Vers et commentaire par



tải về 1.32 Mb.
trang3/16
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích1.32 Mb.
#30826
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   16

211. Tỳ đằng băng tát na ra.
Kệ :

Bình chư ma hại thí an ninh

Phùng hung hoá cát tiêu túc nghiệp

Ly hiểm như di mộng phất kinh

Phổ khánh vân tán mãn thiên thanh.
Tạm dịch :
Che trừ ma hại được an ninh

Gặp hung hóa cát tiêu nghiệp cũ

Tai qua nạn khỏi mộng không sợ

Khánh chúc mây tan đầy trời xanh.


Giảng giải : Ý nghĩa của câu Chú này là "Đuổi trừ ma hại người", làm cho được an ninh. Ngăn cản tất cả ma hại, tựa như cái bình phong, hại bạn chẳng được, thì bạn được bình an. Cho nên nói : ‘’Gặp hung hóa cát tiêu nghiệp cũ.’’ Gặp việc nguy hiểm sẽ hóa ra cát tường, giống như người phóng thương muốn đánh bạn, vốn rất nguy hiểm mà chuyển thành cát tường. Tại sao như thế ? Hoặc là trong quá khứ bạn làm việc cát tường, do đó gặp hung hóa cát, quả báo tiền kiếp đã tạo phải chịu, đều sẽ tiêu diệt. Cho nên niệm câu Chú này, thì gặp hung hóa cát, gặp nạn được bình an.

‘’Tai qua nạn khỏi mộng không sợ.’’ Hoặc là gặp cọp sói sư tử, hoặc độc khí hóa học, lò nguyên tử bị nổ, đều được bình an qua khỏi, tai hại gì cũng chẳng có, không sợ hãi. Ngày trước nói về rắn, có người nói nằm mộng thấy rắn. Mộng thấy rắn cũng không sợ, rắn đều biến thành hộ pháp cho ta, bảo hộ ta. Bạn xem ! Ngài Quy Sơn có hai con cọp gác cửa, bảo hộ cho Ngài, cũng có thể nói là Kim Cang Hộ Pháp biến thành hai con cọp, cho nên tất cả ác thú không dám gần gũi. Mộng không sợ, nằm mộng cũng không sợ hãi.

‘’Khánh chúc mây tan đầy trời xanh.’’ Lúc này thì mọi người cùng đến khánh chúc, mây tan lộ mặt trời, trời xanh ngàn dặm chẳng có mây, mọi người đều rất vui vẻ. Do đó, có câu :
‘’Quang phong tễ nguyệt thảo mộc hân hân.’’
Gió thổi nhè nhẹ, mặt trăng sáng tỏ, cây cỏ đều vui tươi.
‘’Nộ vũ tật phong quần điểu thê thê’’.
Cuồng phong bạo vũ thì chim trên bầu trời rất thê lương.

‘’ Khánh chúc mây tan đầy trời xanh.’’ Làm cho nghiệp chướng tiêu sạch, thì trí huệ sẽ hiện tiền. Các vị nghe tôi giảng sai chỗ nào, hoặc tả sai chỗ nào, phải nói với tôi. Tôi không thể nói sai, chỉ cần có người tìm ra chỗ sai của tôi, thì tôi vui lắm.

Hôm nay siêu độ Tổ Tiên đã siêu độ rồi, tất cả đều rất vui vẻ sinh về thế giới Cực Lạc, cũng có những vong linh không vãng sinh, cũng được đầu thai làm người. Ðây là cơ hội rất tốt siêu độ Tổ Tiên. Về sau, bất cứ đi đến đâu siêu độ Tổ Tiên, thì mỗi bài vị biên một tên, đừng để Tổ Tiên của các vị vào với nhau, giống như lồng bồ câu ở Hương Cảng, rất nhiều bồ câu ở trong một cái lồng, đó là vì trước kia con cháu của họ siêu độ họ, thì cho rất nhiều người cùng vào một bài vị, cho nên trồng nhân nào thì gặt quả đó. Tôi biết mỗi người đều không muốn Tổ Tiên của họ ở lồng bồ câu. Ðây là việc đã quá khứ, về sau đừng làm như thế nữa. Tốt hơn chúng ta ở trong Phật giáo làm việc, đừng nghĩ muốn tìm tiện nghi trong Phật giáo. Ở trong Phật giáo phải có tâm không sợ thiệt thòi, khi bạn tham tiện nghi thì không hợp Phật pháp, đây là lời lẽ rất quan trọng xác thực, các vị phải chú ý.

Chẳng có ai nói gì thì tôi giảng về ngồi thiền. Vạn Phật Thành chúng ta có người dưỡng thành một thứ tập quán, trừ khi không ngồi thiền, khi ngồi thì ngủ. Vì cảm thấy khi ngồi xuống, nếu không ngủ thì chẳng có cơ hội ngủ, cho nên thừa dịp ngồi thiền thì ngủ. Nhưng lời lẽ lại nói ngược lại, ngủ thì tốt nhiều hơn là tỉnh, khi tỉnh thì bạn cứ khởi vọng tưởng, tưởng tràng giang đại hải, tại Vạn Phật Thành lại chạy về Mã Lai, tại Mã Lai lại chạy về Vạn Phật Thành, không tốn tiền cũng không cần ngồi máy bay, cũng không cần đi xe lửa. Tại Mã Lai và Vạn Phật Thành chạy đi chạy về, không biết bao nhiêu lần, cũng không cần trả thuế cho chính phủ, đây là một việc hết sức tiện nghi, cho nên nói bạn tỉnh táo cứ khởi vọng tưởng, không như ngủ. Bạn ngủ thì có thể tằn tiện rất nhiều xăng dầu, vì năng lượng nguyên liệu trong tâm không có hao tốn. Tỉnh táo thì cứ khởi vọng tưởng, làm cho năng lượng nguyên liệu trong tâm hao tốn không biết bao nhiêu mà nói. Bạn cảm thấy không có tốn tiền, nhưng thực ra trong vô hình làm cho năng lượng nguyên liệu trí huệ của bạn hao tốn đi rất nhiều, cho nên nói :


‘’Ngủ yên trong núi sâu

Còn hơn hành đạo chốn đô thị.’’


Tức là ngủ trong rừng sâu núi thẳm, vẫn tốt hơn dụng công tu đạo tại thành thị. Ngủ trong rừng sớm tối vẫn có lúc tỉnh, tại thành thị mà tu hành, không những tiếng ồn của máy bay trên trời, tiếng ồn các loại xe cộ, đủ loại tiếng ồn náo, khó tu hành nhập định. Tư thế ngồi cũng rất quan trọng, bạn hãy xem người Nhật, tư thế ngồi trong thiền đường rất tốt. Tư thế người trong Vạn Phật Thành ngồi, cũng không được tốt mấy. Tại sao ? Vì tôi không chú trọng về bề mặt, do đó người ở đây cũng học theo tôi tu không đàng hoàng, tùy tuỳ tiện tiện, không màng đến vấn đề này. Bây giờ nói với các vị, khi ngồi thiền thì nên ngồi kiết già là tốt nhất. Ngồi kiết già thì đùi trái gác lên đùi phải, chân phải để lên chân trái, đó gọi là kiết già, còn gọi là tư thế hoa sen, hoặc là tư thế kim cang. Ngồi như thế này thì hàng phục được thiên ma, khủng bố các ngoại đạo. Khi thiên ma thấy bạn ngồi như thế, thì phải chạy xa, bạn rất dễ dàng nhập định, thành tựu tam muội.

Khi ngồi phải đoan nghiêm chánh tọa, lưng phải thẳng lên, thân thể không được nghiêng ngã, đầu cũng không được cúi xuống, hoặc ngã ra, cũng không lệch bên trái, nghiêng bên phải, phải ngồi ngay thẳng tự nhiên, không cẩu thả. Mắt thì quán mũi, mũi quán miệng, miệng quán tâm. Nghĩa là mắt quán mũi, mũi quán miệng, trên mũi vẫn có mắt chăng ? Miệng quán tâm, trên miệng còn có mắt chăng ? Bạn chưa tu thành nên không biết, nếu bạn tu thành thì toàn thân đều là con mắt, trong mỗi lỗ chân lông đều có vô lượng vô biên con mắt. Cho nên bạn nhìn sự vật không cần dùng nhục nhãn để nhìn, nghĩa là toàn thân của bạn đều là máy radar, đều là máy móc, chỉ cần bạn chịu dụng công tu hành, thì tương lai thì sẽ có diệu dụng này. Ðây là khi bắt đầu dụng công, chưa nói đến bước thứ nhất.

Bắt đầu dụng công phải có một câu thoại đầu, hoặc tham câu thoại đầu này : ‘’Bổn lai mặt mũi trước khi cha mẹ sinh ra như thế nào‘’? Hoặc là : ‘’Niệm Phật là ai‘’? Có đủ thứ thoại đầu, xem thử bạn thích tham câu nào thì tham câu đó. Chúng ta tiếp tục dụng công, tục ngữ có câu :
‘’Ngồi lâu thì có thiền,

Ở lâu thì có duyên.’’


Do đó phải có tâm nhẫn nại, đừng hấp tấp, khi hấp tấp thì tham cho mau, cho rằng càng mau càng tốt, phải biết :
Căng quá thì dễ đứt,

Chậm quá thì lỏng lẻo,

Ðừng căng đừng chậm mới thành công.
Tu đạo phải chân thật, đem công phu ra, đem thời gian ra, từng chút từng chút sẽ thành tựu, mỗi ngày mỗi ngày thành tựu, chẳng phải cấp tốc thì thành tựu được. Cho nên phải tiếp tục nỗ lực, chân đau một chút mà nhẫn được thì nhẫn nó. Chúng ta phải dứt sinh tử thoát khỏi luân hồi, chẳng phải là việc nhỏ, do đó phải đem tâm nhẫn nại chân chánh ra mới tương ưng với đạo.
212. Hổ hồng đô lô ung.
Kệ :

Chuyên nhất tắc linh phân trì tệ

Chí thành tụng niệm vĩnh phất thế

Nhật cửu công thâm thành Tam muội

Chứng đắc bồ đề vô khứ lai.
Tạm dịch :
Chuyên nhất thì linh phân thì tán

Chí thành tụng niệm mãi không ngừng

Lâu dần công sâu thành tam muội

Chứng được bồ đề không đến đi.


Giảng giải : Niệm câu Án Á Hồng này, thì thanh tịnh thân miệng ý ba nghiệp của bạn, lúc này thì nhất định phải chuyên nhất, do đó : ‘’Chuyên nhất thì linh phân thì tán.’’ Bạn chuyên nhất một lòng thì sẽ linh, nếu không chuyên nhất thì không linh. Tán tức là phân tán, tán loạn nghĩa là bạn không thể thành tựu tam muội. Cho nên nói : ‘’Chí thành tụng niệm mãi không ngừng.’’ Phải thành tâm đến cực điểm để tụng niệm Chú Lăng Nghiêm này, mãi mãi không thay đổi, không ngừng.

‘’Lâu dần công sâu thành tam muội.’’ Thời gian lâu dần, thì công phu tự nhiên sẽ thâm sâu, tức cũng như đi học, học hết thì sẽ tốt nghiệp. Công phu thuần thục thì tự nhiên sẽ thành tựu tam muội.

‘’Chứng được bồ đề không đến đi.’’ Chứng được bồ đề giác đạo, thì cũng là Vô thượng chánh đẳng chánh giác, lúc này thì cũng chẳng đến, cũng chẳng đi. Phàm việc gì cũng phải có tâm nhẫn nại mới được, không có tâm nhẫn nại tu hành, thì không thể được.
213. Ra xoa.
Kệ :

Kim Cang thiên tiên các thủ hộ

Phú nhiêu lợi hành khả uý đồ

Nhiếp thọ chiết phục bách thiên vạn

Oai đức vô cùng phước huệ túc.
Tạm dịch :
Kim Cang Thiên tiên đều bảo hộ

Sung túc lợi hành uy đáng sợ

Nhiếp thọ triết phục trăm ngàn vạn

Oai đức vô cùng đủ phước huệ.


Giảng giải : Câu này dịch là "Tất cả Kim Cang Thiên tiên". Thiên tiên trên trời và Kim Cang đến thủ hộ đạo tràng, thủ hộ người tu hành.

La Xoa còn dịch là "Giàu có đầy đủ", hoặc là "lợi hành", "lợi ích chúng sinh", lại dịch là "khả uý", Kim Cang có uy đáng sợ. Thiên tiên có đại oai đức, ‘’Nhiếp thọ triết phục trăm ngàn vạn.’’ Pháp nhiếp thọ là dùng từ bi để nhiếp thọ. Pháp triết phục là dùng oai đức để triết phục. Trăm ngàn vạn chúng sinh đều bị hai môn triết, nhiếp, độ thoát.

‘’Oai đức vô cùng đủ phước huệ.’’ Kim Cang Thiên tiên đều là oai đức vô cùng, phước huệ đầy đủ. Có khi chư Phật quá khứ thị hiện, có khi Ðại Sĩ hóa thân, cho nên các Ngài phước cũng đủ, huệ cũng đủ.

Mỗi câu Chú Lăng Nghiêm, tôi dùng bốn câu kệ để hình dung oai lực của Chú và công dụng không thể nghĩ bàn của Chú. Bổn lai Chú Lăng Nghiêm biến hóa vô cùng, bất quá tôi chỉ nói nửa phần trong vạn phần, tức cũng khiến cho người khởi nhiều vọng tưởng thêm một chút. Người thì thấy lạ nghĩ khác, thấy gì thì khởi vọng tưởng đó, không thấy thì không có vọng tưởng. Cho nên thế gian bất cứ việc gì, có tốt thì có xấu, có hợp thì có tan, có thiện thì có ác, có phải thì có trái, đều là pháp đối đãi. Chúng ta giải thích Chú Lăng Nghiêm, tức cũng là không có việc tìm việc để làm. Có người xem kệ rồi thì hiểu một chút, có người xem rồi thì hồ đồ một chút. Ðây là đạo lý gì ? Ðạo lý thế gian vạn sự vạn vật đều như thế, có lợi thì có hại. Ngài Mã Tổ thành lập tùng lâm, Ngài Bách Trượng lập quy cụ, khi chế ra quy cụ thì người không giữ quy cụ hiển lộ ra, người xuất gia đọa địa ngục cũng nhiều. Tại sao có lợi thì có hại ? Có tốt thì có xấu ? Việc thế gian đều là như thế. Người được độ ít hơn so với người đọa lạc, người đọa lạc nhiều hơn so với người thọ ký, đạo lý thế gian là như thế. Tuy nhiên là như thế, chúng ta cũng không thể không hết lòng, không thể nói người đọa lạc nhiều, người được độ ít thì chúng ta không độ, muốn bãi công. Vậy thì một người cũng không độ đặng, tất cả đều đọa lạc. Hy vọng của chúng ta là, trong trăm vạn người độ được hai người thành đạo, thì chẳng có thời gian luống qua.


214. Bà già phạm.
Kệ :

Duy trượng Thế Tôn oai thần lực

Cứu hộ điên đảo chư hàm linh

Phổ nguyện lìa khổ hoạch an lạc

Tảo vi giác đạo lập căn cơ.
Tạm dịch :
Xin nhờ oai thần lực Thế Tôn

Cứu hộ các chúng sinh điên đảo

Nguyện khắp lìa khổ được an lạc

Sớm sẽ giác ngộ lập căn cơ.

Giảng giải : Bà Già Phạm là "tên riêng của Phật", ở trước đã giảng qua, Bà Già Phạm có sáu nghĩa cho nên không dịch.

‘’Xin nhờ oai thần lực Thế Tôn.’’ Tất cả hộ pháp đều nương nhờ đại oai thần lực của mười phương chư Phật. Thế Tôn là tôn kính của thế gian và xuất thế gian, là một trong mười hiệu của Phật. Oai thần lực của Thế Tôn vô cùng vô tận, tất cả các Bồ Tát và tất cả hộ pháp thường được đại oai thần lực của chư Phật gia trì, mới đến được trong tất cả thế giới giúp Phật hoằng dương Phật pháp, giáo hóa chúng sinh, cho nên nói : ‘’Cứu hộ các chúng sinh điên đảo.’’ Các hàm linh chẳng phải chỉ một hay hai, mà là bao quát hết thảy tất cả chúng sinh. Có chúng sinh cơ duyên thành thục, có chúng sinh chưa thành thục. Các hộ pháp quán cơ đầu giáo, vì người mà thuyết pháp, theo bệnh cho thuốc, phá hết tất cả chấp trước và điên đảo của chúng sinh, nhưng chúng sinh quá cang cường khó giáo hóa. Dạy họ làm công đức lành, thì họ lệch đi muốn tạo tội nghiệt. Dạy họ tu giới định huệ, thì họ lệch đi muốn chấp giữ tham sân si. Cho nên nói chúng sinh cang cường khó điều phục. Chúng sinh ngu si cũng khó giáo hóa, đều dùng tri kiến của mình đi làm việc mà họ muốn. Biết rõ là không tốt mà vẫn cứ đi làm, biết rõ là không đúng mà họ vẫn đi làm, đó là chỗ diệu của của chúng sinh, nói thẳng ra là diệu đến cực điểm. Cho nên Lão Tử mới nói :


‘’Thiên hạ đều biết tốt đẹp là tốt đẹp,

Mà cứ đi làm ác.

Biết việc thiện là đúng,

Mà cứ đi làm ác.’’


Tức là nói người trong thiên hạ, đều biết tốt đẹp là tốt đẹp, nhưng quan niệm xấu tùy tiện sinh khởi, mà người cứ đi làm những việc thật là xấu ác. Con người biết thiện lương là đúng, làm thiện được thiện báo, mà họ không chịu làm thiện, cứ muốn đi làm ác, đó là chúng sinh sinh ra tánh điên đảo. Giống như chó rất là thông minh, nhưng mà cứ muốn ăn phân. Tại phàm phu chúng ta thấy đại tiện hôi thối như thế, làm sao có thể ăn, thế mà chó thấy đại tiện đều thơm hơn với bất cứ gì, chúng vẫn cướp giật ăn. Sao lại như thế ? Tánh chó là như thế. Tất cả chúng sinh đều có cá tính. Như người hay mắng chưởi người, cho rằng mắng chưởi người là công việc của họ, một ngày không mắng chưởi người thì chịu không được. Hoặc là người hay nói thị phi, từ sáng đến tối thị thị phi phi, một ngày không nói thị phi thì giống như phải đọa vào bạt thiệt địa ngục, thật là khổ sở. Cho nên tri kiến của chúng sinh không dễ gì cảm hóa. Bạn càng tốt với họ, thì họ càng cho rằng bạn không đúng. Ðó là bản tánh của chúng sinh, khinh thiện sợ ác. Bạn nói vậy tôi muốn học làm người ác, không làm người thiện, như thế thì chẳng được. Tuy nhiên bạn thiện bị người khinh, vẫn phải nhẫn chịu một chút, bị người khinh là chỗ tích đức, khinh người thì tổn đức, chúng sinh điên đảo thì như thế. Các vị hộ pháp muốn cứu hộ điên đảo, tất cả khuẩn động hàm linh các Ngài đều muốn cứu hộ. Chúng sinh lại điên đảo, lại không nghe lời, các Ngài đều dùng tâm từ bi để giáo hóa.

‘’Nguyện khắp lìa khổ được an lạc.’’ Nguyện khắp tất cả chúng sinh đều lìa khổ được an lạc.

‘’Sớm sẽ giác đạo lập căn cơ.’’ Vì giác đạo lập căn cơ xuống. Các Ngài dùng đủ thứ pháp môn để dạy dỗ chúng sinh, khiến chúng sinh đóng xuống cơ sở một chút bồ đề giác đạo, tương lai phát đại bồ đề tâm, thì sẽ thành tựu vô thượng đạo.
215. Tát đát tha.
Kệ :

Thập phương vô tận thường trụ Thánh

Nhất thiết hộ pháp đại minh đăng

Chiết nhiếp nhị môn xảo thí độ

Kim Cang Mật Tích hoá chúng sinh.
Tạm dịch :
Mười phương vô tận Thánh thường trụ

Tất cả Hộ Pháp đèn sáng lớn

Triết nhiếp hai môn khéo thí độ

Kim Cang Mật Tích hóa chúng sinh.


Giảng giải : ‘’Mười phương vô tận Thánh thường trụ.’’ Mười phương tận hư không biến pháp giới, vô tận vô tận Thường Trụ Phật Pháp Tăng Tam Bảo.

‘’Tất cả hộ pháp đèn sáng lớn.’’ Rất nhiều Kim Cang Tạng Vương Bồ Tát đến hộ trì Thần Chú Lăng Nghiêm, khiến cho Thần Chú như đèn sáng lớn, hộ trì Tam Bảo, làm mục đích cho chúng sinh. Dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, để giáo hóa chúng sinh trong sáu đường khổ não.

‘’Triết nhiếp hai môn khéo thí độ.’’ Chúng sinh đại cang cường, thì dùng pháp triết phục để triết phục, nếu chúng sinh dễ giáo hóa, thì dùng pháp nhiếp thọ để nhiếp thọ. Khéo tức là rất khéo léo, rất phương tiện, dùng pháp vừa vặn đến chỗ diệu, đúng cơ của họ. Thí tức là thí dụng, hoặc là dùng bố thí độ, hoặc dùng đủ thứ phương pháp để độ chúng sinh.

‘’Kim Cang Mật Tích hoá chúng sinh.’’ Kim Cang Mật Tích gọi là gì ? Những việc làm của Ngài Kim Cang Mật Tích, một số người chẳng biết đặng, vì không biết cho nên gọi là Mật Tích. Những việc làm của Ngài đều là hộ trì Phật pháp. Bạn nhìn ở ngoài lông, ngoài da, tựa như Ngài phá hoại Phật pháp, thực ra Ngài đang thuyết vô thượng diệu pháp, khế hợp với căn cơ của chúng sinh, khiến cho chúng sinh bỏ mê về giác, lìa khổ được vui. Ngài là đối cơ thuyết pháp, bạn không minh bạch, không nhận thức, cho nên nói là mật tích, mật hạnh.


‘’Ðường xa biết sức ngựa

Sống lâu thấy tâm người.’’


Người học Phật, chẳng phải một sớm một chiều thì học được Phật, phải dùng thời gian lâu dài để thể nghiệm đạo lý Phật giáo, y giáo tu hành, lâu dần mới có sự thành tựu. Người chân chánh nhận thức Phật pháp cũng không sợ, cũng không hãi, cũng không khóc, cũng không cười. Phật pháp tức là như thế, chẳng có chỗ sợ hãi, chẳng có chỗ khóc, hoặc cười. Luôn luôn giữ như như bất động, liễu liễu thường minh, đó là bổn thể của Phật pháp.

216. Già đô sắt ni sam.
Kệ :

Ngã kim quy mạng đại Phật đảnh

Vô tận Pháp Tạng trí huệ quang

Nguyện ngã minh liễu diệu tổng trì

Phụng hành Như Lai sở thuyết nghĩa.
Tạm dịch :
Con nay quy mạng đại Phật Ðảnh

Vô tận pháp tạng trí huệ quang

Nguyện con hiểu rõ diệu tổng trì

Phụng hành nghĩa lý Như Lai nói.


Giảng giải : ‘’Con nay quy mạng đại Phật Ðảnh.’’ Ðây là tất cả hộ pháp nói : Bây giờ chúng con cùng quy mạng Ðại Phật Ðảnh Chú Lăng Nghiêm.

‘’Vô tận pháp bảo trí huệ quang.’’ Ðại Phật Ðảnh tức là vô tận pháp tạng, lấy không hết, dùng không xuể. Pháp tạng vô tận này, đều ở trong tự tánh, chẳng phải từ bên ngoài đến, là từ trong tự tánh của bạn hiển lộ ra. Vậy tại sao bây giờ không hiển lộ ra ? Giống như côn trùng đang ẩn tàng, thì không động đậy, khi thời tiết nóng thì chúng hoạt động trở lại.

Người tu đạo, tu cho thân được nóng thì trùng tự tánh cũng sống trở lại. Khi trùng tự tánh sống lại, thì tất cả tế khuẩn trong thân đều chết hết. Ðó chẳng phải là sát sinh chăng ? Nếu bạn cho rằng như thế, thì đừng tu hành, chẳng có ai miễn cưỡng bạn, bạn vẫn có thể hoàn tục, trở về đời sống tại gia, đầy dẫy phiền não, tranh dành, vô minh đố kỵ chướng ngại. Nhưng nếu muốn tu hành, thì phải cải biến tất cả tế khuẩn, khôi phục Phật tánh của chính mình. Trước khi chưa thành Phật, thì trong thân có tám vạn bốn ngàn vi trùng đang phân chia tánh của bạn, ăn thịt của bạn, uống máu của bạn, ở trong thân của bạn, kêu bạn làm này làm nọ, kêu bạn đừng giữ quy cụ, kêu bạn đi làm những việc điên đảo, đều là những thứ xấu này chi phối bạn. Bạn nói : ‘’Nguồn gốc là việc này chẳng phải tôi làm.’’ Vậy tại sao bạn phải giúp chúng như vậy, đói một chút cũng chịu không được, khát một chút cũng chịu không được, ngủ không đủ cũng chịu không được. Tại sao phải bảo hộ chúng như thế ? Bạn bảo hộ những vi trùng này, thì tự tánh không hiển lộ được. Những thứ trùng đó đáo để là thứ gì ? Là những thứ trùng ngu si. Ở trên thân của bạn, làm cái này không được thoải mái, cái kia không chịu được, khắp thân đều là phiền não, đau bệnh này đau bệnh kia, đều là những thứ trùng ngu si đang tác quái. Mặc ít cũng không chịu, ăn ít cũng không chịu, nó thích gây sự với bạn.
Vô tận pháp tạng đều ở trong Ðại Phật Ðảnh sinh ra. Trí huệ quang này chẳng phải những thứ quang khác, mà là quang minh của trí huệ. Tại sao Phật có quang minh ? Vì Ngài không có đen tối ngu si, cho nên đều dùng trí huệ quang minh để chiếu soi tất cả, ngay cả vô minh cũng chiếu phá. Khi phá tan vô minh, thì pháp tánh hiển lộ ra, cho nên trí huệ quang tức là quang của Phật.

‘’Nguyện con hiểu rõ diệu tổng trì.’’ Cung phụng đại trí huệ quang, đại Phật đảnh vô tận pháp tạng này là vì điều gì ? Tức là vì hiểu rõ đại tổng trì, tức cũng là Lăng Nghiêm Ðà La Ni. Tổng trì tức là Ðà La Ni. Ðà La Ni là tiếng Phạn, dịch là tổng trì, "tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa". Pháp gì cũng đều tổng nhiếp ở trong đó, tất cả các pháp đều phát nguồn từ đây.

‘’Phụng hành nghĩa lý Như Lai nói.’’ Chúng ta hiểu rõ đại tổng trì này rồi, thì phải y theo đạo lý Phật nói cung kính phụng hành.
217. Ba ra điểm.
Kệ :

Pháp quang biến chiếu âm tự tại

Chí thành tác lễ mật linh văn

Hy sử cảm ứng đạo giao lực

Hoàn ngã bổn lai chứng bồ đề.
Tạm dịch :
Pháp quang chiếu khắp tiếng tự tại

Chí thành kính lễ Chú Lăng Nghiêm

Mong được cảm ứng và đạo giao

Trở về nguồn cội chứng bồ đề.


Giảng giải : Ba La Ðiểm nghĩa là "Pháp quang chiếu khắp". Trí huệ quang của Phật chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới, trong đó lại có một âm thanh tự tại. Cho nên nói : ‘’Pháp quang chiếu khắp tiếng tự tại - Chí thành kính lễ mật linh văn.’’ Bây giờ con chí thành kính lễ mật linh văn, mật linh văn tức là chỉ Chú Lăng Nghiêm.

‘’Mong được cảm ứng và đạo giao.’’ Hy vọng dùng sức cảm ứng đạo giao.

‘’Trở về nguồn cội chứng bồ đề.’’ Cội nguồn ra sao thì trở về thế đó. Cội nguồn ra làm sao ? Gì cũng chẳng có. Cho nên bây giờ trở về đâu cũng chẳng có. Còn một chút chấp trước, thì còn chướng ngại, còn chướng ngại thì không thể vượt khỏi tam giới, do đó nhất định phải phá tan tất cả chấp trước, đến vật gì cũng chẳng còn, thì lúc đó phục hồi lại bổn lai diện mục. Bây giờ chúng ta có gì ? Gì cũng chẳng có. Ðợi đến khi chúng ta vật gì cũng chẳng muốn, thì vật gì cũng đều có, trí huệ cũng hiện tiền, thần thông cũng hiện tiền, diệu dụng cũng hiện tiền. Tại sao bây giờ không có trí huệ thần thông ? Là vì cứ đi các nơi lượm rác rến, đá quý vàng thật thì bạn không muốn. Vốn có quý giá thì bạn chẳng muốn, ngược lại cứ đi các nơi lượm nhặt rác rến bẩn thỉu, tự mình còn cho là rất thông minh ! Thật là ngu si hết mức.
218. Xà kiết rị.
Kệ :

Tác lễ vô trụ hoá sinh sinh

Vô cùng vô tận nghĩa di phong

Thập phương Như Lai đồng nhiếp thọ

Ly khổ đắc lạc xuất hoả khanh.
Tạm dịch :
Kính lễ vô trụ hóa sinh sinh

Vô cùng vô tận nghĩa cùng tột

Mười phương Như Lai đồng nhiếp thọ

Lìa khổ được vui rời hầm lửa.


Giảng giải : ‘’Kính lễ vô trụ hóa sinh sinh.’’ Câu Chú này dịch là "Kính lễ", lại dịch là "vô trụ", lại dịch là "sinh". Sinh này nghĩa là sinh sinh vô định, hóa hóa vô cùng. Kính lễ tức là đảnh lễ Phật. Vô sở trụ tức là bạn đừng có chấp trước, bạn nói, vậy tôi đừng tu hành thì chẳng có chấp trước, đó là sai, bạn tu hành cũng đừng chấp trước có tu hành. Bạn nói vậy tôi không ăn cơm thì không chấp trước. Không ăn cơm nhưng bụng không chịu được. Nhưng bạn ăn no rồi, còn nghĩ muốn ăn nữa, vậy cũng không đúng. Kinh Kim Cang có nói :
‘’Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm.’’
Hôm nay có người cho rằng ‘’Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm’’, tức là không cần tu hành, không cần niệm Chú, cũng không cần tụng Kinh, vậy thì chẳng có chấp trước. Chẳng phải vậy, bạn phải tu hành đến chỗ chẳng có gì hết, làm đến khi bạn không còn chấp trước có công đức gì, đó là vô sở trụ (không chỗ trụ). Vì bạn có chỗ trụ, thì sẽ dính mắc vào đó, chẳng thoát ly được, do đó, phải không chỗ trụ mà sinh tâm, quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng, sinh sinh hóa hóa vô cùng tận. Cho nên câu dưới đây nói : ‘’Vô cùng vô tận nghĩa cùng tột.’’ Nghĩa lý của câu Chú này vô cùng vô tận, ý nghĩa nhiều cùng tột, không có gì nhiều hơn nữa. Vì thế bạn niệm câu Chú này, thì ‘’Mười phương Như Lai đồng nhiếp thọ.’’ Mười phương chư Phật đều nhiếp thọ bạn, khiến cho bạn ‘’Lìa khổ được vui rời hầm lửa.’’
219. Ma ha ta ha tát ra.
Kệ :

Thắng Đại Kim Cang oai mãnh hùng

Thôi toại ma ngoại trấn yêu phần

Năng nhẫn kiên cố phiền não chướng

Vi giáo tân lao lập kỳ công.
Tạm dịch :
Thắng Ðại Kim Cang oai mãnh hùng

Phá tan ma ngoại trấn yêu khí

Hay nhẫn kiên cố phiền não chướng

Vì giáo khổ nhọc lập kỳ công.

Giảng giải : Ma Ha dịch là "Thắng đại", là tên của Hộ Pháp Kim Cang, tức là Thắng Ðại Kim Cang, cho nên nói : ‘’Thắng Ðại Kim Cang oai mãnh hùng.’’ Ngài là một đại anh hùng oai phong mãnh liệt, bách chiến bách thắng.

‘’Phá tan ma ngoại trấn yêu khí.’’ Ngài phá sạch thiên ma ngoại đạo, khiến cho bọn chúng đầu hàng, khi nhìn thấy Ngài thì đều lão lão thực thực, vâng lời nghe sai khiến. Tại sao chúng không nghe lời sai khiến của ta ? Vì ta không có đại oai phong như thế, không có thần thông dũng mãnh như thế, do đó không được như thế.

‘’Hay nhẫn kiên cố phiền não chướng.’’ Vị đại anh hùng Thắng Ðại Kim Cang này, phiền não gì cũng đều chẳng có, vì Ngài nhẫn được, làm cho phiền não chướng đều tiêu sạch. Ngài nhẫn được rồi, cũng kêu chúng ta phải nhẫn phiền não chướng này, mới vượt khỏi tam giới, mới thành Phật được, do đó Ngài ‘’Vì giáo khổ nhọc lập kỳ công.’’ Vì Phật giáo mà tranh quang, lập được những công lao đặc biệt. Chúng ta người tu đạo, cũng phải học hạnh kiên nhẫn của Ngài Thắng Ðại Kim Cang, có tâm nhẫn nại, vì hộ trì Phật pháp mà ủng hộ Phật giáo, chịu cực chịu khổ, khổ nhọc gì cũng không sợ, nhẫn được những gì người nhẫn không được, nhường những gì người không thể nhường, ăn những gì người không thể ăn, chịu những gì người chịu không được. Phải có tâm nhẫn nại kiên cố như thế, tinh thần kiên cố nhẫn được, đừng có nhẫn được một giờ, sang giờ thứ hai thì nhẫn không được. Ai muốn nhẫn được thì không sợ đau chân, đó là thật tu hành, ta vì tu hành, có đau một chút cũng cam chịu. Vì tu hành thì có chết cũng chẳng quan hệ gì. Phải có chí nguyện như thế, thì bạn nói đây không phải là Thắng Ðại Kim Cang thì là gì ?
220. Bột thọ ta ha tát ra.
Kệ :

Kim cang vũ khởi hàng ma kiếm

Liên hoa hoá sinh thất bảo trì

Thích Ca thành đạo bồ đề thụ

Phổ độ hàm thức xuất hãm ni.
Tạm dịch :
Kim Cang vũ khởi hàng ma kiếm

Hoa sen hóa sinh ao bảy báu

Thích Ca thành đạo cội bồ đề

Phổ độ hàm thức khỏi bùn lầy.


Giảng giải : Câu Chú này dịch là "vũ", lại dịch là "hoa". Vũ là vũ pháp Kim Cang, vũ khởi hàng ma kiếm, khiến cho tất cả thiên ma ngoại đạo đều kinh hãi sợ sệt, đều bị hàng phục. Các Ngài dùng vũ khởi hàng ma kiếm chỉ là thị oai, biểu diễn oai phong, thật ra thì chẳng giết hại. Bên ngoài thì thị hiện Kim Cang, nhưng trong tâm thật là từ bi và thiện lương. Chỉ là làm ra vẻ trang nghiêm, khiến cho họ đừng làm ác như thế. Nếu ai gặp vị Kim Cang này mà phát tâm tu hành, thì sẽ vãng sinh về Cực Lạc thế giới, hóa sinh từ hoa sen trong ao bảy báu, cho nên nói : ‘’Hoa sen hóa sinh ao bảy báu - Thích Ca thành đạo cội bồ đề.’’ Phật Thích Ca Mâu Ni từ cung trời Ðâu Suất hàng thần vào thai mẹ, ở trong thai mẹ, thì vì tất cả quỷ thần mà thuyết pháp, sau đó xuất thai, xuất gia, rồi ở dưới cội bồ đề hàng phục thiên ma, khống chế các ngoại đạo, thành đẳng chánh giác, chuyển pháp luân, độ chúng sinh mà nhập Niết Bàn. Khi Ngài ngồi bốn mươi chín ngày dưới cội bồ đề không động đậy.

Các vị nghĩ xem ! Ðức Phật ngồi bốn mươi chín ngày dưới cội bồ đề không động đậy, lập thệ nguyện : Nếu không thành Phật, thì quyết không rời chỗ này, cuối cùng chứng được quả vị Phật. Nếu Ngài cũng như chúng ta không có tâm nhẫn nại, chỉ nói được mà làm không được thì không thể thành tựu. Vì tâm nhẫn nại của Ngài kiên cố hơn so với bất cứ ai, mới đánh phá được tất cả cửa ải, chứng quả thành Phật.

Các vị nghĩ xem ! Phật ngồi bốn mươi chín ngày, chúng ta ngồi được bảy ngày chăng ? Nếu được thì cũng gần kề, nhưng sợ e rằng bảy ngày cũng làm chẳng được. Thệ nguyện của Phật kiên cố như kim cang, chẳng giống như chúng ta cứ tùy tiện, cho nên Ngài đã thành đạo. Ngài thành đạo được là nhờ tâm nhẫn nại, nhẫn được những gì người nhẫn không được, làm được những gì người làm không được, dưới cội bồ đề Ngài cũng không ăn không ngủ, chỉ ngồi thiền, ngồi bốn mươi chín ngày không đứng dậy, cho nên khoát nhiên khai ngộ, đêm thấy sao mai mọc mà ngộ đạo, thành Phật dưới cội bồ đề. Thành Phật rồi thấy tất cả chúng sinh đều đang chịu khổ, tuy nhiên Ngài vốn không muốn làm việc gì, cũng không nhẫn tâm không làm. Cho nên, Ngài lại : ‘’Phổ độ hàm thức khỏi bùn lầy.’’ Ðộ hết tất cả chúng sinh thoát khỏi biển khổ. Chúng ta ở trong lục đạo luân hồi cũng giống như dính mắc trong bùn lầy, không thể nào thoát ra được. Phật đến trợ giúp làm cho chúng ta, từ trong vũng bùn lầy thăm thẳm vượt khỏi ra ngoài.
221. Thất rị sa.
Kệ :

Diệu thủ cát tường đại kim cang

Văn phong hướng hoá bất tư lường

Cải ác tùng thiện quả quá thác

Trực nhập pháp giới vạn Phật đường.
Tạm dịch :
Diệu thủ cát tường Ðại Kim Cang

Nghe tên phát tâm không nghĩ lường

Cải ác hướng thiện bớt tội khiên

Vào thẳng pháp giới Vạn Phật Ðường.


Giảng giải : Câu này dịch là "diệu thủ", lại dịch là "diệu cát tường", cho nên nói : ‘’Diệu thủ cát tường Ðại Kim Cang.’’ Tên của vị Kim Cang này là Diệu Thủ Cát Tường Kim Cang, ai thấy vị Kim Cang này, thì người đó sẽ phát bồ đề tâm, cho nên nói : ‘’Nghe danh phát tâm không nghĩ lường.’’ Bạn nghĩ cũng nghĩ không đến, khi nghe tên vị Kim Cang này thì sẽ cải ác hướng thiện, cho nên nói : ‘’Cải ác hướng thiện bớt tội khiên.’’ Ðem tâm ác cải thiện, sửa lỗi làm mới, thì sẽ bớt đi tội lỗi.

‘’Vào thẳng pháp giới Vạn Phật Ðường.’’ Sửa lỗi làm mới, thì sẽ vào được pháp giới Vạn Phật Ðường tu hành, nếu không cải ác hướng thiện, bớt đi lỗi lầm, thì không dễ gì tu hành trong Vạn Phật Thành, không dễ gì đứng vững được. Do đó, ai đến Vạn Phật Thành đều phải cải lỗi làm lành, thì mới nhận chân tu hành trong Vạn Phật Thành được. Nếu trong Vạn Phật Thành không sửa lỗi làm lành, thì thiên long bát bộ hộ pháp thiện thần, đều không hứa khả, không bảo hộ bạn, về sau sẽ phát sinh đủ thứ vấn đề, cho nên phàm là người đến tu tại Vạn Phật Thành, thì cử chỉ hành động tự mình quán chiếu, đi đứng nằm ngồi không rời nhà, lời nói việc làm, đều phải tự mình xem mình, quản chính mình, đừng giống như máy giặt đồ, cứ giặt đồ cho kẻ khác, đồ kẻ khác sạch mà đồ mình thì dơ bẩn. Người tại Vạn Phật Thành đừng giống như máy ảnh, cứ chụp hình cho người khác, mà không chụp cho chính mình.


222. Cu tri ta ha tát nê.
Kệ :

Câu tàng phổ giai kim cang danh

Cốt thân xá lợi giới đức doanh

Định huệ trang nghiêm ngũ sắc câu

Kiên cố bất hoại vĩnh quang minh.
Tạm dịch :
Quân Tạng đều là tên Kim Cang

Thân cốt xá lợi giới đức thừa

Ðịnh huệ trang nghiêm đủ năm màu

Kiên cố bất hoại chiếu sáng mãi.


Giảng giải : Câu này dịch là "quân", lại dịch là "tạng". Kim Cang Quân Bồ Tát và Kim Cang Tạng Bồ Tát, đều là tên của Kim Cang Bồ Tát. Lại dịch là "thân cốt", lại dịch là "xá lợi", có cốt xá lợi màu trắng, có tóc xá lợi màu đen, có thịt xá lợi màu đỏ, lại có cốt tủy xá lợi màu vàng, màu xanh, năm màu. Tại sao có xá lợi ? Vì đắc được vô lậu, tinh khí thần không lậu ra ngoài, không có chạy mất, ngưng tụ mà thành. Xá lợi trải qua ngàn kiếp mà không đổi, vạn đời mà vẫn mới, vĩnh viễn tồn tại, người tu hành giữ giới luật tinh nghiêm mới có. Cho nên nói : ‘’Ðịnh huệ trang nghiêm đủ năm màu.’’ Ðây cũng là biểu thị người tu đạo có định huệ trang nghiêm, mới có xá lợi.

‘’Kiên cố bất hoại chiếu sáng mãi.’’ Xá lợi tử còn gọi là kiên cố tử, vĩnh viễn bất hoại phóng quang minh.


223. Ðế lệ a thệ đề thị bà rị đa.
Kệ :

Kính lễ đại luân Kim Cang Thần

Thiên đầu thiên thủ thiên nhãn tôn

Oai đức nhuận trạch kiêm quán đảnh

Hộ trì hành nhân vô năng thắng.
Tạm dịch :
Kính lễ đại luân Kim Cang Thần

Ðấng ngàn đầu, ngàn tay, ngàn mắt

Oai đức nhuận trạch và quán đảnh

Hộ trì người hành vô năng thắng.


Giảng giải : Con nay ‘’Kính lễ đại luân Kim Cang Thần - Ðấng ngàn đầu, ngàn tay, ngàn mắt.’’ Vị Kim Cang này có ngàn đầu, ngàn tay, ngàn con mắt, nhìn trông thật rất kỳ quái. Tên của Ngài lại dịch là "oai đức", "nhuận trạch", "quán đảnh", cho nên nói : ‘’Oai đức nhuận trạch và quán đảnh - Hộ trì người hành vô năng thắng.’’ Lại dịch là "vô năng thắng", Ngài hộ trì người tu hành chẳng có ai có thể so sánh được.
224. Tra tra anh ca.
Kệ :

Ly chướng hành động năng thôi toại

Chư pháp vô ngại Sinh Quý Trụ

Quang minh biến chiếu hộ Tam Bảo

Ngã đẳng giới Thần cứu mê tuý.
Tạm dịch :
Lìa chướng hành động hay phá tan

Các pháp vô ngại Sinh Quý Trụ

Quang minh chiếu khắp hộ Tam Bảo

Các vị Thần giới cứu mê say.


Giảng giải : Câu này dịch là "lìa chướng", xa lìa tất cả chướng ngại, lại có một nghĩa nữa là "hành động", ý nghĩa hành động tức là lìa chướng, tức là đập tan, muốn có các hành động mới lìa chướng được, phải hành động mới đập tan được. Cho nên nói : ‘’Lìa chướng hành động hay phá tan - Các pháp vô ngại sinh quý trụ.’’ Ðến địa vị tất cả các pháp đều viên dung vô ngại, thì tại Thập Trụ chứng đến bậc Sinh Quý Trụ mới được các pháp vô ngại.

‘’Quang minh chiếu khắp hộ Tam Bảo.’’ Tất cả hộ pháp thiện thần đều phóng quang động địa, hộ trì Phật Pháp Tăng Tam Bảo.

‘’ Các vị giới thần cứu mê say.’’ Ngã đẳng thiện thần giữ gìn bảo hộ giới, và thiện thần bảo hộ Chú, đều muốn cứu thế gian, những chúng sinh mê muội quá sâu nặng, và muốn cứu chúng sinh sống say chết mộng, muốn cứu chúng sinh tham luyến lục đạo luân hồi, không biết thoát ra, chúng ta hộ giới thiện thần tức là chấp hành công việc này.
225. Ma ha bạt xà lô đà ra.
Kệ :

Đại Kim Cang chúng hộ hành nhân

Tác sư tử hống pháp lôi chấn

Sử lệnh hữu tình trừ chướng ngại

Độ tất cả khổ Bát Nhã thâm.
Tạm dịch :
Chúng Đại Kim Cang hộ người tu

Làm sư tử hống đánh trống pháp

Khiến cho hữu tình trừ chướng ngại

Bát Nhã thâm sâu độ các khổ.


Giảng giải : Ma Ha tức là "đại", Bạt Xà La là "Kim Cang", tất cả thủ hộ đại Kim Cang Tạng Bồ Tát.

‘’Chúng Đại Kim Cang hộ người tu.’’ Tám vạn bốn ngàn Đại Kim Cang Tạng Bồ Tát thường theo người thọ trì Chú Lăng Nghiêm, hộ trì họ. Vì các Ngài trong quá khứ, đã phát nguyện phải hộ trì chúng sinh nào, thọ trì Chú Lăng Nghiêm. Do đó, người nào thọ trì Chú Lăng Nghiêm, thì người đó được Kim Cang Tạng Bồ Tát đến bảo hộ.

‘’Làm sư tử hống đánh trống pháp.’’ Kim Cang Tạng Bồ Tát khắp nơi đều làm đại sư tử hống, đánh trống pháp lớn, thổi pháp loa lớn, dựng pháp tràng lớn, treo pháp phan lớn, như là sấm sét, khiến cho chúng sinh mê mộng sớm giác ngộ. Có lúc chúng sinh mê quá nặng, không thể giác ngộ, cho nên phải dùng âm thanh thật lớn, làm cho họ tỉnh dậy, khiến cho họ khoát nhiên minh bạch, mà phát đại bồ đề tâm.

‘’Khiến cho hữu tình trừ chướng ngại.’’ Tức là giáo hóa tất cả hữu tình. Hữu tình chúng sinh không dễ gì giáo hóa. Vì họ hữu tình, bạn dạy họ tu đạo, họ bị tình trói buộc, dạy họ học Phật pháp, họ lại bị vật liên lụy, đều buông bỏ chẳng đặng, bị tình ái mê hoặc, trầm luân trong biển khổ. Hộ pháp thiện thần làm cho hữu tình lìa chướng ngại.

‘’Bát nhã thâm sâu độ các khổ.’’ Khiến cho tất cả khổ não đều qua khỏi. Qua khỏi tất cả khổ, tức là xa lìa điên đảo mộng tưởng, đắc được cứu kính Niết Bàn, đó là Bát Nhã thâm sâu, tức cũng là : ‘’Quán Tự Tại Bồ Tát, hành sâu vào Bát Nhã Ba La Mật Ða, thì thấy rõ năm uẩn đều không, qua khỏi tất cả khổ ách.’’ Qua khỏi tất cả khổ ách phải có trí huệ Bát Nhã thâm sâu, không có trí huệ Bát Nhã thâm sâu, thì không thể qua khỏi tất cả khổ ách. Hộ pháp thiện thần giúp chúng ta đắc được Bát Nhã thâm sâu, đại trí huệ, bèn được lìa khổ được vui.
Học Phật pháp phải đem chân tâm ra, cử chỉ hành động lời nói, đều phải làm chân thật. Ðừng giống như người thế gian, nửa thật nửa giả, có lúc nói lời thật, có lúc nói lời giả. Người tu đạo, luôn luôn phải nói lời chân thật, làm việc chân thật, không nói dối. Mỗi một ý niệm phải trừ mao bệnh của chính mình, đem tập khí vô lượng kiếp quá khứ của mình sửa đổi, đem tội nghiệp vô lượng kiếp đến nay đều phải sám hối. Vì sao học Phật pháp rất lâu mà chẳng tương ưng ? Vì cứ che đậy tội lỗi của mình, không chịu đem chân tâm ra tu hành, do đó, làm cho thời gian trôi qua lãng phí, cũng chẳng khai mở trí huệ chân chánh, cũng chẳng đắc được định lực chân chánh. Thời gian luống qua, đạo nghiệp của mình chẳng thành tựu, đó thật là việc rất đáng tiếc. Ở trong đạo tràng, phải trân tiếc tất cả vật chất, nên thương tiếc vật thường trụ, như bảo vệ tròng mắt của mình. Vật thường trụ ví như : Cơm, gạo, dầu, muối, tương, rau .v.v… phải thương tiếc đừng phí phạm, cho đến một cọng cỏ, một khúc gỗ, một trang giấy, đều phải thương tiếc bảo vệ nó. Những điều trên đây nếu không chú ý, không biết tích phước, thì công đức đều rỉ sạch, những gì tu phước thì ít hơn là tạo nghiệp, những gì được thì ít, mất đi thì nhiều.

Lại nữa, cử chỉ hành động lời nói, đừng làm hại đến kẻ khác, miệng cũng phải tồn đức, đừng nói thêu dệt, nói dối, mắng chưởi, hai lưỡi. Miệng thì đặc biệt phải chú ý. Thân thì đừng sát sinh, đừng trộm cắp, đừng tà dâm. Ý đừng phạm tham sân si, đừng vì túi da hôi thối này mà lo lắng, tâm niệm phải vì nó mà trộm vật ăn, tâm niệm nghĩ muốn trang nghiêm cho túi da hôi thối này để dễ nhìn, tâm niệm muốn vì túi da hôi thối này mà hưởng thụ, sung sướng, đó đều là điên đảo. Chúng ta phải nghĩ vượt khỏi tam giới, thoát khỏi lục đạo luân hồi, đều phải sửa đổi tập khí, ái tình cũng phải nhìn xuyên thủng là không, mới toại tâm mãn nguyện, thành tựu được quả bồ đề.

Tu đạo không thể hưởng phước, phải nhớ vị tổ tông của Phật giáo tức là Phật Thích Ca Mâu Ni, xưa kia tu đạo là thái tử, mà Ngài từ bỏ tất cả để xuất gia tu đạo. Lấy thân thế của Ngài mà nói, tuy nhiên xuất gia vẫn có thể ăn ngon, mặc đẹp, ở chỗ tốt, thế mà Ngài không làm như thế, Ngài vào núi Tuyết, chịu khổ, chịu đói, chịu lạnh, chịu nóng, tại đó tu hành sáu năm. Trong sáu năm đó, chẳng ăn vật gì ngon, cũng chẳng đi các nơi kêu người cúng dường cho Ngài, mà chịu khổ như thế. Lấy thân phận phú quý của Ðức Phật Thích Ca, mà còn tự ý chịu khổ tu hành, còn chúng ta là thân phận gì ? Chẳng qua là người bình thường. Tại sao phải mặc tốt, ăn ngon, ở chỗ tốt, tham đồ hưởng thụ, chịu khổ chẳng được, sợ chịu khổ. Nghĩ xem so với Phật Thích Ca chúng ta đáng hổ thẹn chăng !
226. Ðế rị bồ bà na.
Kệ :

Quy y nhất thiết tam thế Phật

Chí thành đảnh lễ chư Thánh hiền

Bát vạn tứ thiên Kim Cang Tạng

Hộ trì hành nhân xuất mê duật.
Tạm dịch :
Quy y tất cả Phật ba đời

Chí thành đảnh lễ các Thánh hiền

Tám vạn bốn ngàn Kim Cang Tạng

Hộ trì người hành thoát đường mê.


Giảng giải : Ðây là "Quy mạng tất cả Phật ba đời", cảm tạ chư Phật ba đời kiến lập đàn tràng Lăng Nghiêm. Cho nên nói : ‘’Quy y tất cả Phật ba đời.’’ Chư Phật ba đời là đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai, nhiều vô lượng vô biên.

‘’Chí thành đảnh lễ các Thánh hiền.’’ Không những quy mạng chư Phật, mà cũng quy y tất cả các Bồ Tát và tám vạn bốn ngàn Kim Cang Tạng Bồ Tát, chí thành đảnh lễ hết thảy Thánh hiền. Hộ trì Chú Lăng Nghiêm có tám vạn bốn ngàn Kim Cang Tạng Bồ Tát, thường theo hai bên người hành trì.

‘’Hộ trì người hành thoát đường mê.’’ Từ ngày đầu tiên phát tâm niệm Chú Lăng Nghiêm, thì các Ngài bảo hộ bạn, theo bạn, chỉ cần bạn đừng phá giới, đừng phạm giới sát sinh, giới trộm cắp, giới tà dâm, giới nói dối, và giới uống rượu, thường giữ năm giới này, thì tám vạn bốn ngàn Kim Cang Tạng Bồ Tát thường hộ trì bạn. Nếu bạn phá giới thì Ngài chẳng hộ trì bạn nữa. Cho nên người tin Phật, có lúc tai nạn đến, bèn nói tôi tin Phật còn có tai nạn chăng ? Bạn phải biết, tuy bạn tin Phật, nhưng không giữ giới luật, không y chiếu Phật pháp tu hành, đương nhiên sẽ có nhiều tai nạn sẽ phát sinh. Vì tám vạn Kim Cang Tạng Bồ Tát không hộ trì bạn nữa. Nếu y theo pháp tu hành giữ giới, tụng trì Chú Lăng Nghiêm, thì tám vạn bốn ngàn Kim Cang Tạng Bồ Tát, thường hộ trì bạn, khiến cho bạn sớm ra khỏi sáu nẻo luân hồi.
227. Mạn trà ra.
Kệ :

Học giả ấn chứng thiết pháp đàn

Tốc thành Tam muội cứu đảo huyền

Phổ nhiếp chúng sinh ly thống khổ

Lăng Nghiêm đại định vĩnh hiện tiền.
Tạm dịch :
Giác giả ấn chứng lập pháp đàn

Sớm thành Tam muội cứu đảo huyền

Nhiếp khắp chúng sinh lìa thống khổ

Lăng Nghiêm đại định hiện tiền mãi.


Giảng giải : Mạn Trà La, vốn là đọc Mạn Ðát La, chữ Trà không nhất định phải đọc âm trà. Ở trước Bồ Bà Na dịch là "giác giả". Vị giác giả này ấn chứng đại định Lăng Nghiêm, thiết lập Lăng Nghiêm đàn tràng. Mạn Trà La tức là "một đàn tràng". Ðàn tràng Chú Lăng Nghiêm niệm : "Án Á Hồng", thì theo niệm bèn thành đàn tràng. Cho nên nói : ‘’Giác giả ấn chứng lập pháp đàn.’’ Thiết lập pháp đàn để ấn chứng cho bạn.

‘’Sớm thành Tam muội cứu đảo huyền.’’ Tụng Chú mà tụng được có chút cảm ứng, thì sẽ nhập được Lăng Nghiêm đại định. Tam muội lại gọi là chánh định chánh thọ. Bạn đắc được chánh định chánh thọ, đắc được tất cả thần thông diệu dụng, thì có thể đến thế giới cứu đảo huyền, cứu độ tất cả chúng sinh thế gian.

‘’Nhiếp khắp chúng sinh lìa thống khổ.’’ Phật Bồ Tát đều muốn chúng ta sớm lìa khổ được vui, không có tất cả mọi thống khổ. Các Ngài dùng pháp môn nhiếp thọ để nhiếp thọ tất cả chúng sinh.

‘’Lăng Nghiêm Ðại định mãi hiện tiền.’’ Thường đắc được Lăng Nghiêm đại định kiên cố này, thì thiên ma ngoại đạo không thể phá hoại được. Ðại định này luôn luôn hiện tiền, thì người hành luôn luôn đều ở trong định.


228. Ô hồng.
Kệ :

Tái sắc nhất thiết hộ pháp chúng

Phổ lệnh chư bộ các thần đồng

Thường tuỳ hành nhân sử giác ngộ

Đồng phó Long Hoa hội quần hùng.
Tạm dịch :
Sắc lệnh tất cả chúng Hộ Pháp

Khiến khắp các bộ các thần đồng

Thường hộ người hành sớm giác ngộ

Ðồng phó Long Hoa hội quần hùng.


Giảng giải : Ở trước chư Phật Bồ Tát phân phối hộ pháp, từ từ bảo hộ người tu hành. Vì Phật từ bi, cho nên lại :‘’Sắc lệnh tất cả chúng Hộ Pháp.’’ Ðặc biệt chú ý hộ trì người hành. Chúng tức là tất cả đều bao quát trong đó.

‘’Khiến khắp các bộ các thần đồng,’’ ra lệnh tất cả đồng nam đồng nữ của các bộ, tất cả Hộ Pháp.

‘’Thường hộ người hành sớm giác ngộ.’’ Luôn luôn theo tất cả người tu hành, khiến cho họ giác ngộ, ngày càng tiến bộ.

‘’Ðồng phó Long Hoa hội quần hùng.’’ Tương lai khi Bồ Tát Di Lặc thành Phật, trong ba hội Long Hoa hội kiến rất nhiều đại anh hùng thành đạo.


229. Ta tất đế.
Kệ :

Thành tựu chư pháp chánh định tụ

Viên mãn tam đức Diệu Giác Tôn

Tự độ độ tha Bồ Tát hạnh

Đăng Niết Bàn sơn Bát Nhã phong.
Tạm dịch :
Thành tựu các pháp được chánh định

Tròn đầy ba đức đấng Diệu Giác

Tự độ độ tha hạnh Bồ Tát

Lên núi Niết Bàn đỉnh Bát Nhã.


Giảng giải : ‘’Thành tựu các pháp được chánh định.’’ Sa Tất Ðế dịch là "Thành tựu các pháp", thành tựu tất cả các pháp mà đắc được tam muội, chánh định chánh thọ.

‘’Viên mãn ba đức đấng Diệu Giác.’’ Ba đức là pháp thân đức, Bát Nhã đức và giải thoát đức. Pháp thân của chúng ta là biến nhất thiết xứ, Bát Nhã đức là công đức trí huệ, cũng là biến nhất thiết xứ, giải thoát đức cũng biến nhất thiết xứ. Ba đức này đều viên mãn thì chứng được Diệu giác bồ đề, Vô thượng chánh đẳng chánh giác, cho nên xưng là ‘’ Đấng Diệu Giác.’’ Sau đó lại : ‘’Tự độ, độ tha, hạnh Bồ Tát.’’ Bồ Tát đạo là tự độ độ tha, tự lợi lợi tha, đó là hạnh của tất cả Bồ Tát tu hành.

‘’Lên núi Niết Bàn đỉnh Bát Nhã.’’ Lại nên núi Niết bàn. Núi Niết bàn tức là thường lạc ngã tịnh. Lên đến đỉnh Bát Nhã cao nhất, đỉnh trí huệ cao nhất.
230. Bạt bà đô.
Kệ :

Bà Già Bà Đế Phật Thế Tôn

Dã dịch viên mãn cập tuỳ tâm

Thiện hỉ năng nhập Lăng Nghiêm định

Vô lượng trí huệ thử trung sinh.
Tạm dịch :
Bà Già Bà Ðế Phật Thế Tôn

Cũng dịch viên mãn và tùy tâm

Thiện hỷ nhập được định Lăng Nghiêm

Vô lượng trí huệ từ đây sinh.


Giảng giải : Bạt Bà Ðô tức là "Bà Già Bà Ðế", dịch là "Phật", "Thế Tôn", cũng dịch “viên mãn” và “tùy tâm,’’ tùy tâm mãn nguyện, mong cầu gì thì được cái đó. Bạn thấy niệm Chú Lăng Nghiêm diệu vô cùng chăng ! Cầu gì được nấy, cầu lên trời thì không thể xuống đất, cầu con trai được con trai, cầu con gái được con gái.

‘’Thiện hỷ nhập được định Lăng Nghiêm.’’ Tại sao Chú Lăng Nghiêm có diệu dụng như thế ? Vì niệm Chú này, thì có thể nhập được định Lăng Nghiêm. Ðại định Lăng Nghiêm là vô định vô bất định, chẳng có lúc nào mà không ở trong định. Do đó, có câu : ‘’Na Già thường tại định, chẳng có lúc nào không ở trong định.’’ Ðịnh Lăng Nghiêm là định kiên cố, thiên ma ngoại đạo không thể phá hoại được.

‘’Vô lượng trí huệ từ đây sinh.’’ Nhập định để làm gì ? Nhập định lại có việc hoan hỷ, lại có việc sợ hãi, đều là thấy cái chưa thấy, nghe cái chưa nghe. Trong định được như như bất động, liễu liễu thường minh, không bị cảnh giới chuyển, mà chuyển được tất cả cảnh giới, đó là chỗ diệu nhập định Lăng Nghiêm. Không có định Lăng Nghiêm thì tùy cảnh giới chuyển, cái gì đến thì chạy theo nó, bị vướng mắc vào cảnh giới. Có định Lăng Nghiêm này, thì không bị cảnh giới chuyển :
"Mắt thấy sắc bên trong không dính mắc

Tai nghe âm thanh tâm chẳng biết".


"Thấy việc tỉnh việc vượt tam giới

Thấy việc mê việc đọa trầm luân".


Ở trong định thường sinh vô lượng trí huệ, cho nên định hay sinh huệ. Nếu bạn không nhập định, thì bạn không thể khai mở trí huệ.
231. Mạ mạ.
Kệ :

Ngưỡng kì Phật lực gia hộ trì

Ngã sở tác pháp lệnh viên thành

Tảo chứng bất thoái thường tinh tấn

Tuyển Thánh bạt hiền tốc đề danh.
Tạm dịch :
Ngưỡng mong Phật lực gia hộ trì

Các pháp con làm khiến viên thành

Sớm chứng bất thối thường tinh tấn

Tuyển Thánh chọn hiền sớm nêu danh.


Giảng giải : Ma Ma là "tự mẫu", nghĩa là ngưỡng mong oai lực của Phật gia bị chúng ta, khiến cho chúng ta đắc được thành tựu, cho nên nói : ‘’Ngưỡng mong Phật lực gia hộ trì.’’ Ngưỡng mong Phật lực gia trì bảo hộ.

‘’Các pháp con làm khiến viên thành.’’ Các pháp mà ta tu, như tụng trì pháp Chú Lăng Nghiêm, pháp Bốn Mươi Hai Tay và Mắt, và tu tất cả thiền định, đều sớm được viên thành. Tóm lại, Ma Ma là "Tất cả các pháp mà ta tu", sớm được thành tựu.

‘’Sớm chứng bất thối thường tinh tấn.’’ Sớm chứng được bất thối chuyển Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bất thối chuyển có ba bất thối :
1. Vị bất thối, không thối lùi về hàng nhị thừa, không thối lùi bồ đề tâm.

2. Hạnh bất thối, vĩnh viễn tu hạnh Bồ Tát.

3. Niệm bất thối, không phát tâm tiểu thừa.
Ðều hành Bồ Tát đạo, hành pháp đại thừa, đó là ba bất thối. Sớm chứng được ba bất thối này, mới thường được tinh tấn. Bằng không thì không thể thường tinh tấn được.

‘’Tuyển Thánh chọn hiền sớm nêu danh.’’ Trong sự tu hành, Phật Bồ Tát cũng phải tuyển chọn, xem chúng ta ai đủ trình độ, đáng được vào quả vị Bồ Tát, hoặc là quả vị Phật, sớm nói với chúng ta, khiến cho chúng ta đắc được quả vị bất thối, khiến cho chúng ta biết tu hành như thế nào.


232. Ấn thố na mạ mạ toả.
Kệ :

Tụng trì mặc niệm thiểu ý ngôn

Thị giáo lợi hỉ hoá đại thiên

Sở tác chư pháp tất cứu kính

Bất tăng bất giảm đáo Niết Bàn.
Tạm dịch :
Tụng trì mặc niệm bớt nói năng

Bày giáo lợi ích độ mọi người

Chỗ tu các pháp đều rốt ráo

Không tăng không giảm đến Niết Bàn.


Giảng giải : Học Chú trước hết phải chánh tâm thành ý, nếu tâm không chánh, thì học Chú gì cũng đều là tà, tâm chánh học Chú mới có cảm ứng. Tâm chánh còn chưa đủ, còn phải thành ý. Thành ý tức là niệm từ từ, tơ hào đều không cẩu thả, không thể phô diễn, lơ là, mới có cảm ứng. Nếu bạn không phải chánh tâm thành ý, mà tồn tại tà tri tà kiến, muốn đi hại người, tức là ma pháp, là pháp của ma vương thực hành, ma là hại người không lợi người. Người chân chánh muốn tu pháp dưới bất cứ hình thức nào, cũng không được hại người, phải tồn tại tâm lợi ích chúng sinh. Ðừng có tư tưởng học Chú vì để hàng phục ma quỷ, hoặc là khởi tâm đối đãi với kẻ khác.

Trong Phật giáo không có kẻ địch, không trả thù với bất cứ người nào. Tức là bất cứ ai đối với mình có chỗ không tốt, cũng phải nhẫn nại, tu nhẫn nhục Ba la mật, không sinh tâm báo thù, đó là chỗ cao siêu của Phật giáo. Các tôn giáo khác chẳng có tinh thần như thế. Tuy Gia Tô Giáo nói ái địch, nhưng chỉ bất quá nói ngoài miệng mà thôi. Họ thật ái địch chăng ? Họ cho rằng Phật giáo là kẻ địch của họ. Họ ái Phật giáo chăng, tuyệt đối không. Họ mở miệng thì là ‘’ma quỷ’’, câm miệng cũng là ‘’ma quỷ.’’

Tông chỉ của Phật giáo quan trọng hơn hết là, dù bạn là ma quỷ, tôi tuyệt đối cũng không hại bạn, cũng nhiếp thọ bạn, mà không sinh một thứ pháp đối đãi, đó là giáo nghĩa đặc biệt nhất của Phật giáo, đối với bất cứ chúng sinh nào, cũng đều có tâm từ bi, không hại họ.

Chú Lăng Nghiêm là kinh thiên địa, khốc quỷ thần, là linh văn hữu hiệu nhất, cho nên chúng ta học được Chú Lăng Nghiêm, thì phải luôn luôn lúc nào cũng có tâm từ bi, khởi tâm động niệm đều không đi hại người. Người khác đối với mình không tốt như thế nào, cũng không ghét họ, cũng không hại họ.

Tâm lượng phải lớn như ba ngàn đại thiên thế giới, đem tất cả sum la vạn tượng đều bao quát trong đó, đó mới là bổn phận của Phật giáo đồ. Chúng ta nên nhớ đừng có hành vi phạm thượng, làm loạn, có những thứ hành vi như thế rất là nguy hiểm.
Ấn Thố Na dịch là "Tụng trì", lại dịch là "mặc niệm", lại dịch là "thiểu ý ngôn". Tức là đừng nói nhiều lời, đừng khởi nhiều vọng tưởng. Chuyên nhất thì linh, phân chia thì tán. Thế nào là chuyên nhất ? Tức là không sinh tâm hại người, nếu tồn tâm hại người, tương lai rất là nguy hiểm. Do đó, có câu : ‘’Làm nhiều điều bất nghĩa, thì đưa mình đến chỗ nguy,’’ hại người trở lại hại mình. Giết cha người, thì người giết cha mình, giết anh người, thì người giết anh mình, đó là nhân quả. Chúng ta là Phật giáo đồ, phải tránh nhân ác, nếu không thì tương lai sẽ thọ lấy quả báo ác. Cho nên nói : ‘’Tụng trì mặc niệm bớt nói năng - Thị giáo lợi hỷ hóa đại thiên.’’ Câu này lại dịch là "thị giáo", "lợi hỷ", chỉ bày chúng sinh Phật giáo, khiến cho họ đắc được lợi ích hoan hỷ. Do đó nhìn lại, chúng ta muốn lợi ích người, thì phải khẩn trương lợi ích người. Có câu rằng :
‘’Tài bồi mảnh đất trong tâm

Nuôi lớn bầu trời bản tánh.’’


Thường lợi ích người khác, lâu dần thì có đức hạnh. Chẳng phải cứ kêu người lợi ích cho mình, còn mình thì chẳng lợi ích cho người, dưỡng thành một thứ tánh ỷ lại, cứ muốn tìm tiện nghi. Thấy những người trên thế gian, chuyên tìm tiện nghi, kết quả đều thất bại. Nếu bạn không tin, thì hãy nghiên cứu tỉ mỉ, bất cứ người nào thất bại, đều là tham mà không biết chán, đi khắp nơi tìm tiện nghi, kết quả đều thất bại. Bạn thường lợi ích người, khiến người hoan hỷ, thì bất cứ đến đâu người đều theo đó mà sửa đổi. Khổng Tử có nói :
‘’Lời nói phải trung tín

Hành vi phải thuần kính.’’


Nói ra lời gì, phải thành thực có tín dụng, không thể trừng mắt cứ nói dối, giống như là lời thật, nhưng thật ra cứ lường gạt người. Hành vi nhất định phải thành thật, thuần hậu, tự hạ mình cung kính tất cả. Ðều phải tồn tâm khiêm cung hòa nhã, đừng có tư tưởng cống cao ngã mạn, cảm thấy ai ai cũng không bằng mình, như thế thì không thể được.




LE MANTRA SHURANGAMA



Каталог: upload -> file
file -> TÀi liệu hưỚng dẫn sử DỤng dịch vụ HỘi nghị truyền hình trực tuyếN
file -> SỰ tham gia của cộng đỒng lưu vực sông hưƠNG, SÔng bồ trong xây dựng và VẬn hành hồ ĐẬp thủY ĐIỆN Ở thừa thiêN – huế Nguyễn Đình Hòe 1, Nguyễn Bắc Giang 2
file -> Tạo Photo Album trong PowerPoint với Add In Album
file -> Thủ tục: Đăng ký hưởng bảo hiểm thất nghiệp. Trình tự thực hiện: Bước 1
file -> CỦa chính phủ SỐ 01/2003/NĐ-cp ngàY 09 tháng 01 NĂM 2003
file -> CHÍnh phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập Tự do Hạnh phúc
file -> BỘ TÀi chính số: 2114/QĐ-btc cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
file -> Nghị ĐỊnh của chính phủ SỐ 33/2003/NĐ-cp ngàY 02 tháng 4 NĂM 2003 SỬA ĐỔI, BỔ sung một số ĐIỀu củA nghị ĐỊnh số 41/cp ngàY 06 tháng 7 NĂM 1995 CỦa chính phủ
file -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam kho bạc nhà NƯỚC Độc lập Tự do Hạnh phúc

tải về 1.32 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   16




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương