nước lấy lý do là mình phải bênh đỡ cho người nghèo. Hâu quả của việc can thiệp này ra sao ?
* Chính Nhà Nước đã tạo ra một tình trạng Cầu luôn luôn lớn hơn Cung và nhữ vậy trên Thị trường tiêu thụ, giá cả luôn luôn ở trong tình trạng phải cao hơn Giá trần.
* Tình trạng này khiến cho con buôn tìm cách đầu cơ làm cho Cung càng khan hiếm hơn để họ bán chợ đen với giá cao hơn nữa.
* Để có thể kiểm soát được đầu cơ và bán chợ đen của con buôn, Nhà Nước buộc lòng phải chi tiêu tốn kém cho hệ thống kiểm soát. Việc chi tiêu tốn kém xã hội này lại lấy từ tiền thuế của Dân. Nếu con cháu đảng làm đầu cơ, thì ai dám kiểm soát.
Như vậy vấn đề đặt ra là việc Nhà Nước định Giá trần có ích lợi cho Dân không hay lại làm cho Dân vẩn sống trong tình trạng tăng giá do đầu cơ và chợ đen, rồi phải đóng thuế chi tiêu xã hội cho hệ thống kiểm soát.
Trong thời YELSIN tại Nga, vì giữ Giá trần mà Moscou khan hiếm thịt, dân chúng nối đuôi đợi hàng dài trước cửa tiệm. YELSIN đã quyết định thả lòng giá. Giá thịt lên vọt, nhưng dần dần lại xuống và còn xuống thấp hơn Giá trần (Prix plafond) mà Nhà Nước đã định trước đây vì lượng Cung tràn vào Thị trường.
=> Giá sàn (Prix plancher)
Đây là trường hợp giá cả của mặt hàng tụt xuống vì lý do ếm giá của phía mua chẳng hạn. Nhà Nước can thiệp vào để định giá sàn, nghĩa là không cho giá xuống thấp hơn với mục đích trợ lực cho phía Cung, nghĩa là cho phía sản xuất tiếp tục hoạt động. Nếu giá tiếp tục mang khuynh hướng xuống và để bảo vệ phía sản xuất Cung, Nhà Nước lại cũng phải lấy tiền thuế của Dân để bù trừ cho những thua lỗ của những Công ty sản xuất. Nếu đây là những Công ty quốc doanh, thì Nhà Nước phải trường kỳ hỗ trợ (Subventions) để những Công ty này khỏi chết.
Trong cả hai trường hợp Giá trần và Giá sàn, chính người Dân đóng thuế phải chịu cho những Chi tiêu xã hội. Vì vậy, không thể nói được rằng việc can thiệp trực tiếp của Nhà Nước là để bênh đỡ cho người nghèo.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

Phụ Bản 04:
KHỦNG HOẢNG KINH TẾ KHẨN TRƯƠNG

TẠI TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM (Phần I)
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

Web: http://vietTUDAN.net/11604/index.html

30.10.2008

Vì tính cách khẩn trương của Khủng hoảng Kinh tế tại Trung quốc và Việt Nam, hậu quả của Khủng hoảng Tài chánh Thế giới, nên chúng tôi viết Phụ Bản này cho hợp thời. Nội dung của Phụ Bản này đã được tóm tắt phát thanh về Việt Nam qua RFI (Radio France Internationale) cuối tuần vừa rồi.


Mục đích của chúng tôi khi viết về cuộc Khủng hoảng Tài chánh 1997 của Á châu và nhất là theo rõi cuộc Khủng hoảng Tài chánh hiện nay của Thế giới là để: (i) phân tích tình trạng bấp bênh phát triển Kinh tế tại Việt Nam theo mẫu Trung quốc; (ii) xem hậu quả của của cuộc Khủng hoảng Tài chánh Thế giới hiện nay 2007/08 lên hai nước Cộng sản này như thế nào.

Bối cảnh hệ thống Ngân Hàng

Tại Trung quốc và Việt Nam
Vào những năm 1997, những nước bắt đầu phát triển tại Á châu có một hệ thống Ngân Hàng luộm thuộm, quyết định tài chánh mang tính gia đình hay quyền lực Chính trị. Khi Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF/FMI) lập Plan Bailout cho những nước bị Khung hoảng 1997, IMF đòi buộc những nước này trước tiên là phải chỉnh đốn lại hệ thống Ngân Hàng, đặt Cơ quan kiểm soát độc lập đối với các Ngân Hàng.
Đối với Trung quốc và Việt Nam ngày nay, trong lúc hai nước này ca ngợi độ phát triển Kinh tế cao của họ, thì người ta cũng quan sát thấy tính cách luộm thuộm của hệ thống Ngân Hàng hai nước và những quyết định Tín dụng Ngân Hàng bị ảnh hưởng trầm trọng bởi liên hệ gia đình, phe nhóm băng đảng chính trị.
Tại Trung quốc, Oâng TSANG SHU-KI, Giáo sư Đại học tại Hong Kong, nói về tầm ảnh hưởng của Khủng hoảng Tài chánh cho chính Trung quốc: “... un système bancaire national perchus de mauvais crédits... “(LE MONDE, No.19813, Mercredi 08.10.2008, page 15). (... một hệ thống Ngân Hàng quốc gia có đầy những tín dụng xấu...”. (Trích LE MONDE, số 19813, Thứ Tư ngày 08.10.2008, trang 15).
Tại Việt Nam, chính Nguyễn Tấn Dũng đã phải than lên rằng có những Ngân Hàng đã lấy vốn ngắn hạn để đầu tư cho những dụ án dài hạn.

Ký giả Gia Huy đã viết đãng trong VietNamNet ngày 09.10.2008 như sau:”Bức tranh kinh tế xã hội 2008 có nhiều biến động đã bộc lộ thực tại đời sống ngân hàng từ quản lý vĩ mô đến việc quản trị điều hành, việc thực thi chiến lược quản lý tiền tệ cũng như các kế hoạch kinh doanh và hàng loạt các vấn đề liên quan khác. Chính sách tiền tệ quốc gia và kinh doanh tài chính ngân hàng còn nhiều bất cập. Khi có biến cố thị trường tất cả đều bị động chạy theo. Công cụ và kiểm soát quản trị rủi ro có không ít vấn đề.”


Cái bối cảnh của hệ thống Ngân Hàng tại Việt Nam và Trung quốc cũng có những điểm giống năm 1997 tại những quốc gia bị Khủng hoảng Tài chánh trong vùng như Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương và Nam Hàn mà chính IMF/FMI đòi đỏi phãi cải tổ như một điều kiện được hưởng Plan Bailout của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế.
Một bối cảnh của hệ thống Ngân Hàng/ Tài chánh như vậy tự nó là nguồn Khủng hoảng cho Tài chánh/ Kinh tế cho một nước theo như phân tích của Bà Francoise NICOLAS về cuộc Khủng hoảng Á châu năm 1997.
Và trước cuộc Khủng hoảng Thế giới hiện nay về Ngân Hàng/Tái chánh, hai nước Trung quốc, Việt Nam, với bối cảnh Ngân Hàng/Tài chánh luộm thuộm lúc này, không thể chống đỡ lại tầm ảnh hưởng Tài chánh đang diễn ra trên Thế giới.
Chúng tôi nhìn tầm ảnh hưởng Tài chánh Thế giới dưới ba góc cạnh: (i) về Vốn nước ngoài; (ii) về Giảm sút độ tăng trưởng Kinh tế; (iii) về Xáo trộn xã hội ảnh hưởng lên Chính trị.
Với hạn hẹp của bài viết và với những dữ kiện chưa dồi dào ở bước đầu của tầm ảnh hưởng, chúng tôi chỉ phác họa tổng quát hướng đi của tầm ảnh hưởng. Chúng tôi sẽ viết tiếp tục để khai triển thêm theo với thời gian và theo những dữ kiện từ từ thu lượm.

Aûnh hưởng trực tiếp

Khủng hoảng Tài chánh Thế Giới 2007/08

Lên Trung Cộng và Việt Nam về Vốn nước ngoài
Trung Cộng và Việt Nam chủ trương Chính trị độc tài độc đảng và chế độ Chính trị ấy nắm độc quyền Kinh tế. Ở hai nước, Lao động bị kềm chế ở mức lương thấp. Nhiều những bài báo cáo Quốc tế đã viết về Lao động tại hai nước như một sự khai thác Nhân lực bất chấp Nhân quyền. Tại Trung quốc, nhân công từ những vùng nghèo khổ nội địa kéo về các tỉnh công nghệ ven biển và làm việc cực nhọc như những đàn súc vật. Tại Việt Nam, đồng quê bị bỏ rơi, nông dân về những khu chế xuất công nghệ làm việc trong những điều kiện tồi tệ.
Các Công ty Liên quốc nước ngoài (Le Multinationales Etrangeres), trong chủ trương quản trị Chi tiêu cho xí nghiệp (Gestion des Charges de l’Entreprise) đã tìm đến hai nước này để khai thác nhân công rẻ với sự đồng ý và phụ lực khai thác của một chính thể độc tài độc đảng khóa miệng nhân công.
Vốn nước ngoài đổ vào hai nước này để mở xưởng chế xuất hàng hóa không phải là Vốn Đầu tư lâu dài cho hai nước, mà là Vốn ngắn hạn khai thác nhân lực nhằm sản xuất hàng hóa rẻ mạt xuất khẩu sang những nước đã Kỹ nghệ hóa để bán với giá cao.
Với cuộc Khủng hoảng Tài chánh Thế giới hiện nay, hệ thống Ngân Hàng/Tài chánh tại những nước đã Kỷ nghệ hóa như Mỹ và Liên Aâu rơi vào tình trạng thiếu Vốn. Trong tình trạng này, họ có thể cắt xuống hoạc rút Vốn ra từ Trung quốc cũng như từ Việt Nam. Có những Dự án đã ký kết, nhưng có thể không được giải ngân vì tình trạng thiếu Vốn.
Oâng TSANG SHU-KI, Giáo sư Đại học tại Hong Kong, nói về tầm ảnh hưởng của Khủng hoảng Tài chánh cho vấn đề Vốn ở Trung quốc: “Les investissements étrangers qui se sont déversés sur la Chine depuis son accession à OMC, avaient contribue à solvabiliser un système bancaire national perchus de mauvais crédits... Aujourd’hui, l’accouplement de la Chine à un système financier international piloté par les Etats-Unis est lourd de conséquence...”. (LE MONDE, No.19813, Mercredi 08.10.2008, page 15). (Những đầu tư nước ngoài đã đổ vào Trung quốc từ khi nước này vào WTO, và đã giải quyết việc xoay sở vốn cho một hệ thống Ngân Hàng quốc gia có đầy những tín dụng xấu...Ngày nay, sự lệ thuộc cấu kết của Trung quốc vào hệ thống tài chánh quốc tế dẫn đầu bởi Hoa kỳ mang hậu quả nặng nề...”. (Trích LE MONDE, số 19813, Thứ Tư ngày 08.10.2008, trang 15)
Oâng Jonathan MANTHORPE, Vancouver Sun 13/10/08, đã nhận xét: “Nhưng các vấn đề của các quốc gia đang phát triển còn tuỳ thuộc vào sự phát triển đầu tư và các thị trường trong quỹ đạo kinh tế toàn cầu chuyển động chung quanh Hoa Ky.“
Trong THE WALL STREET JOURNAL Europe, ngày 15.10.2008, dưới đầu đề CHINA DRAWS LESS CAPITAL, Ký giả Andrew BATSON đã viết: ”Capital flows into China have slowed sharply and even reversed in recent months, according to official data that show how the financial crisis has disheartened investors and disrupted banks in this fast-growing nation” (page 4) (“Trào lưu Vốn chảy vào Trung quốc đã chậm lại mạnh and ngay cả chảy ngược lại trong những tháng gần đây, theo những dữ kiện cho thấy, cuộc khủng hoảng tài chánh đã làm mất can đảm những nhà đầu tư và đã làm ngưng trệ các ngân hàng trong cái nước đang phát triển mau lẹ này.” (trang 4)
Đối với Trung quốc, tình trạng Vốn nước ngoài đã như vậy, huống chi đối với Việt Nam. Việt Nam còn bị thiếu vốn trầm trọng hơn Trung quốc vì nguồn Vốn nọi địa yếu kém hơn Trung quốc.

Aûnh hưởng trực tiếp

Khủng hoảng Tài chánh Thế Giới 2007/08

Lên Trung Cộng và Việt Nam về Độ Tăng trưởng Kinh tế.
Tại những nước đã Kỹ nghệ hóa, các Chính phủ đang lo ngại tầm ảnh hưởng của Khủng hoảng Tài chánh lan sang Lãnh vực Kinh tế thực làm cho đà Tăng trưởng giảm xuống trong những năm tới.
Ba lý do chính cát nghĩa tầm ảnh hưởng của cuộc Khủng hoảng Tài chánh Thế giới đối với Lãnh vực Kinh tế thực tại Trung quốc và Việt Nam, nghĩa là làm giảm Độ tăng trưởng Kinh tế tại hai nước này:
=> Lý do thứ nhất: Khi nguồn Vốn nước ngoài giảm thiểu và nguồn Vốn nội địa không đủ, thì tất nhiên một số Công ty không trường vốn sẽ bị phá sản. Tại Liên Aâu và Hoa kỳ, những Công ty có nguồn vốn nội địa và những Công ty này đã tạo trong nhiều năm rồi số vốn riêng của họ tích lũy (Cumulation des Fonds propres) để có độc lập về Tài chánh (Autonomie Financìere), nhưng tại những nước mới bắt đầu phát triển, những Công ty lệ thuộc vào Thị trường Tài chánh mang tính cách bấp bênh.
=> Lý do thứ hai: Cuộc Khủng hoảng Tài chánh Thế giới làm cho các nước Liên Aâu, Hoa kỳ và những nước trong vùng Á châu giảm thiểu việc mua hàng mà trước đây Trung quốc và Việt Nam vẫn cung cấp cho họ: những linh kiện cho Kỹ nghệ hay những hàng thường dùng cho dân chúng. Nên lưu ý rằng việc chế xuất hàng hóa từ Trung quốc hay Việt Nam là để cung cấp cho nước ngoài tới 70%. Việc giảm thiểu mua hàng này từ những nước đã Kỹ nghệ hóa tất nhiên làm ngưng trệ Kinh tế Trung quốc và Việt Nam, nghĩa là làm giảm độ Tăng trưởng Kinh tế.
=> Lý do thứ ba: Sau những cuộc Khủng hoảng, những Quốc gia dù có chủ trương Tự do Mậu dịch mấy đi nữa, cũng dễ có khuynh hướng Che chở (Protectionnisme) cho những Công ty quốc gia mình tại nội địa. Tại cuộc họp thượng đỉnh giữa Liên Aâu và Canada, dưới đầu đề A QUEBEC, MR.SARKOZY MET EN GARDE CONTRE LE PROTECTONNISME, Báo LE MONDE ngày Thứ Hai 20.10.2008 đã viết như sau: “Derrìere la crise bancaire, le spectre du protectionnisme qui hanta les années 1930. Avant de rencontrer, Samedi 18 Octobre, le président américain George BUSH dans sa résidence de Camp David, Nicolas SARKOZY, président en exercice de l’Union Européenne (UE), et le président de la Commission, José Manuel BARROSO, ont lancé vendredi, depuis Québec, un appel contre la fermeture des frontìeres.” (Đàng sau cuộc khủng hoảng tài chánh, con quỉ Che Chở (Protectionnisme) đã hiện về trong những năm 1930. Trước khi gặp, Thứ Bảy 18.10, Tổng thống Mỹ George BUSH ở Camp David, Nicolas SARKOZY, Chủ tịch đương nhiệm của Liên Aâu, và Oâng Chủ tịch Uûy Ban Liên Aâu, đồng kêu gọi hôm Thứ Sáu, từ Québec, chống lại việc đóng các biên giới.).
Dù không công khai tuyên bố Che Chở, nhưng các nước áp dụng những Biện Pháp Không giá biểu (Mesures non-tarifaires) để hạn chế nhập khẩu. Trong trường hợp Che Chở, hay những Biện pháp không giá biểu, thì Trung quốc và Việt Nam điều bị thiệt hại vì hai nước này làm việc cho xuất cảng.
Thứ Hai 20.10.2008, Trung quốc công khai cho biết rằng độ tăng trưởng Kinh tế của họ từ 11% xuống tới 9% trong Tam Cá Nguyệt thứ ba của năm nay.
Trong Tờ FINANCIAL TIMES, thứ Hai 20.10.2008, Ký giả Geoff DYER tại Bắc Kinh còn trích lời Oâng HA Jiming, Kinh tế trưởng của China International Capital Corporation ỡ Bắc Kinh, tiên đoán rằng độ tăng trưởng Kinh tế Trung công có thể thụt xuống 7.3% (Ha Jiming, Chief Economist at China International Capital Corporation in Beijing, predicts that growth will fall to 7.3 per cent.)
Tờ THE WALL STREET JOURNAL Europe Thứ Hai 20.10.2008 loan tin về tình trạng một số khá nhiều Công ty tại Trung quốc sẽ phá sản. Đặc biệt tờ báo còn loan tin sự phá sản của Công ty sản xuất đồ chơi với 6’500 nhân công làm việc.
Tờ FINANCIAL TIMES hôm nay Thứ Ba 21.10.2008 cho chạy tít lớn ở trang nhất: CHINA GROWTH SLOWS SHARPLY. Cũng vậy, Tờ THE WALL STREET JOURNAL hôm nay thứ Ba cũng đăng bài dài về sự xuống dốc của Kinh tế Trung Cộng với đầu đề THE WORLD FEELS CHINA’S DECLINING GROWTH.
Việt Nam, cùng một thể chế Chính trị với Trung Cộng, cùng một hệ thống Kinh tế làm việc cho xuất cảng, tất nhiên chịu cùng những hậu quả của cuộc Khủng hoảng Tài chánh như tại Trung quốc. Chính Báo Việt Nam đã loan tin tình trạng phá sản tới 20% các Công ty.
Jonathan Manthorpe, Vancouver Sun 13/10/08, đã viết: “Ông Dũng đã giảm bớt sự ước lượng mức tăng trưởng của tổng sản lượng nội địa trong năm nay xuống còn 7% từ mục tiêu ban đầu là 9%. Nhưng ít nhà kinh tế tin rằng mục tiêu đó thực tế vì mức tăng trưởng chỉ có 6.5% trong 9 tháng đầu năm và triển vọng cho những tháng còn lại thì thậm chí còn tối tăm ảm đạm hơn“.

Каталог: groups -> 116227
116227 -> Vbiqve” “vbiqve” ĐẾn thời tổng đÀn the knights of malta luâN ĐÔn quyếT ĐỊnh : thu hồi búa liềm và xhcn
116227 -> Vbiqve” “vbiqve” ĐẾn thời tổng đÀn the knights of malta luâN ĐÔn quyếT ĐỊnh : thu hồi búa liềm và xhcn
116227 -> Are You suprised ?
116227 -> Viettudan an ban/ Edition: vni fonts Dau tranh cho Tu-do Ca-nhan & Nguyen-tac Dan-chu Xa-hoi tai Viet-Nam
116227 -> Viettudan an ban/ Edition: unicode fonts Dau tranh cho Tu-do Ca-nhan & Nguyen-tac Dan-chu Xa-hoi tai Viet-Nam
116227 -> Viettudan an ban/ Edition: unicode fonts Dau tranh cho Tu-do Ca-nhan & Nguyen-tac Dan-chu Xa-hoi tai Viet-Nam
116227 -> Viettudan an ban/ Edition: unicode fonts Dau tranh cho Tu-do Ca-nhan & Nguyen-tac Dan-chu Xa-hoi tai Viet-Nam
116227 -> An ban/ Edition: unicode fonts
116227 -> An ban/ Edition: unicode fonts
116227 -> An ban/ Edition: unicode fonts

tải về 0.94 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương