Thiên Chúa và Trần Thế Hồng y Joseph Ratzinger Đgh bênêđictô XVI bản dịch của Phạm Hồng Lam



tải về 1.72 Mb.
trang20/22
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích1.72 Mb.
#3938
1   ...   14   15   16   17   18   19   20   21   22

GIÀU CÓ TRONG KHÓ NGHÈO

Có một người đàn ông mà chúng tôi tìm thấy trong ống cống, một nửa người bị dòi bọ gậm nhắm và sau khi chúng tôi đem ông về nhà, ông chỉ nói :”Tôi đã sống như một con vật trên đường phố, nhưng tôi sẽ chết như một thiên thần, được yêu thương và được săn sóc”. Thế rồi sau khi được gắp bỏ mọi sâu bọ trên cơ thể, tất cả những gì ông nói, với nụ cười vui, là :”Thưa Seour, tôi đi về nhà Chúa đây”. Và ông tắt thở.

Thật là tuyệt vời khi nhìn sự cao cả của con người nầy đã có thể nói như vậy, không oán trách ai, không so đọ tính toán gì. Như một thiên thần, - chính là sự cao cả của những ai giàu có về mặt thiêng liêng – dù họ có thể nghèo về vật chất.

Chúng tôi không phải là những người làm công tác xã hội. Chúng tôi có thể đang làm công tác xã hội dưới mắt một số người, nhưng chúng tôi phải là những người chiêm niệm trong lòng thế giới. Vì chúng tôi phải đem sự hiện diện của Chúa đến trong gia đình bạn, vì gia đình đang cầu nguyện chung, đang ở chung với nhau. Có quá nhiều hận thù, quá nhiều lầm than khốn khổ và chúng tôi, cùng với lời cầu nguyện, cùng với hy sinh của mình, chúng tôi bắt đầu tại nhà mình. Tình thương yêu khởi đầu tại nhà và đó không phải là chúng tôi làm yêu thương bao nhiêu, mà là chúng tôi đặt bao nhiêu yêu thương vào những gì chúng tôi làm…Tôi muốn các bạn tìm thấy ở đây những người nghèo, trước hết ngay trong chính nhà bạn. Và tình thương yêu khởi đầu ở đó. Hãy nên Tin Mừng cho những người của bạn trước hết. Và hãy tìm hiểu về những hàng xóm gần nhà bạn. Bạn có biết họ là ai chưa? (Chân phước Mẹ Têrêxa Calcutta)



17. CÁC BÍ TÍCH

HOẠ ĐỒ KIẾN TRÚC ĐỜI SỐNG

Nhiều người trước sau vẫn sử dụng các kiểu nói Ki-tô giáo, nhưng chẳng còn hiểu gì về nội dung chúng, chứ đứng nói là sống theo những lời đó. Hãy nhìn vào bảy bí tích. Ngài có lần nói, trong các bí tích đó chứa đựng hoạ đồ kiến trúc cho cả cuộc sống. Và Johann Wolfgang von Goethe*, lớn lên trong giáo dục tin lành, quả quyết rằng, bí tích của Giáo Hội công giáo không những là cái “cao cả nhất của tôn giáo”, mà còn là “biểu tượng khả giác của lòng tốt và hồng ân tuyệt vời của Thiên Chúa”.

Trước khi đi vào từng bí tích, tôi tự hỏi: Không hiểu những bí tích đó có ích gì? Bí tích thêm sức, chẳng hạn, đâu có giữ cho thanh thiếu niên khỏi rơi vào nghiện ngập. Hay bí tích hôn nhân đâu phải là bảo chứng cho vợ chồng không ngoại tình, không dối nhau, không bỏ nhau sau một năm sống chung.

Tôi tin rằng bảy phép bí tích thật sự đóng ấn cho cấu trúc và những chặng đường lớn của đời người. Người ta cần cho những thời điểm quan trọng - như sinh ra và chết, trưởng thành và kết hôn – một dấu chỉ nào đó, qua đó chúng nhận được tầm quan trọng, niềm hứa hẹn cho tương lai và như vậy cả sự nâng đỡ.

Nếu chỉ nhìn bí tích dưới khía cạnh hiệu năng và coi chúng như phương tiện giúp con người có được thần lực để hoán cải mình, thì ta sẽ thất vọng. Vấn đề ở đây không phải vậy. Đức tin không phải một thứ gì lơ lửng trong không khí.Nó nhập vào thế giới vật chất. Các dấu chỉ của thế giới vật chất lại giúp ta đụng chạm được với Thiên Chúa. Như vậy, các dấu chỉ là sự biểu lộ tính thể lí của đức tin. Việc thấm nhập giác quan và trí tuệ là sự tiếp nối biến cố Thiên Chúa đã trở thành xương thịt và đã đã tỏ mình ra cho ta qua những dấu chỉ trần thế.

Bí tích, vì thế, là một cách chạm vào chính Thiên Chúa. Nó cho thấy Thiên Chúa không phải là chuyện thuần tinh thần, nhưng Ngài có cộng đoàn và thiết lập cộng đoàn; và Ngài kéo theo cả trái đất và tạo vật vào Ngài, và như vậy, tạo vật cùng các thành tố của chúng cũng trở nên siêu việt.

Cơ bản ở đây là, qua các bí tích, tính cộng đoàn và tính thể lí của đức tin được thể hiện; và chúng còn cho thấy rằng đức tin không phải do ta mà có, nhưng nó đến từ một sự uỷ quyền cao hơn. Các bí tích, cũng như toàn bộ hành động của Chúa, tất cả dĩ nhiên đều được tín thác vào tự do của ta. Và bí tích – cũng giống i như Tin Mừng – không tác động trong ta một cách máy móc, chúng chỉ tác động khi được ta chấp nhận và cùng bước đi với chúng.



GIÁC NGỘ

Khởi đầu là phép rửa, mà thời Giáo Hội nguyên thuỷ cũng gọi là sự giác ngộ. Đó là một nghi thức đầy tôn kính và trịnh trọng, ghi dấu cuộc đời bằng những bài đọc quan trọng. Trong phụng vụ phép rửa, khi trao thánh giá, người trao phép nói: “Tôi chúc lành cho anh / chị bằng dấu thánh giá, để anh /chị nhận ra rằng Đức Giê-su yêu qúy anh /chị. – Tôi làm dấu thánh giá trên mắt anh /chị, để anh / chị thấy việc Ngài làm. – Tôi làm dấu thánh giá lên tai anh /chị, để anh / chị nghe được lời Ngài nói. – Tôi làm dấu thánh giá lên miệng anh / chị, để anh /chị đáp trả lại tiếng gọi của Ngài. – Tôi làm dấu thánh giá trên tay anh /chị, để anh / chị hành động như Đức Giê-su“. Công thức trên là một biểu tượng. Nó muốn nói gì?

Biểu tượng dịch nghĩa là “trùng hợp với nhau”. Thoạt tiên, biểu tượng là một cách tự giới thiệu. Nó gồm sự kiện như sau: Có hai người, mỗi vị chia nhau một phần – cái triện đóng dấu chẳng hạn - , và hai vị đó đã nhận ra nhau, sau khi so hai phần triện đó có sự phù hợp với nhau. Về sau, biểu tượng mang nghĩa rộng hơn, nó dùng những hình ảnh giác quan để diễn tả một cái gì đó không thể thấy được.

Có nhiều biểu tượng kết tinh trong phép rửa. Người ta đã đưa vào đó những bước căn bản của quá trình dạy và học giáo lýnhập đạo thời xưa. Điều đó cũng ám chỉ rằng, phép rửa đòi hỏi một quá trình giáo lí, nghĩa là đòi hỏi một cộng đoàn cùng học và sống với nhau. Những bước của quá trình đó được tóm lại trong phép rửa. Mở mắt, mở miệng, mở tai. Đó là câu “Ephata“ mà Đức Giê-su đã công khai nói với người câm điếc, và rồi miệng và tai người đó đã mở ra và anh ta nói được, nghe được.Cũng vậy,nhờ phép rửa và nhờ cộng đoàn đồng hành, mà người tân tòng được đưa vào gia nhập trong đó, chúng ta hết câm để trả lời Chúa,hết điếc để nghe được tiếng Ngài. Nếu không nghe được Chúa, ta cũng không thể nói được lời đúng đắn,không thể cầu nguyện được với Ngài.Mở tai và mắt trong phép rửa cũng là để biết tập lắng nghe và tập ăn nói trong cộng đoàn sống đức tin, là để ta nhìn thấy được thiên tính trong tạo vật và thiên tính đó nối ta vào với Chúa qua dấu thánh giá.

Trong Giáo Hội cổ, phép rửa là một phần thưởng to tát. Ngoài việc phải qua thời gian học giáo lí, người dự tòng còn phải có hai người lớn làm chứng. Ngài chống lại việc rửa tội trẻ em?

Phép rửa còn có mục đích giúp cho đời người có một ý nghĩa vượt lên trên đời sống sinh vật, để họ hiểu rằng cuộc sống này đáng sống. Nhất là giữa thời buổi với tương lai đen tối như hiện nay, ta có thể đặt câu hỏi, là liệu còn có chút đạo đức nào không, khi sinh một đứa trẻ ra đời và như vậy là vứt nó vào một tương lai vô định, muốn sống cho ra người cũng khó? Và quả thật, khi người ta chẳng còn biết có nên làm người nữa không, thì phép rửa chỉ đáng nên làm, nếu như ta hiểu rằng, làm thế là ta trao cho con người mới đó một cái gì hơn thể xác nó, ta trao cho nó một ý nghĩa mà ta biết còn mạnh hơn mọi tăm tối của lịch sử. Chính phép rửa đưa con người đó vào chung cộng đoàn với Đức Ki-tô.

Như thế thì phép rửa trẻ em rõ ràng nên làm. Nhưng phải xét lại, nếu như không có thời gian học giáo lýđi trước, đây là chuyện thường xẩy ra trong xã hội mất hết tính Ki-tô giáo hiện nay. Nếu chỉ coi phép rửa như một nghi thức phải có, như một dịp lễ hội mà thôi, thì phải đặt lại vấn đề. Nhiều người ngày nay coi phép rửa là việc xã hội hoá trong một giáo xứ. Không, nó còn hơn điều đó nhiều; đó là một cuộc tái sinh mở ra những chiều kích sống mới.

Khoản 849 giáo luật viết: “Việc lãnh nhận phép rửa thật sự, hay ít ra ước ao nhận lãnh nó, cần thiết cho sự cứu rỗi”. Nếu vậy, chết trước khi nhận phép rửa thì sao? Và số phận nào dành cho hàng triệu thai nhi bị giết trong bụng mẹ?

Câu hỏi, phép rửa có cần cho việc cứu rỗi không, càng ngày càng trở nên nóng bỏng trong thời hiện đại. Công đồng Vatican II dạy, những ai trên đường tìm Chúa và mở lòng ra cho cái mà ta gọi là phép rửa, thì cũng được cứu rỗi. Điều đó có nghĩa là việc đi tìm Chúa cũng là một tham dự tinh thần với phép rửa, với Giáo Hội, với Đức Ki-tô rồi.

Như vậy, câu hỏi trên ngày nay xem ra đã được trả lời. Nhưng câu hỏi về các trẻ chưa lãnh phép rửa vì đã bị giết trong bụng mẹ, càng khiến chúng tôi nóng ruột hơn.

Xưa kia người ta luận rằng, phép rửa ban cho ta ơn nên thánh, nhờ đó ta có thể chiêm ngưỡng Chúa. Việc chưa nhận phép rửa, nghĩa là đang ở trong tình trạng mang tội tổ tông, làm ta không có được ơn nên thánh đó. Các trẻ chết sớm như thế thì không mang tội cá nhân nào, nên không phải sa hoả ngục, nhưng mặt khác vì không có ơn nên thánh, nên không được diễm phúc hưởng nhan thánh Chúa. Các em chỉ được ở trong tình trạng hạnh phúc tự nhiên mà thôi, tình trạng đó ta gọi là lâm-bô (Limbus). Đối với tôi, giáo lýđó thiếu rõ ràng.

Vấn đề trên càng trở nên phức tạp hơn trong thế kỷ20. Giáo lýkia là một hình thức để biện minh cho việc phải rửa tội trẻ em thật sớm, nhưng lối giải quyết của nó không vững. Rốt cuộc, với thông điệp Tin-mừng Sự-sống (Evangelium Vitae) Giáo chủ đã quyết định thay đổi. Í định này đã được đề cập trước đó trong sách Giáo-lí Công giáo, khi sách viết rằng, Chúa có đủ quyền năng để kéo vào Ngài cả những ai không thể nhận phép rửa.

TRƯỞNG THÀNH

Theo niềm tin của Giáo Hội công giáo, thêm sức là “bí tích để lớn lên trong đời sống siêu nhiên”. Nghĩa là sao? Đâu là tác dụng thật sự của nó ?

Có hai cử chỉ cơ bản nơi phép thêm sức : xức dầu và đặt tay. Đặt tay là dấu chỉ được Chúa che chở và cũng là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Thánh Linh. Xức dầu nối kết kẻ nhận phép với chính đấng được xức dầu, là Chúa Ki-tô, và trở thành dấu chỉ Chúa Thánh Linh, đấng tiếp nối cuộc sống của Đức Ki-tô. Phép thêm sức hoàn tất phép rửa ; phép rửa nhấn mạnh chủ yếu tới việc nối kết với Chúa Ki-tô, thêm sức nhấn mạnh việc chung sống với Chúa Thánh Linh.

Phép thêm sức cũng nói lên rằng người nhận từ nay là một thành phần tích cực, đầy đủ trách nhiệm trong Giáo Hội. Vì vậy mà thời gian gần đây người ta hay gọi đó là bí tích thành niên. Trước đây còn có “tát tai”, gợi nhớ lại nghi thức thành niên ngoài đời. Công đồng Vatican II đã bỏ điểm này. Vì nghĩ là một bí tích thành niên, nên nhiều người hiện nay thường hay nhận trễ, ở tuổi khoảng 16 hay 18. Nhưng cũng có một cái nhìn khác. Các Giáo Hội phương đông cho nhận thêm sức cùng một lần với phép rửa (trẻ em). Người ta lí luận rằng, chỉ được phép rước mình thánh Chúa, sau khi đã nhận hai bí tích dẫn nhập là phép rửa và thêm sức, và sau khi đã được nhận vào chung cộng đoàn với Đức Ki-tô trong Chúa Thánh Linh.

Thêm sức là một thứ lễ gia nhập, qua đó người thanh thiếu niên làm lễ mừng bước vào giai đoạn trưởng thành, giai đoạn làm người lớn. Thời Trung cổ, tu sĩ dòng An-tịnh Thomas ở Kempen đã viết cuốn sách nhan đề “Theo gương Chúa Ki-tô”, trong đó nói về những qui điều chỉ lối cho ta sống đúng đắn. Sách đó là tác phẩm được nhiều người đọc nhất sau Kinh Thánh. Một vài điều trong đó xem ra xa lạ đối với ngày nay. Nhưng ngay một triết gia cộng sản là Ludwig Marcuse cũng công nhận đó là “nghệ thuật để trở nên tinh sạch». Tu sĩ Thomas viết : “Nhiệm vụ cao cả nhất của mỗi người là học cách nhận chân con người mình”. Và tiếp : “Phải có khôn ngoan và toàn hảo lắm mới có thể tự hạ mình và luôn nghĩ tốt, nghĩ điều cao cả cho người khác”.

Trở về với nội tâm cũng là điều quan trọng cho ngày nay. Một trong những khía cạnh rõ ràng của thêm sức là nó đưa ta ra khỏi cái suy nghĩ thuần chuyện bề ngoài, thuần chuyện thành công và hiệu năng, đồng thời muốn nói cho ta hiểu rằng, ta còn có một nội tâm. Nó nhắc ta, như thánh Phao-lô nói xưa, hãy làm vững con người bên trong của mình. Nội tâm èo uột đang là một trong những vấn nạn lớn của thời đại. Trong ý nghĩa đó, có lẽ phép thêm sức quả thật là một đối trọng của khuynh hướng chạy theo bề ngoài, nó giúp cho những gì trong cuộc sống làm người giữ được cân bằng.

Thành công vật chất, trong nền văn minh tân tiến hiện nay, đã trở thành thước đo của mọi giá trị. “Ai cũng có thể làm được”, đó là lời hứa của đạo quân các nhà tâm lí kích-động. Thái độ này gần như trở thành mồi thuốc phiện.

Nó làm cho người ta theo nhau nghiện. Thấy người ta làm được, mình cũng muốn theo. Cha mẹ thấy con cái người khác chải chuốt và có tương lai, dĩ nhiên cũng muốn cho con mình được như thế. Nhưng tôi nghĩ, như thế, là người ta chỉ còn nhìn về một phía. Người ta muốn có thật nhiều, muốn nở mặt nở mày với thiên hạ. Tiếc rằng, chúng ta đã quên mất sự cần thiết của văn hoá nội tâm trong cuộc sống chúng ta.

Lúc này người ta cũng đang thử dùng các phương pháp tĩnh tâm để tìm cách dựng lại một thứ nội tâm nào đó. Nhưng, nhìn chung, những văn hoá tĩnh tâm đó lại thường nhằm để tăng cường khả năng thành đạt bề ngoài. Hoặc đó là những kĩ thuật đổ rác, làm cho con người rốt cuộc chẳng còn chút nội lực thật sự nào nữa. Tôi muốn nhắc lại, chúng ta phải thật sự tìm lại cho mình một nền văn hoá nội tâm mới, phải học lại cách làm sao để “con người bên trong”, chữ của thánh Phao-lô dùng, cùng lớn lên với con người bên ngoài, và làm sao để có được năng lực, hầu có thể chống lại được những cái bên ngoài đi ngược lại với ta.



HÀNH ĐỘNG CỰC THÁNH TẠI NƠI CỰC THÁNH

Khoảng năm 150 công nguyên, một học giả tên Justinus đã dâng lên hoàng đế Antonius Pius một thỉnh nguyện thư nhằm bảo vệ người Ki-tô giáo. Nhờ thư đó ta biết được việc cử hành thánh lễ thời đó. Thư viết : “Vào ngày gọi là Chúa nhật, mọi người trong thành và ở miền quê tụ tập nhau lại. Họ đọc lên cho nhau nghe những điều đáng suy nghĩ của các tông đồ hoặc sách các tiên tri, lâu hay mau tuỳ theo thì giờ họ có. Sau khi nghe xong, người chủ trì yêu cầu mọi người hãy noi theo những điều tốt trong các bài đọc. Sau đó tất cả chúng tôi đứng dậy và cầu nguyện. Sau cầu nguyện, bánh, rượu và nước được mang tới ; người chủ trì lớn tiếng dâng lên lời nguyện và cảm tạ, và dân chúng đồng thanh thưa Amen. Tiếp đó là phần chia các tặng vật. Mỗi người được lãnh một phần của thánh đó. Ai vắng mặt, các phó tế sẽ mang tới cho. Của ăn đó giờ đây gọi là lễ tạ ơn (Eucharistie). Được phép tham dự chỉ những ai coi giáo lýchúng tôi là đúng, đã được tẩy sạch tội lỗi và tái sinh trong bể nước, và sống theo như Đức Ki-tô đã dạy”. Cho tới ngày nay, sau 2000 năm, nghi thức đó xem ra vẫn không đổi ?

Vâng, đó là cơ cấu nền tảng của thánh lễ, mặc dù ngày nay một số chi tiết đã được phát triển thêm.



Có lẽ phải cần một thời gian nào đó để hiểu rằng đằng sau các nghi thức kia còn có một cái gì hơn thế nữa. Cũng như chỉ khi ta đứng từ bên trong nhà thờ mới thấy các tranh kính màu trên cửa sổ nhà thờ rạng sáng. Trước hết, ngài có thể giải thích cho tôi hay về diễn tiến của một thánh lễ ?

Trước hết là phần bài đọc. Người ta tụ họp nhau lại để lắng nghe và nhận lãnh bài đọc, đúng như những gì đã xẩy ra trong Giáo Hội sơ khai gần núi Si-nai. Các bài đọc nói tới trong thư trên là của các tiên tri và các thánh sử. Chúng giữ chỗ quan trọng trong thánh lễ, vì, như người ta nói, người ta muốn lắng nghe tiên tri, các tông đồ và Đức Ki-tô. Tiên tri ở đây là toàn bộ Kinh Thánh Cựu Ước. Tông đồ là các tông thư và Đức Ki-tô là tin mừng Tân Ước. Như thế, lời Chúa có thể nói gồm ba phần. Justinus viết, sau đó là phần cảnh cáo của vị chủ trì, điều này có nghĩa là có phần giải thích ý nghĩa bài đọc, bởi vì lời Chúa do những người không gần gũi với ta viết, nên muốn hiểu cần phải được diễn giảng.

Sau phần căn bản đó của thánh lễ: tụ tập nhau nghe lời Chúa, lời đổi mới, sửa dạy và khai sáng ta, mới đến phần thực sự là lễ tạ ơn. Phần này cũng chia ra ba giai đoạn. Trước hết giai đoạn chuẩn bị của lễ, bánh và rượu. Phần này tượng trưng cho việc ta dâng tạo vật lên cho Chúa. Tiếp đó là lời nguyện cảm tạ. Có nghĩa là vị giám mục hay linh mục đọc lên những gì mà Đức Giê-su đã nói ra trong đêm trước ngày chịu nạn. Đó là bài ca lớn ngợi khen Thiên Chúa. Bài ca bao gồm việc cảm tạ Chúa Ki-tô, đồng thời nhắc nhớ lại những gì Ngài đã nói và làm trong những giờ cuối của Ngài – và như thế, bánh và rượu không còn là của lễ của ta nữa, mà biến thành của lễ của Chúa Ki-tô, qua đó Ngài thực sự hiện diện đúng như những lời trong bữa tiệc li. Justinus là một tác giả cổ, ông viết rằng các của lễ đã “trở thành tạ ơn” (eucharistiert). Nói khác đi, bánh không còn là bánh, nhưng thành thịt Đức Ki-tô. Rượu chẳng còn là rượu, mà là máu Đức Ki-tô. Của lễ như vậy đã biến thành Lời sống động, thành lời của Đức Ki-tô, lời cảm tạ của Thiên Chúa.

Cuối cùng, qua cảnh phân phối quà chung góp, Justinus nói tới việc rước lễ và đề ra những điều kiện. Ông cho hay, đây là thánh lễ của những người đã tin. Như Chúa Ki-tô xưa trong bữa tiệc li đã chia sẻ với nhóm mười hai như thế nào, thì nay thánh lễ là cuộc tụ họp của những ai đã tin vào Đức Ki-tô, đã qua phép rửa trở thành Giáo Hội. Xem thế thì điều kiện tham dự cũng như cơ cấu cuộc lễ đã được hình thành hoàn chỉnh từ xa xưa rồi, và tới nay nói chung vẫn không thay đổi.



Thánh lễ được xem là hành động cực thánh nhất trần gian diễn ra nơi cực thánh nhất trần gian. Trong bí tích đó có thịt, máu, hồn và cả thiên tính của Đức Giê-su. Tôi muốn hỏi thêm một câu thật cụ thể : Phải chăng, với nghi thức trên, mỗi ngày thật sự diễn ra một phép lạ mới ? Việc bánh rượu trở thành mình máu chỉ có thể là một hình ảnh biểu tượng mà thôi.

Không. Giáo Hội xác tín rằng Đấng Phục Sinh hiện diện thực sự trong đó. Điểm này hẳn đã là đề tài gây tranh luận trong nhiều giai đoạn lịch sử của Giáo Hội. Cuộc tranh luận lớn đầu tiên xẩy ra trong buổi đầu thời Trung cổ, cuộc thứ hai trong thế kỷ16. Trong lần sau, Luther vẫn công nhận sự biến hình, trong khi Calvin và Zwingli* cho rằng đó chỉ là biểu trưng, nhưng mỗi người diễn giải mỗi cách, vì thế mà có sự phân rẽ lớn trong nội bộ phong trào Cải cách.

Nhưng Luther tin Chúa hiện diện chỉ trong chốc lát lúc truyền phép mà thôi, còn Giáo Hội công giáo tin rằng Chúa tiếp tục ở lại trong của lễ. Bởi vì, nếu bánh và rượu đã “biến hình” thật sự, như vậy nếu của lễ của con người đã biến thành của lễ Đức Ki-tô, thì hẳn Chúa cũng đã chiếm hữu hoàn toàn của lễ ấy. Vấn đề này lại được mang ra tranh luận trong thế kỷnày. Nhưng dù có nhiều nhà chú giải Kinh Thánh công giáo không đồng quan điểm với nhau, thì vẫn có những nhà chú giải không công giáo như Käsemann nhất mực bảo vệ sự hiện diện thật sự của Chúa. Ông cho hay, điều đó chính Kinh Thánh đã nói và đã trình bày rõ. Và trên thực tế, Kinh Thánh – và cả lưu truyền của Giáo Hội nữa – đã nói rất rõ : Chúa Ki-tô không những trao cho ta những biểu tượng, mà còn thật sự trao cho ta chính mình Ngài. Điều đó có nghĩa : rước lễ là một cuộc gặp gỡ giữa người với người ; qua đó Chúa Ki-tô đi vào trong tôi và tôi được vào trong Ngài.

Nhưng ai cũng thấy là rượu vẫn còn nguyên rượu…

Đó không phải là một phát biểu vật lí. Chưa bao giờ Giáo Hội xác quyết rằng, có một cái gọi là biến đổi vật lí sẽ xẩy ra. Biến hình ở đây mang một chiều sâu khác. Truyền tụng bảo rằng đó là một hành vi siêu hình. Bánh và rượu thuần vật lí đã được Chúa Ki-tô chiếm lấy và làm chúng biến đổi trong tận cùng sâu thẳm, và Chúa thực sự đã hiện mình trong đó.



Và khi một người rước mình thánh Chúa bằng cách đó, bí tích cực thánh này sẽ tác động thế nào trên người đó ? Hoặc ít ra nó có thể tác động ra sao?

Cả ở đây nữa, chúng ta cũng nên bỏ đi lối suy nghĩ xem mọi chuyện đều là phép lạ hoặc ma thuật. Đây là một diễn biến nội tâm cá nhân. Đấng Phục Sinh, mà giờ đây đang hiện diện trong bánh rượu kia, không phải là một sự vật. (Chữ “thịt và máu” luôn nói lên tính cách toàn thể của đấng Nhập thể, đấng vẫn giữ nguyên hình hài con người trong thế giới mới của phục sinh). Tôi không rước lấy một phần Chúa Ki-tô. Hiểu như thế quả là vô lí, nhưng đây là một diễn biến nội tâm. Chính Ngài tỏ lộ cho tôi và muốn đồng hoá tôi làm một với Ngài.

Thánh An-tịnh tin rằng ngài đã nghe câu này trong một thị kiến :”Hãy ăn ta, ta là bánh của kẻ mạnh”. Với câu đó, Đức Giê-su muốn nói một điều trái ngược với sự thường. Khi ta ăn gì, của ăn đó bị tiêu tán và trở thành một phần của cơ thể ta. Nhưng với Đức Giê-su thì khác : Ăn Ngài vào thì Ngài sẽ hoà tan ta vào trong Ngài. Ngài là kẻ mạnh hơn, Ngài sẽ đồng hoá ta vào Ngài. Như đã nói, đó là một diễn biến nội tâm. Trong cuộc trao đổi này, ta là người được nhận lãnh. Ta được trở nên ngang bằng với Chúa, được trở nên giống như Ngài. Và đây mới chính là quá trình giao tiếp: Ta để cho Chúa kéo vào Ngài, kéo vào chung làm một với Ngài, và rốt cuộc nhờ đó tâm hồn ta được trở nên giống Ngài.

PHỤNG VỤ

Thánh lễ có được tính cách lễ hội và tôn kính nhờ qua một cái gì đó rất tuyệt vời và cao cả trong tâm linh công giáo, đó là phụng vụ. Trong phụng vụ, mỗi chữ mỗi cử chỉ đều mang một ý nghĩa cá biệt, có thể nói gần như ẩn chứa một bí mật riêng. Qua phụng vụ trần gian, người tín hữu được tham dự trước – điều này cũng được công đồng Vatican II nói tới – vào “phụng vụ thiên đình”.

Đây là một điểm rất quan trọng. Phụng vụ không bao giờ chỉ là cuộc lễ hội do một nhóm người tự nghĩ ra và tổ chức. Nhưng ở đây, qua sự thông phần vào việc Đức Giê-su Ki-tô trình diện trước mặt Thiên Chúa Cha, chúng ta luôn cùng đứng trong cộng đoàn hoàn vũ của toàn thể Giáo Hội cũng như trong cộng đoàn các Thánh. Vâng, có thể nói đây là một phụng vụ thiên đình. Cái thực sự cao cả ở đây là thiên đình mở ra, và chúng ta nhập vào ca đoàn thiên quốc. Đó là lí do mà kinh tiền tụng đã kết thúc bằng : Chúng ta cùng hát với ca đoàn các thiên thần Se-ra-fim và Ke-ru-bim. Và ta biết, là ta không đơn độc, nhưng chúng ta đang cùng chung lời ca để thật sự xé tan đi làn ranh ngăn cách trần gian với thiên quốc.



Đại giáo phụ Basilius* nhận định rằng, thánh lễ cũng là nguồn mạc khải lớn như Kinh Thánh. Vì thế ngài cấm nghiêm nhặt không được tuỳ tiện giải thích hay cải đổi phụng vụ. Nếu phụng vụ không do con người làm ra, nhưng là một cái gì qua đó con người được kinh nghiệm với cái tuyệt vời thần linh – thì lẽ ra ta phải coi thánh lễ cũ của đại giáo chủ Grê-gô-ri-ô như là một quà tặng từ trên và không được thay đổi nó ?

Vấn đề này có một vài phân cách giữa đông và tây. Chẳng hạn Giáo Hội Byzantin thừa nhận hình thái phụng vụ của thế kỷthứ 4 và 5 với Basilius và Gio-an Chrysostomos. Cũng như các Giáo Hội đông phương khác, Giáo Hội Byzantin coi đó là một quà tặng thần linh, không thể sửa đổi : Chúng ta bước vào nó, chứ không tạo ra nó (dĩ nhiên một số chi tiết cũng đã biến chuyển theo thời gian).

Phương tây, trái lại, luôn có một nhạy cảm lịch sử mạnh hơn. Họ cũng nhận ra tính cách quà tặng nơi phụng vụ, nhưng quà đó đã được hội hập vào Giáo Hội sống động, và đã cùng lớn lên với Giáo Hội. Ta cũng có thể so sánh với Kinh Thánh. Đó không phải là Lời rơi thẳng từ trời xuống, nhưng là Lời đã được đưa vào lịch sử, và được cùng lớn lên với lịch sử. Vì vậy, Giáo Hội phương tây vẫn chấp nhận tính cách bất khả xâm phạm cơ bản của phụng vụ trong tổng thể nội dung và hình thức của nó, nhưng đồng thời vẫn thận trọng để cho nó lớn lên với lịch sử.

Lễ quy thánh lễ Rô-ma giống như bên phương đông, cũng hình thành trong thế kỷthứ 4. Sau đó, cả bên tây cũng đã nẩy sinh thêm nhiều kiểu phụng vụ, do ảnh hưởng của Pháp, của Tây-ban-nha, của Đức và tiếp theo từ nhiều nguồn khác. Mỗi quốc gia xuất hiện đều được phép góp vào tiến trình phát triển đó một phần của mình, trong đó Rô-ma luôn góp í một cách thận trọng và đôi khi phải chận cắt bớt những cái thái quá. Trong quá trình lớn lên này, Rô-ma là kẻ đã giữ phụng vụ trong hình thái cổ của nó một cách nghiêm nhặt nhất, tôi có thể nói, còn cổ hơn bên đông nữa, ít nhất là nhìn từ mô thức thần học.

Với cách đó, phụng vụ luôn sống động trong quá trình lịch sử - nhờ đó ta có thể đưa vào được những cái mới, đặc biệt các thánh mới -, nhưng trong bản chất, phụng vụ vẫn luôn không đổi. Cũng vì vậy bên tây mới có thể nghĩ tới chuyện cải tổ phụng vụ. Song cải tổ không được phép cắt đứt với truyền thống, nhưng phải diễn ra trong sự quan tâm tới những phát triển sống động, cũng như phải canh chừng cái phát triển, để làm sao giữ được sự sống động. Chẳng hạn giáo chủ Pi-ô X đã hạn chế bớt lễ kính các thánh. Ngài cũng đã nhấn mạnh trở lại ngày chủ nhật trong bộ luật của ngài và bỏ bớt những cái dư thừa trong đó. Ngay Pi-ô V cũng đã bỏ đi một một số bài ca đã len lỏi vào phụng vụ. Công đồng Vatican II cũng đứng trong quan điểm đó. Việc tiếp tục phát triển để tránh không bị xơ cứng đã thuộc vào truyền thống phụng vụ của Giáo Hội. Nhưng sự khác biệt mà tôi muốn nói ở đây là, tôi đang canh giữ một cái gì đang sinh động phát triển, và biết rằng sự sống của nó không nằm trong tay tôi – nhưng tôi phải phục vụ nó và phải để ý tới quy luật nội tại của cái sống động đó -, hay là tôi xem cái đó như một thứ sản phẩm con người, nó diễn tiến như kiểu theo quy luật của một chiếc máy mà tôi có thể cải biến hoặc làm khác đi.

Công đồng Vatican II hẳn có quan tâm tới những phát triển và đổi mới cơ chế. Nhưng chúng ta phải thấy rằng, ngày nay đang có nhiều khuynh hướng muốn lắp ráp thêm hoặc tháo gỡ bớt - chuyện này không phù hợp với bản chất của phụng vụ. Không phải đơn giản các uỷ ban giáo sư tự nghĩ ra chuyện làm sao để phụng vụ được tốt hơn về mặt mục vụ, để nó được thực tế hơn hay là gì gì đi nữa. Nhưng ta phải coi xem chỗ nào cần và có thể thêm gì, chỗ nào cần và có thể bớt gì, trong sự quan tâm lớn tới khối hành trang đã có từ nhiều thế kỉ.

Và đây có thể là lời cảnh cáo quan trọng đối với tất cả những ai có trách nhiệm với phụng vụ : Họ nên thi hành công tác với tinh thần phục vụ những gì đã sinh động lớn lên, những gì đã từ bao thế kỷnay mang lại cho ta đức tin, chứ đừng nghĩ mình là những kẻ toàn năng, có thể sáng tạo hoặc chế biến ra được cái hay hơn.

Chẳng còn ai quan tâm gì tới những phê bình về phụng vụ hiện tại. Nhiều người cho rằng phụng vụ chẳng còn linh thiêng đủ. Phải chăng cần cải tổ tiếp cái đã cải tổ, để tìm lại tính chất linh thiêng ?

Cái cần tối thiểu bây giờ là làm sao phải tạo lại một ý thứcmới về phụng vụ, để cho tinh thần tự biên tự diễn kia biến đi. Vấn đề đã đi quá xa, có những nhóm tự bày ra luôn hình thức dâng lễ chủ nhật. Đây quả là sản phẩm của một số đầu óc khôn ngoan và mạnh dạn, dám nghĩ ra một cái gì. Nhưng làm vậy thì đâu còn chỗ cho cái thánh thiêng được trao tặng cho ta, mà chỉ còn là cái khéo tay của một vài người. Và rồi ta sẽ nhận ra đó không phải là cái ta tìm, cái đó quá ít, ta chờ đợi một cái gì khác kia.

Điều quan trọng nhất ngày nay, là ta phải tìm lại được lòng kính trọng và tính chất bất khả nguỵ tạo của phụng vụ. Phải học lại cách để nhận biết đó là một tặng phẩm và là một phát triển sống động, qua đó ta tham dự vào phụng vụ thiên quốc. Phải coi đó là một món quà Chúa gởi đến cho ta, chứ không phải là một sản phẩm tự chế của ta.

Tôi nghĩ, việc đầu tiên là phải chấm dứt tinh thần tự biên tự diễn và phải để cho cảm thức về sự thánh thiêng lớn lên. Bước thứ hai, ta có thể rồi sẽ nhận ra được lãnh vực nào đã bị cắt xén quá nhiều, chữa lại để làm sao sự liên hệ với toàn bộ lịch sử có được rõ ràng và linh động trở lại. Trong ý nghĩa đó, tôi chủ trương cải tổ lại những cải tổ. Tuy nhiên, theo tôi, tiến trình này phải bắt đầu bằng sự giáo dục nhằm chống lại việc phá nát phụng vụ bằng những sáng chế cá nhân.

Phải chấm dứt thái độ khinh miệt hình thức phụng vụ đã có giá trị cho tới năm 1970, đây cũng là điểm quan trọng trong việc giáo dục một ý thứcphụng vụ đúng đắn. Cho tới nay, những ai tranh đấu hay cổ xuý cho việc tiếp tục cử hành nghi lễ cũ, đều bị đối xử như những người phung hủi ; thật chẳng có chút gì gọi là bao dung cả. Chưa bao giờ xẩy ra chuyện như thế trong lịch sử, làm vậy là người ta khinh cả toàn bộ quá khứ của Giáo Hội. Khinh quá khứ thì làm sao tin vào hiện tại của Giáo Hội được? Nói thật lòng, tôi cũng không hiểu nổi, tại sao có nhiều đồng nghiệp giám mục của tôi lại chấp nhận hành động bất khoan dung rõ ràng đi ngược lại những hoà giải cần thiết trong nội bộ Giáo Hội như thế.

Tới bao giờ mới thật sự diễn ra bước thứ hai mà Hồng Y đã nói tới : cải tổ lại những cải tổ ?

Tôi nghĩ, nó cũng giống như phong trào phụng vụ trước đây đã đưa tới công đồng Vatican II. Phong trào đó lúc đầu tiến triển khá chậm, về sau đã nhanh chóng trở thành dòng nước mạnh. Quan trọng là phải có một thúc đẩy từ các tín hữu sống động nhiệt thành, phải có những địa điểm thí điểm, nơi đó phụng vụ được cử hành một cách đúng đắn, khiến người ta nhận ra được đâu là ý nghĩa thực sự của thánh lễ. Nếu như từ đó mà một phong trào nổi lên và không bị dập tắt từ trên, thì rồi chuyện sẽ tới. Và tôi tin rằng, đã có một khơi nguồn về hướng đó rồi nơi thế hệ mới hiện nay.



Hồng Y đã hình dung ra được một hình thái phụng vụ đích thực, thánh thiêng, một phụng vụ cho tương lai dân Chúa và Giáo Hội chưa ?

Chuyện căn bản là làm sao chúng ta đón nhận lại những hình thức quà tặng và để lòng mình thấm nhập vào chúng. Khi nghĩ lại những giai đoạn của phong trào phụng vụ mà tôi may mắn đã trải qua, tôi thấy đó quả là một cái gì tuyệt vời, khi mình lần hồi thấy được các thánh lễ mùa chay đã phát triển thế nào, hiểu được cấu trúc của mùa chay ra sao, hiểu được toàn bộ cấu trúc thánh lễ và nhiều thứ nữa. Vấn đề là làm sao thấm nhập được vào kho tàng của cái đã hình thành và lớn lên đó, và qua đó gặp được nỗi huy hoàng của Thiên Chúa đang trao tặng cho ta. Quan trọng nhất, theo tôi, là học lại được tinh thần lắng nghe – “hỡi con, hãy lắng nghe”, thánh Biển-đức đã nói thế, và hiểu được rằng mình là kẻ đón nhận hơn là người sáng chế.



Thánh lễ nên cử hành lại bằng tiếng La-tinh ?

Chuyện đó, xét chung, không còn thực hiện được nữa đâu, và có lẽ cũng không phải là điều mong muốn. Thánh lễ có lẽ tốt hơn nên cử hành bằng tiếng mẹ đẻ. Nhưng tôi chủ trương nên có một cởi mở mới cho tiếng La-tinh.

Tiếng La-tinh trong thánh lễ lúc này xem ra mắc phải tội tổ tông. Tuy nhiên, thiếu nó, là ta mất đi những trao đổi giao tiếp rất cần thiết trong những vùng nhiều sắc dân. Chẳng hạn, một chánh sở nhà thờ chính toà ở Avignon kể cho tôi hay, ngày chủ nhật nọ xuất hiện một lúc ba nhóm ngôn ngữ. Ông đề nghị làm lễ chung bằng La-tinh, để tất cả có thể cùng thông công, nhưng cả ba phản đối thẳng thừng : Không, mỗi nhóm phải có gì riêng cho họ. Hay ta hãy nghĩ tới những địa điểm du lịch, thật tuyệt khi nơi đây nhờ có một điểm chung mà người ta nhận ra nhau. Vì thế, cần suy nghĩ về điểm này. Nếu như ở Rô-ma ngay trong những dịp lễ lớn không còn ai hát được Kyrie hay Sanctus nữa, không còn ai hiểu được Gloria nghĩa là gì, thì đó là một mất mát văn hoá và là một mất mát những cái chung. Như vậy tôi có thể nói, thánh lễ nhất định nên bằng tiếng địa phương, tuy nhiên cũng cần giữ lại La-tinh như một cái nền chung liên kết chúng ta lại với nhau.

- Nhà văn Martin Mosebach có lần kể câu chuyện ngắn về một thánh lễ, đã diễn ra nhiều năm trước đây trên đảo Capri. Ngày nọ trên đảo xuất hiện một linh mục người Anh, linh mục này thời đó còn bận áo chùng, một sự kiện đã hiếm thấy ở miền nam nước Í. Khi nghe ông có í muốn dâng lễ mỗi ngày, sau những đắn đo ban đầu, người dân trên đảo cuối cùng đã dành cho ông một nhà nguyện chênh vênh trên một đống đá trên biển, nơi gọi là Monte Tiberio, chỗ xưa kia có dinh Jovis, một trong những dinh phụ của hoàng đế Tiberius. Nhà nguyện này mỗi năm chỉ mở cửa một lần, vào ngày 8 tháng 9, ngày lễ sinh nhật đức Bà. Thời gian còn lại trong năm được dành cho lũ chuột, chúng gặm nhấm đến cả các ngăn tủ nhà mặc áo.

- Ông linh mục người Anh là người thực tế, không phải là nhà thần học lớn, bắt tay vào việc. Ông leo lên núi, phóng cái nhìn xuống toàn vịnh biển chung quanh. Trước hết, phải chật vật lắm mới mở được ổ khoá cửa vào nhà nguyện đã rỉ sét. Rồi ông bước vào, theo ông là một làn tia sáng mặt trời, rọi chiếu vào căn phòng ẩm mốc. Cánh cửa thiếc nhà tạm mở toang, nến cháy cạn đáy, ghế vứt ngổn ngang, và nhà mặc áo bừa bãi như người ta đã bỏ trốn vội vàng. Bình hoa bẩn, khăn bàn thờ mốc meo, một chén thánh hoa văn loè loẹt, các khăn bàn ẩm dính lại với nhau trong tủ, cuốn sách lễ rách bươm, ngay cả thánh giá cũng đã cong queo.

- Vị linh mục nhìn qua mọi thứ, suy nghĩ. Ông mở toang cửa sở, cầm lấy cây chổi rơm ở góc nhà và bắt đầu quét. Rồi ông cầm cây thánh giá, đưa lên hôn và bỏ vào tủ phòng mặc áo. Chùi sạch chén thánh, bật sáng các ngọn đèn. Nhìn thấy đoạn dây chuông, ông lấy thang leo lên tháp và buộc dây vào chuông. Giờ thì mọi chuyện kể như đã ổn.

- Vị linh mục đeo vào người tấm dây Stola màu tím, đổ ít nước từ một bình nhựa nhỏ mang theo vào cái nồi nhỏ, đọc lời nguyện, bỏ thêm vào ít muối, rồi dơ tay làm phép, đoạn đổ nước phép đó vào chậu con sò bằng đá dựng bên cánh cửa ra vào, tiếng nước đổ lao xao nghe như thể chậu đá thức dậy, thở phào. Ông kéo chuông. Xa xa vài ba tín hữu, đàn bà và trẻ con, xuất hiện kéo tới, chẳng mấy lúc đầy nhà nguyện.

- Giờ thì có thể bắt đầu thánh lễ. Linh mục cúi mình trước bàn thờ và cất giọng đọc : Introibo ad altare dei (Con bước tới trước bàn thờ Chúa).

- Ai để tâm quan sát thì có thể nhận ra hình như có một chuyện gì đặc biệt đã xẩy ra, khi vị linh mục mặc áo chùng thâm kia lau sạch bàn thờ, đốt nến, làm phép nước, lau bụi bám, vứt bẩy chuột vào một góc nhà. Vì cũng giống như Abel hay Noê xưa, thoạt tiên dựng bàn thờ rồi sau đó mới dâng của lễ. Và cũng như Mai-sen, vị linh mục cắm cọc xác định chỗ dựng lều làm bàn thờ. Đó là một sự chuẩn bị và cắm cọc xác định chỗ thánh.

Mosebach mô tả thật thi vị, nhưng tình hình chung ở Capri không đến nỗi thê thảm như người ta nghĩ đâu. Nhưng hãy bàn tiếp việc chuẩn bị bề ngoài và bề trong, hai chuyện đó đương nhiên liên quan với nhau. Sứ mạng thừa sai của thánh Phan-sinh cũng bắt đầu như thế. Ngài đọc ra ý nghĩa của những chữ nổi tiếng trên thánh giá là – “con hãy xây lại nhà nguyện cho Ta” - và đã nghĩ ngay tới nhà thờ đổ nát ở Portiuncula. Ngài đã xây nó lại thành một nguyện đường đẹp đẽ, và rồi nhận ra rằng mình phải làm hơn thế nữa, đó là phải xây lại nhà thờ Giáo Hội sinh động.

Nhưng công việc tay chân bước đầu đó cũng là một công đoạn không thể thiếu. Phải lo làm sao phòng ốc, nhà nguyện luôn được sửa soạn mới mẻ, làm sao để người ta có thể nhận ra và cảm được sự thánh thiêng cả bề ngoài lẫn bề trong, đó là điều rất quan trọng. Cám ơn Chúa, chúng ta có rất nhiều nguyện đường tuyệt diệu trên khắp thế giới, giờ ta cũng nên học lại cách yêu mến sự thánh thiêng nơi chúng. Ngọn lửa trước nhà tạm giúp ta cảm được sự hiện hiện âm thầm đêm ngày của Chúa. Ngày nay, nhiều nhà thờ thường được dùng làm nơi hoà nhạc, làm nơi gần như để khoa trương cái đẹp của quá khứ mình, như vậy có nghĩa là trên thực tế ta đã mất đi cảm quan về sự thánh. Phải có lại được cảm quan đó, phải có lại được sự chuẩn bị căn phòng bên ngoài lẫn bên trong, đó là điều kiện để ta nhập tâm vào thánh lễ, hầu thực sự gặp được sự thánh thiêng trong đó.

Phải chuẩn bị rước Mình thánh như thế nào ?

Cách chuẩn bị đúng nhất là khi ta thật sự lãnh hội được ý nghĩa của hành động đó, khi ta để cho lời Chúa đánh động, khi ta hướng lòng tới Đức Ki-tô trong những lời nguyện đã được Giáo Hội lưu truyền lại từ rất xa xưa. Cùng cầu nguyện và dâng lễ một cách đúng đắn trong thánh lễ có nghĩa là ta phải để tâm lắng nghe và sẵn sàng đón nhận, qua đó cửa lòng mình hé mở ra để Chúa có thể đi vào. Và ngược lại, cái tôi của tôi lúc đó cũng thật thanh thản và rộng mở, đến nỗi tôi có thể bắt đầu bước được vào trong Ngài.



Khi rước lễ phải có thái độ nào ?

Phải cư xử như đang đối diện thật sự với Chúa. Những dấu chỉ của lòng kính sợ đã thay đổi theo thời gian. Nhưng căn bản là thái độ của ta phải biểu lộ được những cảm nhận trong lòng, và sự kính trọng cũng phải được tỏ ra qua phong cách của cơ thể. Trước kia, rước lễ quỳ gối, động tác này rất có ý nghĩa. Nay rước lễ đứng. Nhưng cái đứng này cũng phải là một cái đứng đầy kính trọng trước mặt Chúa.

Trong Giáo Hội, không bao giờ được để mất hành vi quỳ gối. Đây là phong cách thâm sâu nhất nói lên lòng đạo nơi ki-tô hữu. Phong cách này cho thấy thái độ thẳng thắn của ta nhìn hướng lên Chúa, đồng thời nói lên vị trí thấp bé khiêm tốn của ta. Giáo chủ Gio-an XXIII nói : “Con người không bao giờ lớn khi họ quỳ gối”. Vì thế tôi tin rằng đây là cung cách không thể thiếu được nơi tín hữu ki-tô, cung cách cầu nguyện đó đã có từ thời Cựu Ước rồi.


Каталог: KHANG

tải về 1.72 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   14   15   16   17   18   19   20   21   22




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương