TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiêN



tải về 0.74 Mb.
trang2/14
Chuyển đổi dữ liệu13.08.2016
Kích0.74 Mb.
#18507
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14

ĐẶT VẤN ĐỀ


Trong những năm 1960s trên thế giới và vài năm gần đây tại khu vực châu Á trong đó có Trung Quốc và Việt Nam, luôn có sự cảnh báo về tầm nghiêm trọng của vi khuẩn Streptococcus suis (S. suis) như một tác nhân gây bệnh nguy hiểm cho người và có tiềm năng gây các vụ bùng phát dịch.

Tại Việt Nam, nhiễm trùng cấp tính ở người do S. suis đã và đang được coi là một bệnh nhiễm trùng mới nổi, có khả năng gây tỷ lệ tử vong và di chứng cao. Rất nhiều trường hợp mắc bệnh có các biểu hiện lâm sàng rất nặng như: nhiễm khuẩn huyết, viêm màng não có ban xuất huyết và hoại tử, hội chứng sốc nhiễm trùng nhiễm độc liên cầu. Số liệu lâm sàng sơ bộ của một số viện và bệnh viện lớn như Viện Các Bệnh truyền nhiễm và Nhiệt đới Quốc gia, Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Trung ương Huế đã cho thấy S. suis là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây bệnh nhiễm khuẩn huyết và viêm màng não mủ ở người lớn tại Việt Nam.

Ở các nước có nền kinh tế phát triển, việc chẩn đoán S. suis bởi các kỹ thuật nuôi cấy phân lập kinh điển hoặc phát hiện kháng nguyên đặc hiệu bằng các kỹ thuật miễn dịch học, thậm chí các kỹ thuật sinh học phân tử rất phổ biến.

Ở Việt Nam, vì sự không đồng bộ về cơ sở vật chất, trang thiết bị cũng như sự không ổn định về kỹ năng thực hành chẩn đoán phòng thí ngiệm, những phương pháp sinh học phân tử hiện đại nhằm chẩn đoán S. suis rất khó có thể áp dụng rộng rãi. Tuy nhiên trong các phương pháp hiện đại, nhanh và chính xác, phương pháp PCR đa mồi (nhân gen đa mồi) là phương pháp có tính khả thi hơn cả về mặt kinh tế và kỹ năng thực hiện so với phương pháp PCR định lượng (Real time PCR). Với phương pháp PCR đa mồi, chúng ta có thể đồng thời phát hiện được sự có mặt của vi khuẩn S. suis, xác định được typ huyết thanh (typ 2) và có thể một hoặc vài gen độc lực của vi khuẩn. Phương pháp này giúp tiết kiệm sinh phẩm, thời gian, công sức và có độ đặc hiệu cao.

Chính vì vậy, chúng tôi đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu phát triển và hoàn thiện quy trình PCR đa mồi để phát hiện trực tiếp Streptococcus suis từ dịch não tủy của người” với 2 mục tiêu chính sau đây:

- Xây dựng quy trình PCR đa mồi phát hiện trực tiếp S. suis ở bệnh phẩm người;



- Xây dựng quy trình xử lý bệnh phẩm đơn giản, dễ thực hiện để bộc lộ DNA của S. suis.

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN

1.1. GIỚI THIỆU VỀ Streptococcus suis.suis

1.1.1. Giới thiệu chung


Streptococcus suis là vi khuẩn Gram dương, kỵ khí tùy tiện, kích thước khoảng 1µm, không có lông, không sinh nha bào. Trong bệnh phẩm, chúng thường xếp thành chuỗi hoặc thành đôi (Hình 1.1). S.suis có yếu tố quyết định kháng nguyên liên quan đến nhóm D theo phân loại của Lancefield, mặc dù về mặt di truyền, vi khuẩn này không có sự liên quan đến thành viên khác của nhóm này. Thời điểm ban đầu, theo hệ thống phân loại của Lancefield, S. suis thuộc nhóm R, S và T tương ứng với các type huyết thanh 2, 1 và 15 [36]. Nhưng đến năm 1995, dựa vào cấu trúc vỏ các nhà khoa học đã nghiên cứu được S.suis có tổng cộng 35 type huyết thanh (từ typ 1 đến typ 34 và typ 1/2 ) [48] nhưng typ 32 và 34 vừa được chứng minh là Streptococcus orisratti. Mặc dù vậy, các chủng gây bệnh cho người đáng chú ý là typ 1, 2, 14, chúng có thể thay đổi theo vùng và theo thời gian [50]. Nhưng typ 2 gây bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng ở lợn và là kiểu huyết thanh phổ biến nhất ảnh hưởng đến con người rộng rãi trên toàn thế giới, có rất ít trường hợp gây bệnh ở người do typ 1 và typ 14.


Hình 1.1: Vi khuẩn liên cầu lợnliên cầu khuẩn lợn qua kính hiển vi điện tử
(http://genome.jgi-psf.org/strsu/strsu.home.html)

Vi khuẩn S. suis phát triển trong điều kiện môi trường có 5- 10% CO­2, mọc trên các môi trường nuôi cấy giàu chất dinh dưỡng như môi trường thạch máu, thạch Chocolate, nhưng mọc tốt nhất trên môi trường Columbia, nhiệt độ thích hợp 370C, nhưng có thể phát triển được ở một khoảng nhiệt độ rất rộng 10 – 450C, pH thích hợp 7–7,2. Sau 24 giờ, ở 370C, vi khuẩn mọc tạo những khuẩn lạc nhỏ, tròn, lồi, bờ đều, màu xám hoặc trong suốt, hơi nhầy.

S. suis gây tan huyết dạng alpha trên môi trường thạch máu cừu và tan huyết dạng beta trên môi trường thạch máu ngựa (Hình 1.2).


Hình 1.2: Khuẩn lạc S. suis trên môi trường thạch máu cừu và thạch máu ngựa

Mặc dù chức năng của 20-30% bộ gen chưa được biết nhưng nhiều gen đóng vai trò trong bệnh sinh nhiễm trùng đã được nghiên cứu. Đó là những gen chịu trách nhiệm sản xuất polysacarit, vận chuyển vỏ, các yếu tố hạn chế sắt, yếu tố ly giải, các protein liên quan đến độc lực, các enzym, hệ thống arginine deminase và các protein gắn IgG. Có 17 chủng S. suis đã được giải trình tự gen. Tùy từng chủng, bộ ben có kích thước từ 2,01 đến 2,18 Mb với tỷ lệ GC từ 41 đến 41,7%. Trong bộ gen của 17 chủng chứa từ 1607 đến 2427 gen và có từ 1559 đến 2334 loại protein (Bảng 1.1).
Bảng 1.1. Hệ gen của một số chủng Sreptococcus suis

Chromosomes [13]   Scaffolds or contigs [3]   SRA or Traces [0]   No data [1]

TT

Vi sinh vật

Tình trạng

Chr

Plasmids

KT (Mb)

GC%

Gene

Protein

1

S. suis 05ZYH33



1

-

2.1

41.1

2,254

2,186

2

Streptococcus suis P1/7



1

-

2.01

41.3

2,011

1,824

3

Streptococcus suis BM407



1

1

2.17

41

2,136

1,947

4

Streptococcus suis 98HAH33



1

-

2.1

41.1

2,253

2,185

5

Streptococcus suis A7



1

-

2.04

41.2

2,064

1,974

6

Streptococcus suis D12



1

-

2.18

41.3

2,190

2,078

7

Streptococcus suis D9



1

-

2.18

41

2,196

2,074

8

Streptococcus suis GZ1



1

-

2.04

41.4

2,047

1,977

9

Streptococcus suis JS14



1

-

2.14

41.2

2,174

2,066

10

Streptococcus suis SC84



1

-

2.1

41.1

2,068

1,898

11

Streptococcus suis SS12



1

-

2.1

41.2

2,161

2,079

12

Streptococcus suis ST1



1

-

2.03

41.4

2,097

1,987

13

Streptococcus suis ST3



1

-

2.03

41.3

2,053

1,952

14

Streptococcus suis 05HAS68



-

-

1.64

41.7

1,607

1,559

15

Streptococcus suis 89/1591



-

-

2.14

41.1

2,162

2,119

16

Streptococcus suis R61



-

-

2.39

41.2

2,427

2,334

17

Streptococcus suis S735



-

-

-

-

-




Nguồn: NCBI > Genomes & Maps > Genome

1.1.2. Một số yếu tố độc lực chính của vi khuẩn liên quan đến chẩn đoán


*V polysacarit của vi khuẩn

S. suis có lớp vỏ polysacarit chắc chắn (capsular polysaccharide - cps). Việc định typ huyết thanh vi khuẩn dựa trên cấu trúc kháng nguyên của lớp vỏ này. Trong các loại typ huyết thanh, các typ 1,2,7 và 9 được cho là có liên quan nhiều hơn đến bệnh nhiễm trùng liên cầu lợnliên cầu khuẩn lợn. Tuy nhiên, khả năng nhiễm đa typ cũng có thể xảy ra. Lớp vỏ typ 1 bao gồm các loại đường: Galactose, glucose, N-acetyl glucosamine, N-acetyl galactosamine và sialic acid. Ở typ 2, N-acetyl glucosamine được thay thế bằng rhamnose. Đặc điểm cấu trúc của lớp vỏ các typ khác chưa được nghiên cứu sâu.

*Suilysin

Suilysin là một yếu tố gây tan huyết được mã hóa bởi gen sly của S. suis. Protein suilysin thuộc nhóm các độc tố kết hợp với cholesterol và có độ tương đồng cao với pneumolysin (yếu tố ly giải tế bào của Streptococcus pneumoniae).

Gen sly có mặt ở hầu hết các typ. Nghiên cứu của Takamatsu và cs (2002) cho rằng gen sly có thể có nguồn gốc ngoại lai. Suilysin có khả năng gây tổn thương tế bào và làm tăng khả năng xâm nhập của vi khuẩn (thí nghiệm được tiến hành in vitro sử dụng các tế bào biểu mô và các tế bào miễn dịch). Ngoài ra, suilysin còn có thể "khởi động" cho quá trình sản xuất và tác động của các cytokine. Thí nghiệm sử dụng các dạng đột biến của sly cho thấy mức độ ảnh hưởng khác nhau của suilysin tùy thuộc vào vật chủ, loại tế bào và loại đột biến.

Tuy kháng thể chống suilysin có tác dụng bảo vệ nhất định, các thử nghiệm gây nhiễm trên động vật với các chủng mang suilysin cho rằng suilysin không phải là yếu tố thiết yếu cho độc lực của liên cầu khuẩn.

*Hệ thống Arginine deminase

Năm 2002 Winterhoff và các cộng sự đã xác định được 2 protein bề mặt vi khuẩn có kích thước 47 kDa và 53 kDa. Hai protein này có mức độ tương đồng cao với hệ thống arginine deminase (ADS) của S. pyogenes. Protein 47 kDa tương đồng với ornithine carbamoyl transferase còn 53 kDa tương đồng với streptococcal acid glycoprotein (SAGP).

ADS là hệ thống enzym cung cấp ATP từ quá trình biến đổi arginine thành ornithine. Hoạt động của ADS có thể xảy ra ở độ pH thấp. Hệ thống ADS có mặt trong tất cả các chủng vi khuẩn S. suis

*Protein được giải phóng do muramidase (muramidase-released protein; mrp) và yếu tố ngoại bào (extracellular factor- ef)

Hai yếu tố mrpef hiện diện ở hầu hết các chủng vi khuẩn phân lập từ động vật bị bệnh nhưng tần số xuất hiện của chúng không cao ở các động vật truyền bệnh. Ở các chủng gây bệnh trên người, một số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ 69, 6% số chủng phân lập được mang gen mrp.



Mrpef cũng được coi là các yếu tố chỉ thị cho S. suis typ 2. Các chủng vi khuẩn có độc lực yếu cũng có khả năng sản sinh mrp và biến thể của ef (ký hiệu là ef*). Với các chủng thuộc typ 2, 5 allen của gen mã hóa ef đã được xác định. Biến thể mrp nhỏ (small mrp; mrps) hiện diện ở typ 1 và mrp lớn (large mrp; mrp*) có mặt ở typ 9. Các chủng Canada không có mrpef. Đã có nghiên cứu gây nhiễm trên lợn cho rằng typ 1 và 2 do đột biến thiếu hoàn toàn hai protein này có độc lực chẳng khác gì vi khuẩn thể hoang dại. Tuy vậy vai trò của chúng trong đáp ứng miễn dịch vẫn cần được làm sáng tỏ bằng các thí nghiệm gây nhiễm thực nghiệm.

*Các yếu tố độc lực khác

Chúng ta đã biết rằng rất nhiều yếu tố có liên quan và chịu ảnh hưởng ở những giai đoạn khác nhau của quá trình bệnh lý. Cũng như vậy, đối với vi khuẩn S. suis, gần 40 gen khác nhau đã được tìm thấy (theo Smith và cs, 2001). Các gen này mã hóa cho các protein có chức năng như: yếu tố điều hòa, vận chuyển, đảm nhận chức năng đối với quá trình sinh lý của bản thân vi khuẩn và cả các nhóm chưa xác định được chức năng. Một nghiên cứu gây nhiễm bằng chủng S. suis có độc lực yếu và bổ sung thêm các gen từ các chủng gây bệnh đã tìm thấy chuỗi nucleotide có kích thước 3kb mang thông tin quan trọng liên quan đến độc lực của vi khuẩn.

Năm 2004, Allen và cs. đã xác định yếu tố làm tan có khả năng hỗ trợ cho sự xâm nhập của vi khuẩn qua tác động đến acid hyaluronic (tương tự như tác động của nhiều loại vi khuẩn khác).

1.1.3. Cơ chế gây bệnh của S.suis


Quá trình xâm nhập

Cơ chế xâm nhập của S. suis vào vật chủ ít được biết đến. Các tác nhân gây bệnh có thể tồn tại trong amidan lợn trong thời gian dài. Mô lympho của amidan được bao phủ bởi các biểu mô niêm mạc. Đặc biệt ở lợn, diện tích bề mặt vòm miệng tăng đáng kể do biểu mô lõm sâu trong các mô bạch huyết hình thành rất nhiều phân nhánh [49]. Có thể là sau khi bám dính và xâm nhập vào các tế bào biểu mô amidan, vi khuẩn vẫn chưa bị phát hiện bởi hệ thống miễn dịch. Tuy nhiên, vẫn chưa có nghiên cứu nào giải thích việc làm thế nào S. suis có thể vượt qua hàng rào bảo vệ đầu tiên của vật chủ để gây bệnh. Giả thuyết được chấp nhận nhất hiện nay là các tác nhân gây bệnh làm thủng biểu mô niêm mạc trong đường hô hấp trên của lợn [21]. Tương tự như vậy, đối với con người, S. suis có thể tương tác với các tế bào biểu mô ở bề mặt biểu bì hoặc trong ruột [22, 31]. Có rất ít nghiên cứu về cơ chế tương tác giữa S. suis và các tế bào biểu mô, ngoại trừ tế bào biểu mô của đám rối màng mạch. Nó đã được báo cáo rằng các chủng độc lực của S. suis có thể bám vào các tế bào biểu mô đường hô hấp của người (hình 1) [6, 32, 44]. Các chất bám dính trên bề mặt của S. suis có thể bị cản trở bởi vỏ polysaccharide (CPS) của chúng. Sự bám dính và sự xâm nhập của S.suis vào tế bào biểu mô HEP-2 ở người diễn ra mạnh mẽ hơn ở những chủng không có vỏ đã được báo cáo bởi Benga et al [6]. Vì vậy, điều đó có thể được đưa ra giả thuyết rằng S. suis giảm sự biểu hiện của CPS trong các bước đầu của quá trình lây nhiễm. Giả thuyết này cần được nghiên cứu sâu hơn.



S. suis tương tác với các thành phần của chất nền ngoại bào (ECM) như fibronectin và plasminogen [16]. Các protein Fbps liên kết với fibronectin của người và fibrinogen khi thực hiện trong phòng thí nghiệm [14]. Tuy nhiên, khi làm đột biến gen fbps không làm giảm khả năng liên kết với fibronectin của người [16], điều này cho thấy tồn tại khả năng dự phòng của vi khuẩn này trong quá trình liên kết với các ECM. Thử nghiệm lây nhiễm các chủng đột biến fbps cho thấy Fbps không cần thiết cho sự xâm nhập của vi khuẩn vào amidan của lợn (bước đầu tiên của nhiễm trùng) nhưng nó có thể đóng vai trò trong quá trình xâm nhập vào cơ quan khác [14]. Enolaza ở bề mặt của vi khuẩn có vai trò trong sự liên kết giữa vi khuẩn và plasminogen [42]. Enolaza của S. suis không chỉ liên kết với plasminogen mà còn liên kết với cả fibronectin. Enolaza của S. suis biểu hiện cao trong cơ thể lợn bị bệnh sẽ gây đáp ứng sản xuất kháng thể, mặc dù tiềm năng để enolaza được biết đến như là một kháng nguyên bảo vệ vẫn còn gây tranh cãi [15, 58]. Gần đây, một dipeptidylpeptidase (DppIV) của S. suis cũng được chứng minh là tương tác với fibronectin của người, tính độc hại của một chủng bị đột biến thiếu dppIV bị suy yếu đáng kể [18]. Sự liên kết của S. suis với collagen cũng đã được báo cáo [16]. Chủng S. suis bị đột biến mất sortase SrtA cũng làm giảm khả năng bám dính với protein ECM [55], điều này cho thấy các peptidoglycan cũng rất quan trọng đối với sự tương tác của các tác nhân gây bệnh này với các protein ECM.

Nhiều nhà nghiên cứu đã sử dụng sự bám dính của vi khuẩn vào tế bào biểu mô như là một mô hình để đánh giá các yếu tố độc lực. Một loại enzyme với hoạt tính 6-phosphogluconate-dehydrogenase, amylopullulanase, tất cả đều góp phần vào sự bám dính của S. suis vào tế bào biểu mô [17]. Đột biến mất các yếu tố điều hòa 2 thành phần CiaRH hoặc điều hòa phiên mã RevSC21 và CovR cũng làm cho sự bám dính của S.suis vào tế bào biểu mô bị suy giảm đáng kể [46, 57]. Tuy nhiên, cơ chế của hiện tượng này vẫn chưa được biết đến.

Ngoài các chất bám dính như trên thì suilysin rất độc hại cho tế bào [21]. Suilysin là một hemolysin 54-kDa, là một chất độc có hoạt tính thiol tác dụng vào cholesterol trong màng của các tế bào có nhân điển hình [20]. Tuy nhiên, các chủng không sản xuất suilysin cũng có thể để đi đên các mạch máu và khuếch tán trong cơ thể vật chủ.

IgA đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ chống lại các tác nhân gây bệnh ở niêm mạc. Vi khuẩn có khả năng sản xuất IgA protease để hạn chế số lượng của IgA chức năng. Chúng cũng có thể tận dụng lợi thế của các mảnh Fab sinh ra để tăng cường sự kị nước bề mặt (và do đó bám dính vào tế bào vật chủ) và ngăn sự xâm nhập của các kháng thể còn nguyên vẹn (hình 1) [42]. Gần đây, một báo cáo đã cho thấy S. suis sản xuất IgA1protease có khả năng hiệu quả trong việc phá hủy IgA1 của người [59].



Sự tồn tại của vi khuẩn trong máu và sự lây nhiễm

Như đã đề cập ở trên, sự xâm nhập của vi khuẩn hoặc làm tổn thương tế bào có thể được coi là bước đầu tiên của sự phát triển bệnh. Giả thuyết cho rằng S. suis có thể xâm nhập vào hệ thống tuần hoàn chủ yếu qua các amiđan vòm miệng, sau khi bám dính và xâm nhập vào các tế bào biểu mô và tương tác với các tế bào tủy [42]. Khi S. suis xâm nhập vào các mô bên trong và máu, đó là nguyên nhân chính để kích hoạt sự hoạt động của các tế bào thực bào của hệ thống miễn dịch bẩm sinh. Tuy nhiên, khi kháng thể đặc hiệu không có mặt, S. suis có thể chống lại thực bào và tồn tại trong máu ở nồng độ cao và gây viêm. Vi khuẩn tồn tại chủ yếu phụ thuộc vào việc sản xuất các CPS. CPS bảo vệ S. suis khỏi bạch cầu trung tính và thực bào đơn nhân/đại thực bào [19]. Nghiên cứu về cấu trúc CPS của S. suis týp huyết thanh 2 gần đây cho thấy sự có mặt của galactose (Gal), Gal liên kết 6, Gal liên kết 3, 4, N-acetyl-glucosamine (GlcNAc4) liên kết 4, và rhamnose liên kết 3, 4. CPS của S. suis tương tự như liên cầu khuẩn nhóm B (GBS), cũng có chứa N-acetyl-neuraminic acid (sialic acid) liên kết với phía cuối của chuỗi CPS. Tuy nhiên, trong khi axit sialic của GBS là liên kết 2-3 Gal, S. suis là 2-6 Gal [42]. Acid sialic đã được chứng minh là quan trọng trong việc ngăn ngừa sự bám dính của protein C3 trên bề mặt của GBS và cho phép cho GBS kháng lại sự tiêu giệt trong tế bào phụ thuộc opsonin [42]. Một vai trò như vậy vẫn chưa được chứng minh đối với axit sialic của S. suis. Một thí nghiệm tạo ra chủng đột biến mất gen neuC đã được thực hiện (neuC mã hóa epimerase UDP GlcNAc cần thiết cho quá trình sinh tổng hợp acid sialic), kết quả là ngăn cản toàn bộ quá trình lắp ráp, biểu hiện của CPS. Điều đó đã chứng minh rằng axit sialic đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình gây bệnh của S.suis [42].Các chủng type huyết thanh khác mà lớp vỏ capsit cũng chứa axít sialic như các type huyết thanh 1 và 16, đôi khi cũng gây bệnh ở người [42]. Axít sialic cũng đã được chứng minh liên quan đến việc bám dính của S. suis với bạch cầu đơn nhân, vì thế giả thuyết được đặt ra là các tác nhân gây bệnh sẽ di chuyển trong máu mà không liên kết với các tế bào thực bào này [21] . Cuối cùng, một giả thuyết về sự bắt chước cấu trúc phân tử đã được đề xuất [19], dựa trên thực tế là axit sialic liên kết 2-6 được tìm thấy trong vỏ capsit của type huyết thanh 2 và 14 [42] tương tự như đường epitope trên bề mặt của tất cả các tế bào động vật có vú [22]. Điều này có thể dẫn đến việc nhận biết kháng nguyên của vật chủ bị ảnh hưởng. Trong thực tế, S. suis kiểu huyết thanh 2 đã được báo cáo là khi nhiễm vào vật chủ gây đáp ứng miễn dịch kém ở cả lợn và ngựa. [42].



Mặc dù vai trò của CPS rất quan trọng góp phần vào sự hình thành nên tính độc của S.suis. Nhưng thực tế là một chủng có vỏ capsit không có nghĩa là chủng có độc tính. Điều này đã chỉ ra rằng sự tồn tại trong máu của S.suis không chỉ dựa vào lớp vỏ capsit mà còn dựa vào nhiều yếu tố khác. Thực tế, những chủng có vỏ nhưng không có độc lực có thể chỉ tồn tại trong máu trong vòng 48h, các chủng có độc lực có thể tồn tại trong vài ngày. Khả năng chống lại sự thực bà của vi khuẩn còn liên quan đến quá trình biến đổi thành tế bào peptidoglycan bằng N-deacetylation. Một chủng đột biến có vỏ capsit nhưng không có PgdA deacetylase, chịu trách nhiệm làm biến đổi peptidoglycan bị giảm khả năng kháng lại bạch cầu trung tính khi thí nghiệm trên các mô hình lây nhiễm ở chuột và lợn. Tương tự như vậy, D-alanylation của axít lipoteichoic (LTA) đóng một vai trò quan trọng trong sự tồn tại của tác nhân gây bệnh này (hình 2) [42]. Một chủng đột biến không có D-alanine của LTA nhạy cảm hơn với peptide kháng khuẩn và bị giết chết bởi bạch cầu trung tính của lợn, chuột. Ngoài ra các cấu trúc thành tế bào lớn, nhiều protein bề mặt làm tăng khả năng tạo các kháng thể và tăng khả năng bị thực bào [42, 58]. Tuy nhiên, các cơ chế hoạt động của các protein này, vai trò của chúng vẫn còn chưa biết. Mặc dù chủng không có suilysin có thể là chủng độc lực và tồn tại trong máu, nhưng các chủng có suilysin có tính độc cao hơn với bạch cầu đơn nhân và bạch cầu trung tính [42]. Hơn nữa, sự tồn tại của suilysin làm giảm thực bào và giết chết S. suis [42].

S. suis yêu cầu các chất dinh dưỡng bao gồm cả các nguyên tố kim loại, có hàm lượng tương đối thấp trong vật chủ. AdcR, một yếu tố phiên mã liên cầu khuẩn tương đồng với Zur điều hòa sự hấp thu kẽm và Fur điều hòa sự hấp thu sắt điều. Cả hai yếu tố này quan trọng cho sự sống còn S. suis trong cơ thể [42]. Ngoài ra, một dòng đột biến không có yếu tố vận chuyển sắt (FeoB) đã bị suy giảm khả năng sống sót trong một mô hình thí nghiệm trên chuột lây nhiễm. [42]. Sử dụng trong công nghệ biểu hiện trong cơ thể sống đã khám phá các gen cpsA, mã hóa một yếu tố giả định điều hòa sinh tổng hợp của CPS và IRI-7, đồng đẳng với rpgG của liên cầu, một gen liên quan đến quá trình sinh tổng hợp vỏ capsit [ 52]. Giả thuyết được đề xuất là CPS của S. suis trở nên dày hơn sau khi tăng trưởng trong cơ thể, sắt tự do khan hiếm, làm tăng cường sự điều hòa biểu hiện của cps2A và rpgG có thể xảy ra ​​[52]. Mặc dù đây là một giả thuyết hấp dẫn, một sự liên quan rõ ràng giữa sự thiếu sắt và sản xuất CPS vẫn còn phải được xác minh. Trong thực tế, có báo cáo cho rằng S. suis có thể thích nghi với môi trường bị hạn chế sắt bằng cách thay đổi trong chuyển hóa của nó, thay thế sắt bằng mangan, magiê [42]. Ngoài ra, lipoprotein TroA cần thiết cho sự tăng trưởng S. suis trong các môi trường có mangan thấp, lipoprotein này rất quan trọng cho sự sống còn của vi khuẩn trong cơ thể. Gần đây, các nhà nghiên cứu đã tiến hành thí nghiệm làm bất hoạt làm mất lipoprotein tham gia trong sự hấp thu kẽm, kết quả độc tính bị giảm 50 lần so với chủng ban đầu.

Superoxide dismutase (Sod) là một yếu tố độc lực của vi khuẩn gây bệnh bằng cách làm giảm quá trình oxy hóa của tế bào thực bào. Khung đọc mở SSU1356 của một chủng SS2 lâm sàng ZJ081101 mã hóa một loại protein trên 201 axit amin khác 81 – 88% so với các Streptococcus spp. Thí nghiệm đột biến làm mất gen sod (Δsod) từ chủng lâm sàng được thực hiện. Kết quả cho thấy, các chủng bị đột biến mất gen sod dễ bị oxy hóa hơn các chủng hoang dại. Một thí nghiệm khác cũng chứng minh độc lực của chủng SS2 bị suy giảm đáng kể ở chuột khi bị đột biến mất gen sod [42].



Hiện tượng viêm và sốc nhiễm trùng

Hoạt động của hệ thống miễn dịch trong khi vật chủ bị lây nhiễm vi sinh vật nói chung là bảo vệ, sốc nhiễm trùng như là một hệ quả của phản ứng miễn dịch quá mức hoặc quá yếu của vật chủ. Một phản ứng không cân bằng có thể gây tổn hại cho vật chủ do quá trình tiết các hợp chất tạo viêm nội sinh không được kiểm soát. Bằng chứng là hội chứng sốc độc cũng như các trường hợp sốc nhiễm trùng ở châu Âu và châu Á gây ra do S. suis (với thời gian ủ bệnh ngắn, tiến triển bệnh nhanh chóng và tỷ lệ tử vong cao), một chất trung gian quan trọng trong giai đoạn tiền viêm được sản xuất khi toàn bộ hệ thống bị nhiễm S. suis [22]. Như vậy, khả năng sản xuất cytokine của S. suis có thể đóng vai trò quan trọng. Trước đây chủng độc lực S.suis týp huyết thanh đã được chứng minh có khả năng sản xuất các cytokine tiền viêm ở lợn, chuột và người. Điều này được chứng minh trong cơ thể sống trên mô hình chuột bị nhiễm S. suis với giai đoạn sớm là sốc nhiễm trùng và giai đoạn muộn là viêm màng não / viêm não [42]. Các mức độ cao của cytokine hệ thống TNF-α, IL-6 và IL-12, IFN-γ và chemoattractants CCL2/MCP-1, CXCL1/KC, và CCL5/RANTES quan sát thấy trong cơ thể trong vòng 24 giờ sau khi nhiễm được cho là chịu trách nhiệm về cái chết ban đầu của động vật. Sự tăng cường điều chỉnh Cytokine IL-10 được thực hiện sau sự sản xuất mạnh mẽ của hầu hết các cytokine tiền viêm, chỉ ra một cơ chế liên hệ ngược âm tính để kiểm soát mức độ của phản ứng viêm.

Hầu hết các yếu tố của S.suis liên quan đến hiện tượng viêm ở vật chủ vẫn chưa được biết. Nhiều nghiên cứu với các đột biến làm mất vỏ capsit chỉ ra các thành phần thành tế bào vi khuẩn là các yếu tố chính cảm ứng sản xuất cytokine nhưng cơ chế vẫn chưa được nghiên cứu. Lipoprotein có mặt trong thành tế bào có thể một phần chịu trách nhiệm về sự nhận dạng của thụ thể trên tế bào [42]. Rất gần đây, nó đã được chỉ ra rằng một prolipoprotein giả định diacylglyceryl transferas có mặt trong thành tế bào S. suis là cần thiết để kích hoạt hệ thống miễn dịch bẩm sinh [42]. Tuy nhiên, các yếu tố khác cũng có thể đóng góp vào quá trình gây viêm. Suilysin kích hoạt các đại thực bào và gây ra việc sản xuất các cytokine tiền viêm [42]. Ngoài ra, suilysin có thể tạo ra hemoglobin từ các tế bào hồng cầu, góp phần nâng cao mức độ của các yếu tố trung gian tiền viêm bằng cách hoạt hóa các thành phần của thành tế bào S. suis. Một subtilisin protease (SspA) gần đây đã được chứng minh liên quan đến việc kích thích việc tiết ra các cytokine tiền viêm và chemokines khác nhau bởi các đại thực bào. Nồng độ thấp của SspA làm cho CCL5 được tiết ra với hàm lượng cao, trong khi việc sử dụng các protein tương tự ở nồng độ cao thì hàm lượng CCL5 thấp. S. suis có thể là tăng khả năng tiết các chất trung gian gây viêm dẫn đến việc thu hút số lượng lớn bạch cầu và tiết các chất trung gian khác gây viêm nhiễm. Tuy nhiên, S. suis có thể điều chỉnh phản ứng này để phục vụ cho sự tồn tại của nó bằng cách tích cực làm giảm các chemokines do đó trì hoãn sự thu hút bạch cầu trung tính vào vị trí bị viêm nhiễm.

Sự xâm nhập hệ thần kinh trung ương và viêm màng não

Nếu bệnh nhân không bị tử vong do nhiễm trùng huyết hoặc hội chứng sốc độc, nhưng mức độ nhiễm trùng huyết vẫn còn cao, S. suis có thể gây ra bệnh viêm màng não [7, 8]. Đáng chú ý, trong một số trường hợp nhiễm trùng có thể không xuất hiện và viêm màng não có thể xảy ra bất ngờ. Giống như các tác nhân gây bệnh khác, S. suis phải vượt qua hàng rào máu não (BBB) và / hoặc chất dịch máu - não tủy (CSF) để gây ra nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương. BBB là một rào cản duy nhất về giải phẫu và chức năng ngăn cách giữa não và nội mạch bằng cách duy trì sự cân bằng nội môi của môi trường hệ thần kinh trung ương [42]. Các loại tế bào chính của hàng rào máu não là tế bào nội mô vi mạch của não(BMEC). S.suis bám dính nhưng không xâm nhập vào các tế bào BMEC của người. Các yếu tố vi khuẩn liên quan đến sự bám dính không được làm sáng tỏ và không có sự tham gia của CPS vào quá trình này. S. suis có thể tồn tại 7 h trong tế bào BMEC của lợn. Các thành phần huyết thanh cũng có thể tham gia vào sự tương tác giữa S. suis và các tế bào BMECs của lợn. Trong số đó, fibronectin đóng một vai trò quan trọng trong sự tương tác này; Ngoài ra, các kháng thể chống lại enolase (protein liên kết fibronectin quan trọng của S. suis) làm giảm đáng kể sự bám dính và sự xâm nhập của S.suis vào tế bào BMEC của lợn [42]. Các chủng có Suilysin cũng có thể phá vỡ hàng rào máu não thông qua các hiệu ứng độc tế bào, với hàm lượng cao của các chủng có Suilysin gây độc cho các tế bào BMEC của lợn. Tuy nhiên, suilysin không phải là yếu tố quyết định vì các chủng đột biến mất suilysin vẫn có thể xâm nhập vào các tế bào này.

Một cách khác để S. suis có thể xâm nhập vào hệ thần kinh trung ương cho có thể là các tế bào biểu mô đám rối thần kinh màng mạch của hàng rào máu-dịch não tủy. Thật vậy, mặc dù hàng rào máu-dịch não tủy có một diện tích bề mặt nhỏ hơn so với hàng rào máu não, nó có thể đóng một vai trò quan trọng trong sự di chuyển của vi khuẩn cũng như trong luân bạch cầu. Gần đây, một thử nghiệm về sự xâm nhập và di chuyển của S. suis qua hàng rào máu-dịch não tủy đã được thực hiện. Sự di chuyển của S.suis qua hàng rào máu-dịch não tủy đã kích hoạt bạch cầu trung tính. S. suis gây ra hoại tử tế bào CPEC, mặc dù apoptosis cũng có thể đóng một vai trò quan trọng trong quá trình làm chết tế bào. Suilysin đó đóng một vai trò quan trọng như là một chất độc ảnh hưởng đến chức năng hàng rào máu-dịch não tủy, tuy nhiên, các yếu tố hòa tan khác cũng có thể tham gia vào quá trình này.

Viêm màng não, chấn thương não và chết tế bào thần kinh là triệu chứng liên quan đến phản ứng của vật chủ với các yếu tố của vi khuẩn. Một thí nghiệm thực hiện trên cơ thể sống cho thấy rằng những con chuột bị nhiễm bệnh sống sót sau giai đoạn nhiễm trùng máu có thể phát triển các dấu hiệu nghiêm trọng của tình trạng viêm ở hệ thần kinh trung ương. S. suis có thể kích thích các tế bào BMEC tiết acid arachidonic, tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập vào hệ thần kinh trung ương [135]. Các nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng S. suis có thể kích thích tế bào BMEC của người và lợn tiết ra các cytokine tiền viêm và chemokines, tiểu thần kinh đệm và các tế bào hình sao ở chuột [42].



Каталог: files -> ChuaChuyenDoi
ChuaChuyenDoi -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
ChuaChuyenDoi -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
ChuaChuyenDoi -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
ChuaChuyenDoi -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
ChuaChuyenDoi -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Hà Linh
ChuaChuyenDoi -> ĐÁnh giá Đa dạng di truyền một số MẪu giống lúa thu thập tại làO
ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiêN
ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Văn Cường

tải về 0.74 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương