TẠp chí khoa họC, trưỜng đẠi học hồng đỨc số 10. 2012



tải về 2.69 Mb.
trang2/16
Chuyển đổi dữ liệu26.03.2018
Kích2.69 Mb.
#36665
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   16

Nhận xét: Bảng 1 đánh giá nhận thức của GV, SV các khoa trường ĐH Hồng Đức về tầm quan trọng của LVĐLVS, kết quả cho thấy: Ý kiến đánh giá của GV và SV hầu như có sự đồng nhất, đều đánh giá rất cao vai trò LVĐLVS của SV ở hai mức độ rất cần thiết và cần thiết. ( GV 100%, SV 98,3 %.). Tuy nhiên, ý kiến của GV có xu hướng đánh giá vai trò của LVĐLVS cao hơn so với SV, còn SV có xu hướng đánh giá thấp hơn. Trong đó, ý kiến của SV ở ngành TL – GD có sự thống nhất cao hơn trong sự đánh giá.

2.2. Ý nghĩa của các loại giờ học theo phương thức đào tạo tín chỉ

Bảng 2. Ý nghĩa của việc tổ chức DH theo phương thức đào tạo tín chỉ

TT

Ý nghĩa của các loại giờ học theo PTĐTTC

Số lượng

%

Thứ bậc

1

Hứng thú với môn học hơn

16

6,67

4

2

Hiểu sâu tri thức, ý nghĩa thực tiễn của môn MH

84

35

1

3

Rèn luyện, hình thành kỹ năng đặt câu hỏi và trình bày vấn đề.

76

31,67

2

4

Ngôn ngữ phát triển

5

2,08

8

5

Thiết lập được nhiều mối quan hệ bạn bè

6

2,5

7

6

Hiểu bạn mình hơn.

3

1,25

9

7

Hình thành kỹ năng giao tiếp cho SV

15

6,25

5

8

Tự tin hơn trước mọi người

12

5

6

9

Cảm thấy mệt mỏi và căng thẳng vì phải làm việc nhiều.

23

9,58

3

Kết quả nghiên cứu ở bảng 2 cho thấy: Hầu hết SV đã nhận thức rõ tầm quan trọng của phương thức đào tạo tín chỉ. Với phương thức đào tạo mới này, làm cho các em hiểu sâu tri thức, ý nghĩa thực tiễn của môn học (35%), ngoài ra SV thường xuyên được rèn luyện kỹ năng trình bày vấn đề trước tập thể, kỹ năng đặt câu hỏi cho GV và các bạn SV. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận không nhỏ SV (9,58%) cảm thấy mệt mỏi, và căng thẳng vì phải làm việc nhiều.

Thực tế cho thấy:

Việc chuyển đổi phương thức học tập từ niên chế sang phương thức đào tạo tín chỉ, cùng với sự thay đổi phương pháp học tập ở đại học đối với SV năm thứ nhất là một điều mới mẻ và khó khăn. Mặc dù trong quá trình học tập, SV hiểu rõ tính ưu việt của phương thức học tập mới này, song ở đây khái niệm lớp học chỉ còn tương đối, thời gian học tập không cố định một buổi trong ngày mà có thể được thực hiện rải trong ngày. Do vậy, nếu SV bố trí thời gian học tập, nghỉ ngơi không hợp lí, không chủ động lập kế hoạch tự học thì việc hoàn thành tốt các nhiệm vụ học tập sẽ khó thực hiện được.

2.3. Thực trạng mức độ sử dụng thời gian đọc sách của SV

Bảng 3. Mức độ đọc sách của SV


TT

Mức độ sử dụng thời gian đọc sách của SV

Khoa TN

Khoa

TL – GD


Khoa CNTT

Khoa MN

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

1

Đọc sách đều đặn hàng ngày

13

21,7

16

26,7

8

13,4

7

11,7

2

Chỉ đọc khi thi, kiểm tra

15

25

13

21,7

14

23,3

16

26,7

3

Chỉ đọc khi chuẩn bị thảo luận, xemina.

8

13,3

10

16,6

9

15

11

18,3

4

Chỉ đọc khi làm bài tập lớn,

luận văn, khoá luận.



4

6,7

3

5

6

10

3

5

5

Chỉ đọc khi GV yêu cầu

6

10

7

11,7

7

11,7

9

15

6

Đọc bất kỳ lúc nào có hứng thú

10

16,7

9

15

11

18,3

12

20

7

Không bao giờ đọc

4

6,6

2

3,3

5

8,3

2

3,3

Với 7 mức độ sử dụng thời gian đọc sách của SV, qua điều tra, chúng tôi nhận thấy: SV đã có sự chủ động trong đọc sách nhằm phục vụ cho việc học tập của mình. Tuy nhiên, việc xác định mục đích đọc sách của SV giữa các khoa có sự khác nhau. Cụ thể, việc đọc sách diễn ra thường xuyên hàng ngày ở SV còn ít, trong đó SV khoa Tâm lí – Giáo dục được thực hiện tốt hơn cả, SV khoa sư phạm mầm non thực hiện kém hơn so với các khoa khác. Điểm thống nhất giữa SV các khoa là việc sử dụng sách khi chuẩn bị thi, kiểm tra được thực hiện nhiều hơn, hoặc việc đọc sách được thực hiện một cách ngẫu hứng, khi nào thích thì đọc. Phần lớn SV LVVS không theo sự phân phối thời gian cố định, thiếu đều đặn, thiếu thường xuyên, đọc tuỳ hứng. Điều này cho thấy SV chưa thấy hết được tầm quan trọng của việc đọc sách, chưa có thói quen cũng như nhu cầu đọc sách hàng ngày, kỹ năng LVVS chưa được thực hiện thường xuyên, thiếu tính chủ động mặc dù các em đã thấy rõ mức độ cần thiết của việc LVVS.

Ngoài ra, vẫn còn một bộ phận SV chưa có nhu cầu LVVS (Khoa TN: 6,6%, khoa CNTT: 8,3 %..) chứng tỏ vẫn còn có những SV chưa có ý thức tự giác tự học, tự nghiên cứu. Do vậy, khả năng phân tích tổng hợp các vấn đề trong học tập của một bộ phận SV còn kém.



2.4. Đánh giá của CBGD và tự đánh giá của SV về KNLVVS của bản thân

Bảng 4. Tự đánh giá của SV về KNLVVS của bản thân

TT

KNLVVS

Tự đánh giá của sinh viên

Tốt

Khá

TB

Yếu

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

1

KN chọn sách

65

27,1

100

41,7

69

28,7

6

2,5

2

KN xác định mục tiêu đọc sách

104

43,3

112

46,7

24

10

0

0

3

KN lập đề cương

21

8,8

76

31,6

110

45,8

33

13,8

4

KN xác định ND trọng tâm cuốn sách

80

33,3

108

45

52

21,7

0

0

5

KN sắp xếp thời gian đọc sách

44

18,4

128

53,3

56

23,3

12

5

6

KN tóm tắt

18

7,5

65

27,1

105

43,7

52

21,7

7

KN ghi chép thông tin

100

41,6

84

35

48

20

8

3,4

8

KN trình bày nội dung đọc được

72

30

116

48,3

40

16,7

12

5

9

KN hệ thống hoá tài liệu đọc được

52

21,6

92

38,3

76

31,6

20

8,3

10

KN tự kiểm tra, tự đánh giá

64

26,6

128

53,3

40

16,7

8

3,4

Bảng 5. Đánh giá của GV về các KNLVVS của SV

TT

KNLVVS

Ý kiến của giáo viên

Tốt

Khá

TB

Yếu

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

1

KN chọn sách

2

20

4

40

4

40

0

0

2

KN xác định mục tiêu đọc sách

3

30

5

50

2

20

0

0

3

KN lập đề cương

0

0

3

30

5

50

2

20

4

KN xác định nội dung trong tâm cuốn sách

3

30

4

30

3

30

0

0

5

KN sắp xếp thời gian đọc sách

2

20

4

40

3

30

1

10

6

KN tóm tắt

0

0

2

20

5

50

3

30

7

KN ghi chép thông tin

3

30

4

40

3

30

0

0

8

KN trình bày nội dung đọc được

3

30

4

40

2

20

1

10

9

KN hệ thống hoá tài liệu đọc được

2

20

3

30

4

40

1

10

10

KN tự kiểm tra, tự đánh giá

1

10

3

30

4

40

2

20

Kết quả bảng 4, 5 cho thấy: SV bước đầu đã biết thực hiện các KN, trong đó KN xác định mục tiêu đọc sách (43,3%), KN ghi chép thông tin (41,6%) được SV tự đánh giá tốt hơn cả. Điều này cũng trùng ý kiến đánh giá với cán bộ GV trong quá trình dạy học rằng: SV bước đầu đã có sự chủ động trong việc nghiên cứu nhiệm vụ học tập, xác định rõ mục tiêu của bài học, môn học, trong các loại giờ học khả năng thu thập, ghi chép thông tin đặc biệt trong giờ thảo luận, xêmina rất tích cực. Tuy nhiên, việc ghi chép thông tin còn thiếu tính sáng tạo, phụ thuộc nhiều vào câu từ trong sách, các kỹ năng như KN chọn sách, hệ thống hoá tài liệu, KN trình bày nội dung đọc được, KN sắp xếp thời gian hợp lí để làm việc với sách của SV còn nhiều hạn chế.

Chúng tôi đã sử dụng phương pháp phân tích sản phẩm để đánh giá một số kỹ năng cơ bản, trong đó tập trung ở KN lập đề cương và KN tóm tắt thông qua việc nghiên cứu sản phẩm hoạt động của cá nhân như: các bài thảo luận và bài tóm tắt nội dung tự học của SV.

Kết quả trên cho thấy:

- Đối với KN lập đề cương: hầu hết SV đạt ở mức độ trung bình và yếu, tỷ lệ SV đạt loại khá, tốt còn ít.

- Đối với KN tóm tắt nội dung học tập: Phần lớn SV cũng chỉ đạt ở mức độ trung bình và yếu, song so với KN lập đề cương thì tỷ lệ SV đạt khá và trung bình thấp hơn, nhưng mức độ yếu thì cao hơn.

2.5. Đánh giá về trình độ KNLVVS của sinh viên

Bảng 6. Đánh giá về trình độ KNLVVS của SV

TT

Số ý kiến %

Mức độ


Đánh giá GV

Tự đánh giá của sinh viên

SL

%

Khoa TN

Khoa

TL - GD


Khoa CNTT

Khoa MN

1

Thành thạo trong mọi khâu

0

0

9

15

13

21,67

7

11,67

11

18,33

2

Bình thường

3

30

27

45

29

48,33

25

41,66

31

51,67

3

Còn lúng túng trong nhiều khâu

5

50

17

28,33

12

20

21

35

13

21,67

4

Hoàn toàn chưa biết LVVS

2

20

7

11,67

6

10

7

11,67

5

8,33

Nhận xét: Kết quả bảng 6 cho thấy: Theo đánh giá của GV thì KNLVVS của SV ở mức độ bình thường hoặc còn lúng túng nhiều khâu. Đánh giá chung đạt loại: trung bình yếu.

Ý kiến tự đánh giá của SV tập trung ở mức độ phổ biến là: bình thường (Khoa TN: 45%, TL- GD: 48,33%, CNTT: 41,66%, MN: 51,67%). Tuy nhiên, vẫn còn một tỉ lệ SV đánh giá trình độ KNLVVS của họ ở mức độ còn nhiều lúng túng (Khoa TN: 28,33%, TL – GD: 20%, CNTT: 35%, MN: 21,67%).

Cùng với kết quả điều tra thu được, qua trao đổi trực tiếp với GV và SV, chúng tôi nhận thấy ý kiến của họ nhìn chung khá nhất trí với nhau: SV còn nhiều yếu kém về hầu hết các kỹ năng cơ bản LVVS, việc tổ chức quá trình LVVS chưa khoa học và chưa đem lại hiệu quả. Nhiều ý kiến GV cho rằng, SV mới chỉ biết đọc sách chứ hoàn toàn chưa biết làm việc với sách để tìm kiếm tri thức, họ chỉ mới biết “thu thông tin” chứ chưa biết “xử lý thông tin” để hình thành tri thức. Đặc biệt, đối với những vấn đề có tính tổng hợp, có tính thực tiễn đòi hỏi SV phải vận dụng, đánh giá cho thấy việc tìm kiếm thông tin, lựa chọn và xử lý vấn đề ở SV còn nhiều hạn chế. Đây là khâu yếu nhất của SV, điều này được thể hiện khi thực hiện các yêu cầu học tập môn khoa học xã hội.

- Các KNLVVS đã được SV sử dụng trong quá trình học tập, tuy nhiên mức độ thực hiện và mức độ thành thạo ở các SV còn chênh lệch nhau.

- SV chưa biết sử dụng phối hợp các KN trí tuệ để xử lý các thông tin thu được. Do vậy, nội dung SV trình bày còn mang tính chất dàn trải, sao chép hay lắp ghép. Điều này thể hiện SV hiểu tri thức một cách không vững chắc, thiếu tính sáng tạo, chưa biết trình bày bằng ngôn ngữ và lôgic của cá nhân.

Đánh giá chung: Như vậy, đánh giá của GV và tự đánh giá của SV về KNLVVS có sự thống nhất nhau ở một điểm đó là trình độ kỹ năng LVĐLVS của SV ở mức độ trung bình, Trong đó, đánh giá của GV có phần chặt chẽ hơn, SV đánh giá về bản thân có phần nhẹ nhàng hơn.

3. MỘT SỐ NHẬN XÉT

LVĐLVS là một loại hình học tập quan trọng đối với sinh viên ở các trường đại học, tuy nhiên trong thực tế vấn đề này chưa được cọi trọng. Hầu hết CBGD và SV đã nhận thức đúng về vai trò của LVĐLVS trong quá trình học tập của SV song cả CBGD và SV chưa chú ý rèn luyện các kỹ năng này. Khi LVĐLVS, các kỹ năng đọc sách của SV còn nhiều hạn chế, trong đó KN lập đề cương, KN tóm tắt, KN hệ thống hoá tài liệu đọc được, KN tự kiểm tra, tự đánh giá của SV kém hơn cả. Đa số GV cho rằng SV mới chỉ biết đọc sách chứ hoàn toàn chưa biết làm việc với sách để tìm kiếm tri thức. Việc lựa chọn và xử lý thông tin ở SV còn nhiều hạn chế. Do vậy, hiệu quả tự học còn thấp, chưa đáp ứng với yêu cầu học tập ở ĐH.

Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả LVĐLVS, việc xây dựng và hướng dẫn qui trình LVVS cho SV trong các loại giờ học với phương thức đào tạo theo tín chỉ là một trong những biện pháp cần thiết giúp SV chủ động trong học tập, nâng cao chất lượng hoạt động tự học.

Các trường đại học cần tăng cường công tác rèn luyện kỹ năng học tập và KN LVĐLVS cho SV, coi đây là nhiệm vụ bắt buộc trong chương trình học tập. Việc thực hiện nhiệm vụ này nên bắt đầu từ năm thứ nhất và đưa vào trong chương trình rèn luyện NVSP thường xuyên.

- Về phía giáo viên: Trong các giờ lên lớp, mỗi GV ngoài việc tổ chức dạy học, cần hướng dẫn cho SV qui trình LVĐLVS trong từng loại giờ tín chỉ, thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả LVĐLVS thông qua các hình thức: báo cáo nhanh kết quả nội dung đọc được trong giờ lý thuyết, bài thảo luận, vở tự học, bài thu hoạch của SV. Kinh nghiệm dạy học cho thấy, ở đâu GV kiểm tra, giám sát, đánh giá thường xuyên quá trình học tập của HS, SV thì nơi đó ý thức học tập, thái độ học tập và hiệu quả học tập của HS, SV được nâng lên rõ rệt.

Các vấn đề GV giao nhiệm vụ cho SV, cần hạn chế việc đọc, chép lại những kiến thức đã có sẵn trong SGK mà nên giao những nhiệm vụ gắn liền với thực tiễn, những vấn đề thực hành tổng hợp đòi hỏi SV vận dụng thường xuyên các KN chọn sách, KN phân tích, tổng hợp, KN khái quát hoá, giúp SV sau khi giải quyết được các nhiệm vụ học tập thì trình độ, các kỹ năng đọc sách của SV cũng được nâng lên.

- Về phía sinh viên: Cần chủ động trong việc tổ chức tự học, lập kế hoạch học tập cho bản thân trong từng giai đoạn, nắm vững quy trình LVĐLVS trong từng loại giờ học và vận dụng thường xuyên trong học tập, qua đó rèn luyện các kỹ năng đọc sách, thường xuyên tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của bản thân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] ..Iu.K. Babanxki: Tối ưu hoá quá trình dạy học. Cục đào tạo - bồi dưỡng, Bộ GD - ĐT, Hà Nội 1981.

[2] Đinh Quang Báo: Rèn luyện cho học sinh kĩ năng đọc sách giáo khoa. Viện nghiên cứu sư phạm, trường Đại học Sư Phạm Hà Nội, năm 2007.

[3] Hà Thị Đức: Nghiên cứu hoạt động tự học của SV sư phạm - Đề tài cấp Bộ B92 -24 - 48. Kỷ yếu đánh máy - 1994.

[4] A.A. Gorxevxki, M.I. Liubinsưna: Tổ chức tự học của học sinh Đại học - Bản dịch của tổ tư liệu, ĐHSP Hà Nội I - 1971.

[5] Trần Văn Hiếu: Tăng cường tổ chức cho SV làm việc độc lập với tài liệu học tập. TCNCGD, số 11.1993 tr 10.

[6] Đặng Vũ Hoạt, Hà Thị Đức: Hoạt động tự học của SV đại học. Bản đánh máy -HN - 1990.

[7] Mai Hữu Khuê: Học tập có phương pháp. NXB. Thanh niên, Hà Nội 1975.

[8] A. P. Primacovxki: Phương pháp đọc sách. NXB GD Hà Nội, 1978.



SITUATION OF WORKING INDEPENDENTLY WITH TEXTBOOKS AMONG THE STUDENTS OF HONGDUC UNIVERSITY IN THE CREDIT- BASED TRAINING

ABSTRACT


The learning activity is a process of acquiring knowledge, practicing skills and forming attitudes under the guidance of the teachers. The learning activity includes a system of learning skills among which the working with textbooks is of great importance to any subjects and age groups. Books are referred to as the most important means or materials to learners that help students take the initiative in their learning process to change the learning process into the self-training process through which the learners perform the tasks by themselves to master the knowdlege.

The present requirement of renovating the teaching approaches in universities towards developing the active awareness of learners requires the students to work independently with textbooks. Therefore, the following article studies deeper into the situation of working independently with textbooks among the students of HongDuc University in the credit-based training. The result of the study will be the foundation to propose the process of working with textbooks in the credit-based classes which helps students take control in their self-study to improve the effect of teaching and learing in many academic institutes.

THỰC TRẠNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CHO SINH VIÊN TRONG NHÀ TRƯỜNG

Lê Thị Thu Hà1

TÓM TẮT


Nghiên cứu khoa học của sinh viên là một nội dung quan trọng, không thể thiếu trong quá trình đào tạo ở trường đại học. Thực tiễn nghiên cứu cho thấy, hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trường Đại học Hồng Đức còn nhiều bất cập. Chính vì vậy, bài báo này nghiên cứu nhằm tìm ra nguyên nhân của những bất cập và hướng khắc phục góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học cho sinh viên.

Từ khoá: Nghiên cứu khoa học; chất lượng nghiên cứu

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Nghiên cứu khoa học (NCKH) của sinh viên là một nội dung quan trọng, không thể thiếu trong quá trình đào tạo ở trường đại học. Hoạt động này không chỉ có tác dụng trang bị cho sinh viên phương pháp luận, các kĩ năng, phương pháp nghiên cứu, rèn luyện tư duy khoa học, khả năng làm việc độc lập mà còn bước đầu hình thành và phát triển ở sinh viên những phẩm chât, tác phong của nhà khoa học như: suy nghĩ độc lập, sáng tạo, trung thực, kiên trì, nhẫn nại, làm việc có kế hoạch, có phương pháp khoa học để có thể bắt kịp sự tiến bộ của khoa học, công nghệ, đáp ứng nhu cầu xã hội.

Nghiên cứu khoa học của sinh viên các trường đại học được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau - bài tập lớn, tiểu luận, khoá luận tốt nghiệp, ý tưởng sáng tạo, đề tài nghiên cứu khoa học các cấp… Trong đó khoá luận tốt nghiệp và đề tài nghiên cứu khoa học là hình thức nghiên cứu khoa học ở mức độ cao. Tổ chức tốt các hoạt động này sẽ có tác dụng bồi dưỡng cho sinh viên hứng thú và nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo cho các trường đại học trong giai đoạn đổi mới của đất nước.

Các trường đại học hiện nay đang chuyển từ hình thức đào tạo theo niên chế sang hình thức đào tạo theo tín chỉ, việc phát huy tính tích cực, tự học, tự bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học của người học càng phải được quan tâm nhiều hơn.

Tìm hiểu thực tế ở trường Đại học Hồng Đức cho thấy, Nhà trường và các Khoa luôn kịp thời triển khai kế hoạch hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên. Một số sinh viên đã đăng ký tham gia nghiên cứu khoa học và đạt giải ở các cấp khác nhau. Tuy nhiên, không ít sinh viên còn ngại hoặc chưa mạnh dạn tham gia nghiên cứu khoa học, một bộ phận giáo viên ngại hướng dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học, một số đề tài nghiên cứu chất lượng chưa cao…

Trong bài viết này, chúng tôi đi sâu tìm hiểu thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trường Đại học Hồng Đức, nguyên nhân của những mặt được và chưa được, từ đó đề xuất ý kiến góp phần nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên.

2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU



Thực trạng hoạt động NCKH của sinh viên trường Đại học Hồng Đức

Để tìm hiểu thực trạng về hoạt động NCKH của sinh viên trường đại học Hồng Đức, chúng tôi đã tiến hành khảo sát 412 sinh viên trên 8 khoa (khoa Sư phạm Mầm non, khoa Sư phạm Tiểu học, khoa Kinh tế - Quản trị Kinh doanh, khoa Khoa học Tự nhiên, khoa Khoa học Xã hội, khoa Nông - Lâm - Ngư nghiệp, khoa Kỹ thuật Công nghệ, bộ môn Tâm lý- Giáo dục). Kết quả cụ thể thu được như sau:



* Kỹ năng NCKH của sinh viên trường Đại học Hồng Đức

Kết quả thu được ở bảng 1 cho thấy: Các mức độ kỹ năng đọc và khái quát tài liệu được sinh viên xếp ở thứ bậc 1 (điểm trung bình chung là 1.31); tìm kiếm tài liệu ở thư viện, Internet xếp ở thứ bậc 2 (điểm trung bình là 1.06). Hai kỹ năng này trong hoạt động học tập cũng như NCKH đều rất cần thiết. Theo đánh giá của sinh viên thì hai kĩ năng này của họ đạt được ở mức tương đối thành thạo vì luôn phải sử dụng. Kĩ năng xác định tên đề tài nghiên cứu được sinh viên xếp ở thứ bậc 3. Xác định tên đề tài NCKH là việc mở đầu cho công việc nghiên cứu nên buộc sinh viên phải có kĩ năng này, tuy nhiên trong thực tế, kĩ năng này của sinh viên chưa thuần thục. Các kỹ năng: lựa chọn và sử dụng các phương pháp nghiên cứu, lập đề cương nghiên cứu được sinh viên đánh giá ở thứ bậc 4; 5. Các kỹ năng: xây dựng khái niệm công cụ, phân tích và khái quát số liệu, trình bày công trình nghiên cứu, bảo vệ công trình nghiên cứu được sinh viên đánh giá còn ở mức độ thấp (chưa biết làm, hoặc làm khi được, khi không). Điều này hoàn toàn phù hợp với lôgic thực tế, sinh viên mới bắt đầu tập nghiên cứu khoa học nên các kỹ năng trên chưa được tập luyện nhiều.

Kết quả so sánh cho thấy: Kỹ năng NCKH của khối sư phạm cao hơn khối cử nhân. Các kỹ năng lập đề cương nghiên cứu, lựa chọn và sử dụng các phương pháp nghiên cứu…ở khối sinh viên sư phạm đều thuần thục hơn so với sinh viên khối cử nhân. Nguyên nhân chính là do khối sinh viên sư phạm được học môn phương pháp luận nghiên cứu khoa học giáo dục và được thực hành NCKH, trong khi đó phần lớn khối cử nhân sinh viên không được học phương pháp luận nghiên cứu khoa học hoặc có học nhưng ít được thực hành. Do đó, khi bắt tay vào hoạt động NCKH, sinh viên sư phạm không bị lúng túng, bỡ ngỡ do các kỹ năng NCKH của họ đã được rèn luyện.

So sánh giữa sinh viên năm thứ hai với sinh viên năm thứ tư cho thấy, các kỹ năng: lập đề cương nghiên cứu, xây dựng các khái niệm công cụ, bảo vệ công trình nghiên cứu, …của sinh viên năm thứ tư đều tốt hơn năm thứ hai. Như vậy, trong quá trình đào tạo ở trường kĩ năng NCKH của sinh viên ngày càng được phát triển và hoàn thiện.



Phỏng vấn và khảo sát thực trạng ý kiến của CBGV cũng cho thấy: Nhìn chung các kỹ năng NCKH của sinh viên còn chưa thuần thục. Nhiều sinh viên rất hăng hái đăng ký làm bài tập lớn hay tham gia NCKH nhưng khi bắt tay vào thực hiện lại lúng túng trong lựa chọn đề tài nghiên cứu, lập đề cương nghiên cứu, soạn mẫu phiếu Ankét, trình bày báo cáo.

* Các hình thức NCKH và hiệu quả của nó đối với việc hình thành kĩ năng NCKH của sinh viên

Bảng 2. Hiệu quả của các hình thức NCKH

TT

Các hình thức

Cử nhân

Sư phạm




K10

Chung

M



TB

M



TB

M



TB

M



TB

M



TB

1

Xêmina

206

0.88

1

191

1.07

2

197

0.96

1

200

0.97

2

397

0.96

2

2

Làm tiểu luận/ Bài tập lớn

203

0.87

2

225

1.26

1

174

0.84

2

255

1.24

1

429

1.04

1

3

Hội thảo khoa học

73

0.81

5

91

0.51

6

60

0.29

5

104

0.50

5

164

0.40

5

4

Câu lạc bộ khoa học

38

0.16

6

93

0.52

5

58

0.28

6

73

0.35

6

131

0.32

6

5

Viết sáng kiến kinh nghiệm

35

0.15

7

78

0.44

7

41

0.20

7

72

0.35

7

113

0.27

7

6

Khoá luận tốt nghiệp

184

0.79

3

129

0.72

4

121

0.59

3

192

0.93

3

313

0.76

3

7

Tham gia đề tài NCKH

94

0.40

4

138

0.77

3

86

0.42

4

146

0.71

4

232

0.56

4

8

Hình thức khác

37

0.16

8

51

0.28

8

18

0.09

8

70

0.34

8

88

0.21

8

Kết quả thống kê ở bảng 2 phản ánh thực trạng mức độ thường xuyên thực hiện các hình thức NCKH của sinh viên. Hình thức làm tiểu luận/bài tập lớn được sinh viên xếp thứ bậc 1, hình thức xemina xếp thứ bậc 2. Hai hình thức này thường xuyên được thực hiện ở trường đại học trong quá trình đào tạo. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên và cố vấn học tập, sinh viên được thường xuyên rèn luyện NCKH bằng 2 hình thức này và hiệu quả đạt được khá cao. Hình thức làm khoá luận tốt nghiệp được xếp thứ bậc 3, tham gia đề tài NCKH các cấp xếp bậc 4. Đây là những hình thức được sinh viên xếp hiệu quả khá. Hai hình thức này khó và thời gian thực hiện dài, do kinh nghiệm còn hạn chế nên hiệu quả đạt được chỉ ở mức độ khá. Hội thảo khoa học được sinh viên xếp thứ bậc 5, câu lạc bộ khoa học xếp thứ bậc 6, viết sáng kiến kinh nghiệm sinh viên đánh giá mức độ thấp nhất (thứ bậc 7). Viết sáng kiến kinh nghiệm thường được thực hiện với thời gian ngắn, tính chất nghiên cứu thấp nên sinh viên đánh giá hiệu quả của nó đối với việc hình thành các kĩ năng NCKH không cao.

Để tìm hiểu thêm về kết quả NCKH của sinh viên, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động. Năm học 2010 – 2011, trường Đại học Hồng Đức bắt đầu mở ra cuộc thi ý tưởng sáng tạo. Chúng tôi đã nghiên cứu các sản phẩm hoạt động NCKH của sinh viên qua cuộc thi này. Kết quả khảo sát thu được như sau:




tải về 2.69 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   16




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương