TẠp chí khoa họC, trưỜng đẠi học hồng đỨc số 10. 2012



tải về 2.69 Mb.
trang14/16
Chuyển đổi dữ liệu26.03.2018
Kích2.69 Mb.
#36665
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   16

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1] Baker, A. (2001). Ship or sheep – An intermediate course. Cambridge: CUP.

BBC Learning English. http://www.bbc.co.uk

[2] Corder, S. P. (1981), Error Analysis and Interlanguage, Oxford: OUP.

[3] Đoàn Thiện Thuật (2002). Ngữ âm tiếng Việt. Hà Nội: NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội.

[4] Hà Cẩm Tâm (2005) Common pronunciation problems of Vietnamese learners of English. Journal of Science - Foreign Languages T.XXI, No1, 2005, P.35-46. Hà Nội: ĐH Quốc gia Hà Nội.

[5] Klassen, J. (1993), “Using Student Error for Teaching”, In Thomas Kral (ed.). Selected Articles from the Creative Activitie, English Teaching Forum 1989-1993.

[6] Nguyễn Huy Kỷ (2006). Ngữ điệu tiếng Anh ở người Việt, Hà Nội: NXB. Văn hoá Thông tin.

[7] Nguyễn Thị Mỹ Phượng và Nguyễn Quốc Thịnh (2007). Điều tra việc thể hiện âm tối và âm [j] của sinh viên khoa sư phạm tiếng Anh trường Cao đẳng sư phạm Quảng Nam – Thực trạng và giải pháp. Tạp chí Khoa học số 22, bài 25 (Tr.148), ĐH Đà Nẵng.



[8] Roach, P. (2000), English Phonetics and Phonology: a Practical Course, Cambridge: Cambridge University Press.
CURRENT SITUATIONS AND SOLUTIONS TO ELIMINATE THE FIRST YEAR MAJOR ENGLISH STUDENTS’ PRONUNCIATION ERRORS AT HONG DUC UNIVERSITY

ABSTRACT


To speak a foreign language like a native speaker, a learner needs to achieve an accuracy and fluency level. To study and master English pronunciation is one of the problems to every learner who speaks English as a second language. This is also a big obstacle to the first year major students of English at Hong Đuc University. By using research methods, namely, library research, survey research and experimental research, the author encounters some students’ pronunciation errors in terms of segmental phonetics analysis. From the findings, the author suggests some solutions to eliminate these errors and does experimental research to realize these.


MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC NGHE - NÓI TIẾNG ANH CHO SINH VIÊN KHÔNG CHUYÊN NGỮ TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - THANH HOÁ

Nguyễn Huy Tậu1

TÓM TẮT


Thông qua việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu và hai công cụ khảo sát được lựa chọn, bài báo đi sâu đánh gía năng lực nghe – nói tiếng Anh và xác định được những nguyên nhân gây ra sự yếu, kém về năng lực này của sinh viên không chuyên ngữ trường Đại học Hồng Đức. Trên cơ sở đó, chúng tôi muốn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực nghe – nói tiếng Anh cho sinh viên không chuyên ngữ trường Đại học Hồng Đức – Thanh Hoá.

Từ khoá: Giải pháp, năng lực nghe – nói tiếng Anh

1. ĐẶT VẤN ĐỀ



Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, tiếng Anh đã trở thành điều kiện tiên quyết để mỗi quốc gia hội nhập vào đại gia đình thế giới. Trong đó, nghe và nói là hai kỹ năng giữ vị trí quan trọng hàng đầu cho quá trình giao tiếp. Ở nước ta, tiếng Anh đã được đưa vào giảng dạy trong các trường phổ thông, đại học và cao đẳng từ lâu, tuy nhiên việc dạy và học hai kỹ năng nghe, nói vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Theo các khảo sát ở qui mô các ngành học của sinh viên Đại học Hồng Đức, kết quả cho thấy khả năng sử dụng tiếng Anh trong giao tiếp của các sinh viên còn rất hạn chế. Phần lớn sinh viên không sử dụng được tiếng Anh trong các tình huống giao tiếp hàng ngày, nhiều sinh viên khi tốt nghiệp ra trường khó có cơ hội tìm kiếm được việc làm theo yêu cầu của các nhà tuyển dụng trong và ngoài nước. Để khắc phục tình trạng này, việc đi sâu nghiên cứu để tìm những giải pháp nâng cao năng lực nghe -nói tiếng Anh cho sinh viên không chuyên ngữ trường Đại Học Hồng Đức (ĐHHĐ) là chủ đề mà chúng tôi muốn đề cập tới.

2. NỘI DUNG



2.1. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp được sử dụng trong bài báo này bao gồm nghiên cứu lí thuyết, điều tra, so sánh, thống kê số liệu, thực nghiệm. Phương pháp đóng vai trò quan trọng nhất là phương pháp điều tra khảo sát thực trạng dạy và học hai kỹ năng nghe và nói tiếng Anh của sinh viên không chuyên ngữ trường Đại học Hồng Đức nhằm xác định năng lực nghe – nói tiếng Anh của sinh viên đạt được mức độ nào và nguyên nhân nào gây ra năng lực nghe – nói tiếng Anh của họ còn hạn chế.



2.2. Kết quả nghiên cứu

2.2.1. Thực trạng về việc học nghe - nói tiếng Anh của sinh viên không chuyên ngữ trường Đại học Hồng Đức

Để xác định được năng lực nghe – nói tiếng Anh của sinh viên không chuyên còn hạn chế như thế nào; nguyên nhân nào gây ra những hạn chế này, chúng tôi tiến hành khảo sát 500 sinh viên thuộc các khoa: Khoa KTQTKD (198 SV); Khoa KTCN (67 SV); Khoa CNTT–TT (25 SV); Khoa KHXH (133 SV); Khoa KHTN (42 SV) và Khoa SPTH (35SV) về tình hình học hai kỹ năng nghe và nói tiếng Anh của họ. Trong đó, có 200 SV năm thứ 3 (số SV đã học xong các chương trình tiếng Anh) và 307 SV (số SV chuẩn bị học học phần tiếng Anh 1). Kết quả khảo sát được thống kê và diễn giải như sau:

Kết quả khảo sát bằng phiếu hỏi, bài kiểm tra về kỹ năng nghe hiểu và bài kiểm tra kỹ năng nói tiếng Anh của cả hai đối tượng sinh viên (sinh viên đã học xong chương trình tiếng Anh ở đại học và những sinh viên chuẩn bị học) được xây dựng theo tiêu chí đánh giá của mức 0+ của TOEIC (250 điểm) tương ứng với trình độ A của Việt Nam cho thấy kết quả năng lực nghe – nói tiếng Anh của cả hai đối tượng sinh viên này thực sự đang ở mức quá thấp. Cụ thể như các bảng dưới đây:

TT

Mức điểm

Nghe

(Số lượng)



%

Nói

(Số lượng)



%

Ghi chú

1

8,5 -10

0

0

0

0

Kỹ năng Nghe đạt 10 % TB

Kỹ năng Nói đạt:

12 % TB trở lên


2

7,0 – 8,0

0

0

0

0

3

5,0– 6,5

5

10

6

12

4

3,0 – 4,5

21

42

23

46

5

0 – 2,5

24

48

21

42

Tổng




50

100

50

100

Bảng 2.1. Kết quả năng lực nghe - nói tiếng Anh của SV năm thứ 3 (đã học xong chương trình tiếng Anh)

TT

Mức điểm

Nghe

(Số lượng)



%

Nói

(Số lượng)



%

Ghi chú

1

8,5 -10

0

0

0

0

Kỹ năng Nghe đạt: 4,7 % TB

Kỹ năng nói đạt:

7,0 % TB trở lên


2

7,0 – 8,0

0

0

0

0

3

5,0– 6,5

2

4,7

3

7,0

4

3,0 – 4,5

18

42,8

19

47,6

5

0 – 2,5

22

52,5

20

45,4

Tổng




42

100

42

100

Bảng 2.2. Kết quả nghe - nói tiếng Anh của nhóm SV năm thứ 2 (trước khi học học phần tiếng Anh 1)

Theo như hai bảng trên, hơn 90 % SV chưa đạt khả năng nghe – nói tiếng Anh theo hai mức này mà đang ở mức 0 (10- 125 điểm) của TOEIC. Trong khi đó nhiều năm qua, theo quy định của Bộ GD&ĐT, sinh viên khi vào đại học phải đạt trình độ ngoại ngữ là A và khi ra trường phải đạt trình độ B của Việt Nam, tương ứng với mức 1 (400 điểm) hoặc 1+ (từ 405 - 600 điểm) của TOEIC. Ở mức này, người học phải đạt được những yêu cầu về kỹ năng nghe và nói tiếng Anh như sau:

a) Khả năng nghe hiểu: Người học có khả năng nghe hiểu được những cuộc hội thoại đơn giản về những chủ đề đã học, hiểu được những thông báo, những công bố đơn giản. Người nghe nhiều khi phải yêu cầu người nói nhắc lại.

b) Khả năng nói: Người học có khả năng hình thành những câu hỏi cần thiết trong giao tiếp bằng lời với số lượng từ vựng còn hạn chế, người học có khả năng tạo ra và duy trì được những cuộc hội thoại về các chủ đề đã học. Lỗi ngữ pháp, phát âm và sử dụng từ xảy ra thường xuyên nhưng không cản trở nhiều đến nội dung thông điệp.

Từ kết quả thu được qua kiểm tra khảo sát, chúng tôi nhận thấy rõ rằng trình độ tiếng Anh của sinh viên không chuyên ngữ trường ĐHHĐ còn quá thấp so với yêu cầu của xã hội – có tới 99 % đạt ở mức thấp nhất (Mức 0: 10 – 125 điểm) theo TOEIC, và chưa đạt trình độ A theo xếp loại của Việt Nam.

2.2.2. Nguyên nhân năng lực nghe – nói tiếng Anh của SV còn yếu kém

Bằng công cụ phiếu hỏi, các số liệu thống kê về kết quả khảo sát chung, chúng tôi đưa ra những nguyên nhân dẫn đến năng lực nghe – nói tiếng Anh của sinh viên không chuyên còn yếu, kém là:

1) Sinh viên chưa chủ động dành thời gian thực hành nghe – nói tiếng Anh ở nhà. Điều này cho thấy người học chưa có mục đích, thái độ, động cơ và chiến lược học tiếng Anh đúng đắn.

2) Việc dạy và học tiếng Anh ở các cấp học phổ thông cũng như ở đại học vẫn chủ yếu là theo phương pháp truyền thống, chưa phát huy được phương pháp dạy học tích cực theo hướng giao tiếp. Do đó, hai kỹ năng nghe và nói tiếng Anh không được quan tâm đúng mức mà chỉ tập trung vào ngữ pháp, cấu tạo từ, nghĩa của từ, viết lại câu theo cấu trúc khác và đọc hiểu.Trong giờ học, giáo viên và học sinh dường như không sử dụng đến tiếng Anh (Classroom language) với những câu chào, hỏi, giao tiếp thông thường.

3) Giáo viên cũng chưa tạo ra môi trường giao tiếp tiếng Anh trong các giờ học. Nguyên nhân là do giao tiếp khẩu ngữ (nghe và nói) và giao tiếp chủ động (nói và viết) không phải là mục tiêu chính của học ngoại ngữ phục vụ cho các mục đích nghiên cứu trong môi trường ngoại ngữ, đặc biệt là khi ngoại ngữ chỉ được học như là một môn học.

4) Ngoài lớp học, người học cũng chưa chủ động sử dụng tiếng Anh để giao tiếp; không tự luyện tập đọc thành tiếng mà chỉ làm bài tập bằng hình thức trắc nghiệm hoặc viết vài câu theo mẫu.

5) Tâm lý người học chưa mạnh dạn, sợ mắc lỗi hoặc sợ người khác chê cười.

6) 100% số GV cho biết chương trình đào tạo chưa phù hợp với trình độ người học. Thực thế cho thấy là mục tiêu chương trình đặt ra thì cao (trình độ B của Việt Nam hoặc từ 400 điểm của TOEIC), nhưng thời lượng lại quá ít, chỉ có 10 tín chỉ (tương đương 200 tiết), nội dung gồm nhiều phần: ngữ pháp, ngữ âm, từ vựng, nghe, nói, đọc và viết.

7) Quy trình kiểm tra – đánh giá (KT-ĐG) thường xuyên, cuối kỳ, cuối khoá và thậm chí cả thi học sinh giỏi các cấp cũng không chú trọng đến hai kỹ năng nghe và nói. 100% số giáo viên cho rằng việc KT- ĐG như thế là hoàn toàn không phù hợp, chưa khích lệ được HSSV sử dụng nghe – nói tiếng Anh trong giao tiếp tốt được.

8) Lớp học quá đông học sinh –sinh viên (trên 50 học sinh – sinh viên); bàn ghế thì nhiều và khó di chuyển. Nên giáo viên khó kiểm soát được và tổ chức các hoạt động nghe – nói theo từng cặp hay từng nhóm.

9) Trang thiết bị dành cho dạy và học tiếng Anh còn quá thiếu đến mức hầu như bằng không: Không casset, không băng, đĩa, không Projector…

2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực nghe – nói tiếng Anh cho sinh viên không chuyên ngữ trường Đại học Hồng Đức

2.3.1. Cải tiến chương trình môn học

Nhằm đảm bảo tính phù hợp với đối tượng người học, với mục tiêu đào tạo, chương trình môn học phải được xây dựng có mục đích rõ ràng, mục tiêu cụ thể, đảm bảo tính logic và thời lượng phải phù hợp với yêu cầu của từng cấp độ theo đúng trình độ người học, đáp ứng được nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội. Theo chuẩn chung của quốc tế, để qua được một mức học đối với ngoại ngữ từ trình độ sơ cấp sang trình độ trung cấp chẳng hạn, người học phải có ít nhất từ 300 đến 400 tiết tiếp xúc trên lớp giữa người dạy và người học. Với lượng thời gian tiếp xúc trên lớp dành cho bậc cử nhân ở ĐHHĐ như hiện nay, năng lực ban đầu còn rất thấp, do đó khi kết thúc chương trình cử nhân, người học cũng khó có thể đạt được những kiến thức và kỹ năng giao tiếp tiếng Anh ở giai đoạn cơ bản (elementary level). Để có thể trao đổi hoặc giao tiếp về chuyên môn bằng tiếng Anh theo gợi ý của nhiều nhà chuyên môn, người học tiếng Anh không chuyên ở ĐHHĐ phải được học theo hình thức bổ túc với lượng thời gian dài ít nhất gấp 2 hoặc 3 lần lượng thời gian phân bổ cho môn tiếng Anh ở bậc đại học.



2.3.2. Phương pháp giảng dạy

Để đạt được mục đích giảng dạy tiếng Anh theo hướng giao tiếp và phát triển được kỹ năng nghe và nói, những giờ trên lớp, giáo viên phải chú ý tăng cường vốn từ vựng hơn là tăng cường phân tích ngữ pháp, chú trọng rèn luyện đều cả bốn kỹ năng giao tiếp: nghe, nói đọc, viết và đặc biệt là việc phát âm.

Trong lớp học cần hạn chế đến mức tối đa việc sử dụng tiếng mẹ đẻ. Ngoài ngôn ngữ bằng lời, người thầy nên sử dụng cử chỉ, điệu bộ của mình để giúp người học hiểu bài. Mọi hoạt động trên lớp phải thể hiện được quy trình giao tiếp. Người thầy sẽ trở thành nhân tố tạo điều kiện cho người học giao tiếp.

Tổ chức và điều khiển người học thực hành các hoạt động giao tiếp trên lớp theo từng cặp hay từng nhóm một cách có hiệu quả. Giao bài tập, hướng dẫn SV tự học và kiểm tra – đánh giá công việc thực hiện thực hành nghe – nói ngoài giờ học của họ đảm bảo thường xuyên.

Giáo viên phải nắm được mục tiêu, nội dung và phương pháp kiểm tra đánh giá khoa học. Ngoài ra, giáo viên phải hiểu được đặc điểm của từng SV, xem họ còn thiếu những gì để đạt được mục tiêu của khóa học. Có như vậy tính cá thể hóa mới được thể hiện rõ trong khi vận dụng phương pháp này.

2.3.3. Kiểm tra – đánh giá

Như đã đề cập ở trên, do không có đích và chuẩn đầu ra cho từng giai đoạn học tập và cho toàn bộ môn học, cho nên nội dung kiểm tra thường không ăn khớp với nội dung dạy. Kiểm tra và thi hết từng giai đoạn (học kỳ hoặc học phần và hết môn học) chủ yếu được thực hiện thông qua hình thức viết bao gồm kỹ năng đọc, ngữ pháp và viết, các kỹ năng nghe và nói hầu như bị bỏ qua. Với hình thức thi như vậy, thí sinh không có cơ hội để thể hiện khả năng giao tiếp khẩu ngữ. Điều này lý giải tại sao, mặc dù có thể đã được học ít nhất là 300 tiết ở phổ thông và 150 - 200 tiết ở bậc cử nhân nhưng sau khi tốt nghiệp đại học đa số sinh viên của ĐHHĐ vẫn không thể nghe và nói được tiếng Anh. Những thước đo chưa hoàn chỉnh kết hợp với những cách hiểu khác nhau về sử dụng thước đo đánh giá trình độ và kỹ năng giao tiếp tiếng Anh đầu ra sinh viên ĐHHĐ dẫn đến kết quả là những người dạy tiếng Anh bị mất phương hướng, không biết kiểm tra trình độ của người học theo phương thức nào là đúng, là phù hợp. Thực tế cho thấy là khi bài kiểm tra được thiết kế theo hình thức “học gì thi nấy” thì phần đông thí sinh đạt điểm từ trung bình trở nên, nhưng khi các hệ thống kiểm tra khác như TOEIC hoặc kiểm tra hai kỹ năng nghe và nói được áp dụng thì phần đông thí sinh lại bị điểm thấp hơn so với yêu cầu.

Tóm lại, kết quả kiểm tra, đánh giá thường xuyên phải luôn luôn đề cập đến cả bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết; phải thực hiện một cách nghiêm túc. Nếu không, người học chỉ chạy theo “Thi gì, học nấy” và người dạy cũng “Thi gì, dạy nấy”.

2.3.4. Trình độ người học

Để không gây lãng phí trong đào tạo, tạo nên động cơ học tiếng Anh cho những sinh viên đã có một trình độ tiếng Anh như nhau và tạo thuận lợi cho giáo viên thực hiện tiến trình bài giảng của mình đạt hiệu quả như mong muốn, trình độ người học phải được kiểm tra khảo sát đầu vào và tổ chức, sắp xếp lớp hoặc nhóm cho những sinh viên có trình độ tương đương nhau.



2.3.5. Quy mô lớp học

Để giáo viên thuận lợi cho việc thực hiện bài giảng thành công và người học đều đạt được kết quả, sỹ số SV trong mỗi lớp / nhóm chỉ khoảng 30 – 35 sinh viên. Hầu hết các phòng học tiếng Anh ở ĐHHĐ không đạt chuẩn, không được thiết kế cho dạy ngoại ngữ, không cách âm, chất lượng âm học tồi, bàn ghế được sắp xếp theo truyền thống và khó di chuyển, giáo viên ngồi trên bục đối diện với sinh viên, chỉ phù hợp cho phương pháp thuyết trình, không phù hợp cho phương pháp dạy học tương tác, các cách tổ chức học tập theo cặp, theo nhóm –những hình thức tổ chức lớp học điển hình cho phương pháp dạy học tương tác và cũng điển hình cho đường hướng dạy ngôn ngữ giao tiếp trong ngoại ngữ - trở thành việc làm không thể. Bổ sung vào khó khăn về cơ sở vật chất là số lượng sinh viên quá đông trong một lớp học, thiết bị dạy tiếng Anh và nguồn học liệu để tham khảo nghèo nàn. Điều tra của nhóm nghiên cứu thuộc ĐHHĐ cho thấy số sinh viên trong một lớp tiếng Anh khoảng 35 - 45, thường gấp hơn hai lần số sinh viên của một lớp học ngoại ngữ chuẩn; thiết bị giảng dạy tiếng Anh trong lớp chủ yếu vẫn là bảng và phấn.



2.4. Kết quả thực nghiệm giải pháp nâng cao năng lực nghe- nói tiếng Anh cho sinh viên không chuyên ngữ Đại học Hồng Đức

Trên cơ sở của tiêu chí và mục tiêu đã đề ra, sau thời gian dạy và học thực nghiệm theo một số giải pháp đã đưa ra, nhóm nghiên cứu đã KT- ĐG và thu được kết quả sau:



TT

Mức điểm

Nghe

(Số lượng)



%

Nói

(Số lượng)



%

Ghi chú

1

8,5 -10

0

0

0

0

Kỹ năng Nghe đạt: 26,1 % TB

Kỹ năng nói đạt:

35,7 % TB trở lên


2

7,0 – 8,0

0

0

3

7,1

3

5,0– 6,5

11

26,1

12

28,6

4

3,0 – 4,5

21

50,0

19

45,2

5

0 – 2,5

10

23,9

8

19,1

Tổng




42

100

42

100

Bảng 2.3. Kết quả nghe – nói tiếng Anh của SV lớp ĐHSP Địa K12 sau khi học thực nghiệm

Kết quả bảng trên cho thấy khả năng nghe - nói tiếng Anh của SV sau khi dạy thử nghiệm có sự biến đổi rõ rệt. So với mức ban đầu, khi chưa học thực nghiệm, kết quả nghe - nói của nhóm SV này tăng từ 4,7 % lên đến 26,1 % (kỹ năng nghe) đạt yêu cầu, nhưng còn ở mức thấp: 0 + (từ 10 - 250 điểm TOEIC). Kỹ năng nói tăng từ 7,0 % lên đến 35,7 %. Số SV đạt mức kém có giảm mạnh từ 52,5 % xuống 23,9 % (Kỹ năng nghe); từ 45,4% xuống 19,1% (Kỹ năng nói).



TT

Mức điểm

Nghe

(Số lượng)



%

Nói

(Số lượng)



%

Ghi chú

1

8,5 – 10

0

0

0

0

Kỹ năng Nghe đạt : 11,4 % TB

Kỹ năng nói đạt:

14,3 % TB trở lên


2

7,0 – 8,0

0

0

0

0

3

5,0– 6,5

4

11,4

5

14,3

4

3,0 – 4,5

16

45,7

17

48,6

5

0 – 2,5

15

42,9

13

37,1

Tổng




35

100

35

100

Bảng 2.4. Kết quả nghe – nói tiếng Anh của SV lớp ĐH Ngữ văn K12’ không học thử nghiệm

Như vậy, kết quả năng lực nghe – nói ở bảng trên cho ta thấy số sinh viên không được hướng dẫn luyện tập lại kiến thức từ đầu; không có sự hỗ trợ của thiết bị dạy học (Casset , đĩa...); không tạo nên môi trường giao tiếp tiếng Anh thường xuyên và không kiểm tra – đánh giá kịp thời ...thì chất lượng rất khó nâng cao được. Kỹ năng nghe của số SV ở bảng 3.2 chỉ có 11,4 % đạt yêu cầu. Kỹ năng nói có 14,3 % đạt yêu cầu. Trong khi đó, số SV học thử nghiệm (bảng 3.1) có 26,1 % đạt yêu cầu về kỹ năng nghe; 35,7 % về kỹ năng nói, cao hơn 2 lần so với SV không học thử nghiệm.



2.5. Đánh giá kết quả khảo sát và thực nghiệm

Với thời gian không nhiều, chương trình thực nghiệm đã mang lại kết quả đáng kể: năng lực của nhóm lớp sinh viên học thực nghiệm tăng từ 7,0% lên 35,7% (Kỹ năng nói); từ 4,7 % lên 26,1 % (Kỹ năng nghe); nhóm không học thực nghiệm chỉ đạt 11,4% (kỹ năng nghe) và 14,3% kỹ năng nói. Như vậy, năng lực nghe – nói của nhóm sinh viên học thực nghiệm tăng hơn hai lần so với nhóm SV không học thực nghiệm. Với những kết quả này, chúng tôi hy vọng năng lực sử dụng tiếng Anh trong giao tiếp của sinh viên không chuyên ngữ sẽ nâng cao, cho ta kết quả đáng tin cậy và mang lại hiệu quả thiết thực khi và chỉ khi những giải pháp này được thực hiện một cách triệt để.

3. KẾT LUẬN

Từ kết quả nghiên cứu cho thấy trình độ tiếng Anh của sinh viên nói chung và năng lực nghe – nói tiếng Anh nói riêng còn rất thấp - chưa đạt trình độ A của Việt Nam hay mức 0 + của TOEIC, sau khi ra trường, sinh viên rất khó đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động trong một nền kinh tế hội nhập ngày nay. Đề tài đã chỉ ra một số nguyên nhân gây ra sự yếu kém trong chất lượng giảng dạy hai kỹ năng này ở ĐHHĐ như thời lượng sinh viên được học tiếng Anh trước khi vào học đại học khác nhau, dạy và học tiếng Anh ở các cấp học phổ thông cũng như ở đại học vẫn chưa phát huy được phương pháp dạy - học theo hướng giao tiếp tích cực, người học chưa có mục đích, thái độ, động cơ và chiến lược học đúng đắn, giáo viên cũng chưa tạo ra môi trường giao tiếp tiếng Anh trong các giờ học, chương trình đào tạo chưa phù hợp với trình độ người học, kiểm tra – đánh giá thường xuyên, cuối kỳ, cuối khoá và thậm chí cả thi học sinh giỏi các cấp cũng không chú trọng đến hai kỹ năng nghe và nói, lớp học không đạt chuẩn, số sinh viên trong một lớp học tiếng Anh đông, phương tiện hỗ trợ dạy học nghèo nàn, thiếu môi trường thực hành.

Trên cơ sở của những thực trạng trên, để có thể nâng cao năng lực nghe nói tiếng Anh cho sinh viên không chuyên ở trường Đại học Hồng Đức, chúng tôi đã đưa ra một số giảp pháp như chương trình môn học phải được xây dựng với mục đích rõ ràng, mục tiêu cụ thể, có nội dung phong phú, đảm bảo tính logic và thời lượng phải phù hợp với yêu cầu của từng cấp độ theo đúng trình độ người học, đáp ứng được nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội; phương pháp giảng dạy cần được đổi mới theo hướng giao tiếp, phát huy tính tích cực của người học; Kiểm tra – đánh giá chất lượng môn học, trình độ người học phải được thực hiện theo một thước đo chuẩn cho cả bốn kỹ năng ngôn ngữ; quy mô lớp học không được quá đông sinh viên và phải có trang bị thiết bị hỗ trợ cho dạy và học.

Tất cả những giải pháp vừa nêu trên nếu được thực hiện đồng bộ và triệt để, chắc chắn sẽ mang lại kết quả hữu hiệu về nâng cao năng lực sử dụng tiếng Anh cho sinh viên nói chung và năng lực nghe – nói tiếng Anh nói riêng, góp phần hết sức quan trọng trong sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho địa phương và cũng là đáp ứng nhu cầu phục vụ cho quá trình hội nhập kinh tế của đất nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Bailey, Kathleen M. (2005), Practical English Teaching: Speaking. New York.

[2] Jalling, H. (1968), Modern Language Teaching. London: OUP.

[3] Hoàng Văn Vân (2008), Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo tiếng Anh không chuyên ở Đại học Quốc gia Hà Nội, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 24 (2008) 22-37.

[4] Michael, L. & Jimmie, H. (1992), Practical Techniques for Language Teaching, OUP.

[5] Nguyễn Văn Tụ (2009), “Bàn thêm về cái đích dạy – học ngoại ngữ theo quan điểm giao tiếp – cá thể hoá”, Tạp chí khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng – số 2(31).

[6] Nunan, D. (1988). Second Language Teaching and Learning. Boston: Heinle & Heinl.

[7] Paul, D & Eric, P. (2008), Success in English Teaching, OUP.

[8] Tudor, I. 1996. Learner-Centeredness as Language Education. Cambridge: CUP.
SOME SOLUTIONS FOR IMPROVING THE ENGLISH LISTENING - SPEAKING COMPETENCE OF NON-MAJOR ENGLISH STUDENTS AT HONG DUC UNIVERSITY

ABSTRACT


Based on the use of the chosen methods of research and two survey tools, the paper focusses on the evaluation the competence of listening and speaking English of non-major English students at Hong Duc university and find out the causes of the weakness in this capacity. Also, some fundamental and relevant solutions in order to improve their English listening - speaking competence are presented in this paper.


GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI TỈNH THANH HOÁ

ĐẾN NĂM 2015

Nguyễn Thị Thanh Xuân1

TÓM TẮT


Thanh Hoá là một tỉnh có vị trí địa lý rất thuận lợi, nằm trong vùng ảnh hưởng của những tác động từ vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, tốc độ phát triển các doanh nghiệp trong toàn tỉnh trong những năm qua tương đối cao. Tuy nhiên, trình độ chuyên môn kỹ thuật, năng lực của các chủ, cán bộ doanh nghiệp và người lao động còn thấp. Làm thế nào để giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) nâng cao chất lượng nguồn nhân lực mà cụ thể là việc tuyển dụng và sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả. Trên cơ sở đánh giá và phân tích thực trạng phát triển nguồn nhân lực trong các DNNVV trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, chúng tôi đề xuất một số giải pháp: về bộ máy quản trị nguồn nhân lực; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; nhóm giải pháp duy trì nguồn lực cho các DNNVV.

Từ khoá: Doanh nghiệp nhỏ và vừa.

1. MỞ ĐẦU



Trong bất kỳ nền kinh tế nào trên thế giới cho dù là nước phát triển, nước đang phát triển hay nước chậm phát triển, đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp luôn là động lực to lớn thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, là nơi tạo ra phần lớn công ăn việc làm, góp phần bình ổn xã hội. Sự phát triển của các DNNVV đã và đang trở thành một bộ phận hợp thành sức sống kinh tế sôi động và tạo động lực tăng trưởng của từng quốc gia.

Phát triển doanh nghiệp là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách giúp các DNNVV phát huy tính chủ động sáng tạo, nâng cao năng lực quản lý, phát triển khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực, mở rộng các mối liên kết với các loại hình doanh nghiệp khác tăng hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường; phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động.

Làm thế nào để giúp các DNNVV nâng cao chất lượng nguồn nhân lực mà cụ thể là việc tuyển dụng và sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả, đang là vấn đề được các doanh nghiệp hết sức quan tâm.

Thanh Hoá là một tỉnh có vị trí địa lý rất thuận lợi, nằm trong vùng ảnh hưởng của những tác động từ vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, tốc độ phát triển các doanh nghiệp trong toàn tỉnh trong những năm qua tương đối cao. Tính đến cuối tháng 12 năm 2010 số lượng các doanh nghiệp đăng ký mới trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá là 1.175 DN (DN hoạt động theo Luật Doanh nghiệp: 1.149 DN; DN hoạt động theo Luật Hợp tác xã: 26 DN) với tổng số vốn điều lệ đăng ký 5.093 tỷ đồng; số vốn điều lệ đăng ký bình quân 4,3 tỷ đồng/doanh nghiệp. Tuy nhiên, trình độ chuyên môn kỹ thuật, năng lực của các chủ, cán bộ doanh nghiệp và người lao động còn thấp. Từ thực tế, đó tỉnh cũng đã có nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ đào tạo, phát triển nguồn nhân lực nhằm cung cấp những kiến thức liên quan đến kỹ năng quản lý, các kinh nghiệm trong mọi lĩnh vực, nâng cao tay nghề cho người lao động. Xuất phát từ những vấn đề trên, nhóm nghiên cứu chọn đề tài “Giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong các DNNVV tại tỉnh Thanh Hoá đến năm 2015”.

2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến nội dung cần nghiên cứu như khái niệm nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực trong các Doanh nghiệp nhỏ và vừa; kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực của 1 số nước trên thế giới.

- Phương pháp điều tra, khảo sát: Điều tra chọn mẫu, phỏng vấn trực tiếp, điều tra qua các số liệu lưu trữ của các DNNVV về số lượng, chất lượng, cơ cấu nguồn nhân lực, trình độ lành nghề...

- Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến đánh giá chung của các chuyên gia đại diện trong từng lĩnh vực như cán bộ Sở Kế hoạch và Đầu tư, cán bộ các Sở, Ban Ngành khác về chính sách đào tạo, phát triển và động lực lao động; về chất lượng lao động.

- Ph­ương pháp xử lý số liệu thống kê.

2.2. Nội dung nghiên cứu

2.2.1. Hiện trạng về số lượng nhân lực

Năm 2010, dân số trong độ tuổi lao động toàn tỉnh là 2.270.400 người; tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2001 -2010 là 1,75%/năm; trong đó, số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân là 2.045.000 người, tăng 23% so với năm 2001; tốc độ tăng bình quân hằng năm là 4,2%/năm, tăng cao hơn nhiều so với tốc độ tăng dân số và tốc độ tăng lao động trong độ tuổi hằng năm của tỉnh. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị liên tục giảm (từ 6,2%% năm 2000, xuống còn 4% năm 2010); tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở khu vực nông thôn được nâng lên rõ rệt (tăng từ 75% năm 2000 lên 82% năm 2010). Điều đó thể hiện ở kết quả tạo việc làm mới cho người lao động của tỉnh ngày càng tăng cao.



Lao động trong nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản: năm 2010 lao động trong nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 142.300 người so với năm 2001; lao động trong thuỷ sản và lâm nghiệp từ năm 2001 - 2010 có xu hướng giảm và hiện chỉ chiếm 3,1% trong toàn bộ ngành nông nghiệp.

Lao động trong nhóm ngành công nghiệp - xây dựng: năm 2010 tăng 279.400 người (tăng khoảng 2,5 lần) so với năm 2001, trong đó: lao động trong ngành công nghiệp tăng 160.600 người, tăng gấp 2,1 lần so với năm 2001; ngành xây dựng, có quy mô lao động tăng nhanh do quy mô đầu tư cơ sở hạ tầng của các cơ sở kinh tế giai đoạn 2001 - 2010 tăng cao; năm 2010, số lao động trong ngành xây dựng tăng 118.800 người, gấp 3,1 lần so với năm 2001; do đặc thù của ngành xây dựng nên cơ cấu lao động trong ngành xây dựng nam chiếm tỷ lệ chủ yếu, khoảng 70% tổng số lao động toàn ngành; lực lượng lao động trẻ; nhóm tuổi 30-40 chiếm 40,5% tổng số lao động của ngành.

Lao động trong nhóm ngành dịch vụ: năm 2010 tăng 203.000 người (tăng 1,8 lần) so với năm 2001, chủ yếu tăng ở nhóm ngành dịch vụ bán buôn, bán lẻ, sửa chữa xe có động cơ, đồ dùng phục vụ cá nhân, cộng đồng. Lao động trong nhóm ngành khoa học, quản lý nhà nước, đảm bảo xã hội, giáo dục đào tạo, y tế... tăng chậm và có xu hướng giảm trong cơ cấu lao động chung.

2.2.2. Hiệu quả sử dụng nhân lực

2.2.2.1. Năng suất lao động

- Ngành nông nghiệp là khu vực có năng suất lao động thấp nhất. Tuy chiếm tới 55% tổng lao động xã hội nhưng chỉ tạo ra 24,1% GDP; điều đó cho thấy chất lượng lao động của toàn ngành thấp; trình độ chuyên môn hoá, áp dụng khoa học kỹ thuật chưa cao. Việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề cho lực lượng lao động khu vực này để nâng cao năng suất, thu nhập cho người lao động và chuyển dịch lao động sang ngành kinh tế khác là nhiệm vụ cần thiết trong giai đoạn tới.

- Ngành công nghiệp - xây dựng có năng suất lao động cao nhất, tuy chỉ chiếm 23% trong cơ cấu lao động xã hội nhưng nhóm ngành này đã tạo ra 41,5% GDP, điều đó chứng tỏ trình độ, hiệu quả quản lý và công nghệ sản xuất đóng vai trò rất quan trọng trong tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm.

- Ngành dịch vụ: Năng suất lao động tuy chiếm 22% tổng số lao động xã hội (thấp hơn 1% so với lao động trong khu vực công nghiệp - xây dựng) nhưng chỉ tạo ra 34,4% GDP, điều đó cho thấy chất lượng lao động trong khu vực dịch vụ vẫn chưa cao.



Bảng 12. Năng suất lao động các lĩnh vực kinh tế trên địa bàn tỉnh




ĐVT: Triệu đồng/người

Ngành

2001

2005

2010

Tổng số

6,3

10,0

25,1

I. Nông, lâm nghiệp và thủy sản

3,3

4,4

11,1

1. Nông nghiệp

2,7

3,6

9,2

2. Lâm nghiệp

117,8

152,7

456,0

3. Thủy sản

12,2

18,3

33,0

4. Diêm nghiệp

2,5

2,7

4,6

II. Công nghiệp và xây dựng

15,5

30,1

45,2

1. Công nghiệp khai thác mỏ

1,2

7,5

22,3

2. Công nghiệp chế biến

15,9

32,3

42,7

3. Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước

24,5

35,2

41,8

4. Xây dựng

20,4

29,8

51,1

III. Dịch vụ

14,6

22,5

39,3

1. Thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy, đồ dùng cá nhân và gia đình

8,9

12,4

18,0

2. Khách sạn và nhà hàng

23,5

25,5

41,3

3. Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc

13,4

23,7

44,7

4. Tài chính, tín dụng

25,1

84,0

111,8

5. Hoạt động khoa học và công nghệ

6,5

8,0

20,4

6. Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn

382,2

505,3

650,2

7. Quản lý nhà nước và An ninh quốc phòng, bảo đảm xã hội bắt buộc

15,1

26,5

69,3

8. Giáo dục và đào tạo

7,5

11,6

30,2

9. Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội

26,3

34,0

83,1

10. Hoạt động văn hóa và thể thao

8,9

10,8

25,4

11. Các hoạt động đảng, đoàn thể và hiệp hội

1,0

1,2

2,3

12. Hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng

15,8

16,0

19,7

13. Hoạt động làm thuê công việc gia đình trong các hộ tư nhân

12,0

13,4

26,2

Nguồn: Cục Thống kê Thanh Hoá










2.2.2.2. Tiền công, tiền lương

Tiền lương, thu nhập của công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh tuy đã được cải thiện song vẫn còn tương đối thấp so với khu vực tư và các thành phố lớn nên việc thu hút nhân lực có trình độ cao về làm việc tại tỉnh, đặc biệt là địa bàn cấp xã còn gặp nhiều khó khăn mặc dù tỉnh đã có nhiều chính sách khuyến khích, đãi ngộ cho các đối tượng thu hút. Trong những năm qua số học sinh, sinh viên là người Thanh Hoá tốt nghiệp ĐH, CĐ về công tác tại Thanh Hoá chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ.

Năng suất lao động ngành công nghiệp tuy cao nhất nhưng tiền lương, tiền công của công nhân còn thấp, đời sống còn gặp nhiều khó khăn. Công nhân các khu cụm công nghiệp ít có chỗ vui chơi sau những giờ làm việc vất vả.

2.2.3. Các chính sách khuyến khích phát triển nhân lực của tỉnh

Trong những năm qua, UBND tỉnh đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để phát triển nhân lực đáp ứng nhu cầu phục vụ cho phát triển KT - XH, nhất là nhân lực chất lượng cao như: chính sách thu hút cán bộ giảng viên có trình độ tiến sỹ ở tỉnh ngoài về giảng dạy, công tác tại trường ĐH Hồng Đức; chính sách thu hút những người có trình độ ĐH về công tác tại các xã, phường, thị trấn và các xã thuộc huyện nghèo của tỉnh; chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức xã, phường, thị trấn người dân tộc thiểu số; chính sách đào tạọ, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, chính sách đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ trong nước và nước ngoài; chính sách hỗ trợ cho học sinh trường THPT chuyên Lam Sơn; chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp đào tạo nghề cho lao động nông thôn... Kết quả thực hiện trong 5 năm từ 2006-2010, đã có trên 226.000 lượt cán bộ công chức và viên chức của tỉnh được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về lý luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ và tiếng dân tộc; 82 cán bộ, công chức, viên chức và sinh viên tốt nghiệp ĐH loại khá giỏi được cử đi đào tạo tại nước ngoài (trong đó đào tạo tiến sỹ 13 người, thạc sỹ 48 người, đại học 21 người); đã thu hút được 446 người có trình độ ĐH trở lên về công tác tại xã, phường, thị trấn.

Tỉnh đã đặc biệt chú trọng thực hiện đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục đào tạo theo Nghị định 69/2008/NĐ-CP ngày 30 tháng 5 năm 2008 về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao, môi trường nhằm huy động các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động đào tạo nhân lực. Đồng thời, đã triển khai thực hiện ngay Quyết định 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27/11/2009 về phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”.

UBND tỉnh đã ban hành Quyết định hỗ trợ đào tạo nghề trong các doanh nghiệp và xuất khẩu lao động. Chính sách này đã tạo điều kiện cho nhân lực địa phương có điều kiện nâng cao trình độ tay nghề, tìm kiếm việc làm nhằm giảm tình trạng thiếu việc làm trên địa bàn tỉnh.




tải về 2.69 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   16




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương