Sở y tế nghệ an bệnh việN Đa khoa huyện thanh chưƠng đỀ CƯƠNG


Hình 1.4. UTBM không phải dạng đặc biệt (Fernando Schmitt và cs [20])



tải về 0.56 Mb.
trang7/17
Chuyển đổi dữ liệu29.01.2023
Kích0.56 Mb.
#54147
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   17
đề cương nghiên cứu khoa học năm 2022.bs hồng XN

Hình 1.4. UTBM không phải dạng đặc biệt (Fernando Schmitt và cs [20])


UTBM xâm nhập không phải loại đặc biệt cần được phân biệt với các tổn thương nội ống tăng sinh không điển hình. Việc tuân thủ các đặc điểm tế bào học nghiêm ngặt của ung thư tuyến vú, sự vắng mặt của các tế bào cơ biểu mô và mô đệm và tương quan với các dấu hiệu hình ảnh (bộ ba chẩn đoán) là chìa khóa để chẩn đoán chính xác[32].



          1. UTBM xâm nhập loại đặcbiệt



* UTBM thể tiểu thùy xâm nhập

UTBM tiểu thùy xâm nhập là typ phổ biến đứng thứ hai trong các loại UTV, chiếm khoảng 10% tổng số các loại UTV. Tiên lượng của thể này dựa vào đặc điểm GPB, lâm sàng vẫn còn nhiều tranh cãi. UTBM tiểu thùy xâm nhập với các biến thể như dạng đặc, dạng phế nang, đa hình ống thùy (tubulalobular) và các biến thể hỗn hợp được chẩn đoán, có liên quan đến tiên lượng khác nhau khi so sánh với UTBM tiểu thùy xâm nhập típ cổ điển. Trong số UTBM tiểu thùy đa hình thái, có thể thấy loại biệt hóa mô bào, tiết hủy đầu hay tế bào nhẫn[33].



Hình 1.5. UTBM thể tiểu thùy xâm nhập (Gary Tse và cs [19])


Nghiên cứu của Jayaram và cs (2000) cho thấy trong UTBM tiểu thuỳ xâm nhập, mật độ tế bào trung bình hoặc các hình thái tế bào đứng phân tán trong 86% số trường hợp. Hình thái hoa hồng được phát hiện trong UTBM tiểu thuỳ xâm nhập typ chùm nang. Kích thước nhân tế bào thường nhỏ hoặc trung bình và lệch tâm trong nhiều trường hợp. Có thể gặp UTBM tiểu thuỳ xâm nhập có hay không có tế bào nhẫn. Trong UTBM tiểu thuỳ thành phần chủ yếu là các tế bào kích thước nhỏ hoặc trung bình, đứng phân tán, nhân lệch tâm. Hình thái tế bào xếp thành hàng một và các đặc điểm khác của UTBM tiểu thuỳ chỉ là những ổ và không hằng định. Các biến thể của UTBM tiểu thuỳ xâm nhập có thể có các hình ảnh tế bào học khác như hình thái giống hoa hồng (biến thể nang của UTBM tiểu thuỳ xâm nhập) hoặc hình thái tế bào lớn (biến thể đa hình thái của UTBM tiểu thuỳ xâm nhập) có thể khó định loại trên phiến đồ tế bào học[34].
Một biến thể khác bao gồm những tế bào kích thước lớn hơn với hạt nhân không điển hình nổi bật và có thể được phân loại sai là u tuyến trong 25% các phiến đồ tế bào học[35].
Nghiên cứu của Lerna và cs (2000) về những trường hợp UTBM tiểu thuỳ xâm nhập không phát hiện được trên tế bào học chọc hút kim nhỏ cho thấy những phiến đồ nghèo tế bào với những nhóm nhỏ ít tế bào(nhưng thường với ít nhất 10 nhóm trên một phiến đồ) có thể liên quan với UTBM tiểu thuỳ xâm nhập. Trong những trường hợp này cần nghiên cứu tiếp để xác định tính chất ác tính[36].

  • Ung thư biểu mô ống nhỏ và UTBM dạng sàng xâmnhập

Biến thể này của UTBM biệt hóa cao thường tạo nên các khối u vú nhỏ (1-2 cm). Chất hút có chứa số lượng thay đổi các cấu trúc ống nhỏ hay tuyến với một lõi lòng ở trung tâm. Các tế bào thường tạo thành đám và dính với nhau. Một số nhân kéo dài (hai cực) và bào tương tương xứng, đôi khi tạo thành hình dấu phẩy. Các tế bào này thường được vây quanh bởi các giọt mỡ. Phiến đồ hút dễ bị chẩn đoán nhầm vì hình ảnh tương đối lành tính của từng tế bào riêng lẻ, tuy nhiên các tế bào trong ung thư ống nhỏ thường có xu hướng đứng phântán.

  • Ung thư biểu môtủy

U lớn, mật độ mềm, giới hạn rõ, chiếm khoảng 4% UTBM vú. Trênphiến đồ tế bào học, có nhiều tế bào u lớn hình trứng hay hình đa diện, đa hình thái. Tế bào u thường đứng riêng lẻ, có bào tương tương xứng, sáng hoặc hơi kiềm nhẹ, hình túi, dễ vỡ. Vì vậy thường thấy các nhân hình tròn hay bầu dục và có tăng chất nhiễm sắc với sự vón cục bất thường và phân bố không đều. Các hạt nhân thường nổi rõ, có số lượng, hình dạng và kích thước không đều. Trên nền phiến đồ có một số lượng thay đổi các tế bàolympho.
Trong nghiên cứu của Haji BE và cs (2007), trong ung thư biểu mô tủy, tế bào lympho xuất hiện ở 100% các trường hợp, cao hơn so với các loại UTBM nhú, UTBM nhầy và UTBM biệt hóa tiết hủy đầu (p <0,0001)[37].
Tế bào học chỉ có giá trị gợi ý, sinh thiết vẫn là cần thiết để chẩn đoán. Một chẩn đoán ung thư tủy trên tế bào học chỉ có thể được đưa ra khi lâm sàng là khối u di động và hình ảnh tế bào học điển hình. Tuy nhiên,"tính năngtủy" có thể được công nhận trong dịch hút, và điều này có thể hữu ích cho lâm sàng vì những khối u này có liên quan với đột biến gen BRCA 1 [20].

  • Ung thư biểu mô biệt hóa tiết hủy đầu

UTBM biệt hóa tiết hủy đầu (UTBM tuyến tiết rụng đầu) đơn thuần hiếm gặp (<1% tất cả các UTV). Tuy nhiên biến đổi tuyến mồ hôi ổ tương đối phổ biến trong UTV (khoảng 10% các trường hợp). Đây thường là một biến thể của UTBM thông thường và tiên lượng tương tự. Hơn nữa, biệt hóa tuyến tiết rụng đầu cũng được mô tả trong các typ khác nhau của UTBM bao gồm UTBM tiểu thùy và UTBM tủy. Chất hút chứa một số lượng thay đổi các tế bào tròn, rộng giống tế bào tuyến tiết rụng đầu lành tính. Chúng là những tế bào riêng lẻ hoặc tạo thành nhóm nhỏ các tế bào liên kết lỏng lẻo nhưng rất ít khi tạo thành dải. Bào tương tế bào ưa toan, rộng, dạng hạt hay hốc, màng bào tương không rõ. Nhân tế bào lớn, tròn và hạt nhân nổirõ.
Có thể kèm theo một số lượng vừa phải lympho bào. Chẩn đoán đặc hiệu bằng tế bào học đơn thuần thường khó và các tế bào ác tính cũng giống các tế bào dị sản tuyến tiết rụng đầu lành tính. Hình ảnh tế bào với ranh giới không rõ ràng, liên kết lỏng lẻo là những gợi ý bệnh ác tính khi so sánh với các tổn thương lành tính, ngược lại, sự hiện diện của một quần thể tế bào có nhiều hình thái là đầu mối để chẩn đoán chính xác các tổn thương lành tính[38].
Chẩn đoán tế bào học chọc hút bằng kim nhỏ UTBM tuyến tiết rụng đầu, Gupta và cs (2000) đã đi đến kết luận là phải tìm thấy những bất thường tế bào có ý nghĩa trước khi khẳng định chẩn đoán tế bào học UTBM tuyến tiết rụng đầu. Kết quả nghiên cứu của các tác giả dựa trên việc so sánh hình ảnh tế bào học của 14 trường hợp UTBM tuyến tiết rụng đầu với những tế bào tuyến tiết rụng đầu ở những tổn thương đặc hoặc nang lành tính[39].

  • UTBM nhú xâm nhập

UTBM nhú xâm nhập được coi như UTBM tuyến đặc biệt với hình thái nhú nhưng không phân biệt được đặc điểm lâm sàng, gen, tiên lượng. UTBM vi nhú xâm nhập là UTV loại lòng ống với xu hướng xâm nhập mạch bạch huyết và di căn hạch vùng[40],[41].
Phần lớn các phiến đồ tế bào và dịch núm vú chứa nhiều các khối lập thể hoặc các cụm tế bào trụ từ thấp đến cao, ưu sắc, tạo thành các cấu trúc giống nhú với độ dính tế bào khác nhau. Bào tương tế bào sáng. Kích thước các nhân ác tính thay đổi từ 10 đến 15µm. Hình dạng nhân khá đều, ít khi có hạt nhân và thể vùi trong nhân. Các nhân trần hiếm gặp và khác với nhân trần trong u xơ tuyến bởi tính đa hình thái của nó. Các lắng đọng canxi kích thước và hình dạng không đều có thể có và là những hạt nhỏ giống bụi, khúc xạ hoặc các cấu trúc thểcát.
Nền phiến đồ ngoài hồng cầu và các đại thực bào thường sạch với ít tế bào viêm và mảnh vụn tếbào.
Những tế bào UTBM nhú có thể khó phân biệt với u nhú có hình ảnh tương tự UTBM nhú di căn. Để chẩn đoán xác định cần dựa vào mô bệnh học. Theo Gomez-Aracil V, sự hiện diện và số lượng của các tế bào cơ biểu mô, nhân trần lưỡng cực và kiến trúc tế bào của ống tuyến vú là những tính năng tế bào học hữu ích trong việc phân biệt tổn thương vú với một mô hình nhú[42].
Ung thư biểu mô vi nhú xâm nhập
UTBM vi nhú xâm nhập là nhóm ung thư không phổ biến mới chỉ được mô tả gần đây. Việc nhận biết các hình ảnh tế bào học là quan trọng cho phép chẩn đoán sớm bệnh bằng tế bào học choc hút kim nhỏ. Hình ảnh tế hào học của UTBM vi nhú dễ nhận biết với các cụm tế bào có các nhân “chen lấn nhau”, không đều, sẫm màu, bào tương ở chu vi. Không có các lõi xơ huyết quản. Mặc dù kinh nghiệm tế bào học chọc hút kim nhỏ với tổn thương nàycòn giới hạn, hình ảnh tế bào học đặc trưng bao gồm các cụm tế bào sắp xếp “đảo ngược trong ra ngoài” có thể gây nghi ngờ về biến thể này của UTBM ống. Sự phân biệt nó với các tổn thương nhú và ung thư nhú khác là có thể nhưng cần có nhiều kinh nghiệm hơn vì số các trường hợp được báo cáo còn hạn chế [43],[44].

  • UTBM thể nhầy và UTBM biệt hóa tế bào nhẫn

Theo phân loại mới của WHO 2012, UTBM thể nhầy và UTBM biệt hóa tế bào nhẫn được mô tả cùng nhau. UTBM biệt hóa tế bào nhẫn được xếp trong nhóm UTBM xâm nhập nhưng không được coi như 1 dạng u trong nhóm này. Loại biệt hóa tế bào nhẫn đôi khi gặp trong cả UTBM tiểu thùy vùng biến thể đa hình hay trong UTBM xâm nhập loại không đặc biệt[33].
U thường có kích thước lớn, giới hạn rõ, khu trú ở dưới quầng vú và chiếm khoảng 4% UTBM vú. U có mật độ mềm, đôi khi có xơ hóa làm u cứnghơn.
Phiến đồ thấy một số lượng vừa phải các hình cầu nhỏ, các cụm lỏng lẻo hoặc các dải một lớp các tế bào u nhỏ trên nền chất nhầy hình dạng không đều. Chất nhầy thường có màu xanh nhạt khi nhuộm Papanicolaou, đỏ với nhuộm Giemsa, và dương tính khi nhuộm mucicarmin.
Tế bào u thường đứng thành dải hay những hình cầu hoặc hình nang tương đối dính nhau. Ngoài ra thường thấy các tế bào ác tính đứng riêng lẻ. Chúng thường nhỏ và có bào tương vừa phải đến nghèo nàn. Nhân tế bào thường lệch tâm, chúng thay đổi về kích thước và có hình dạng khác nhau. Chất nhiễm sắc tăng nhẹ và tương đối đồng đều hoặc có dạng hạt thô nhưng vẻ lành tính. Hạt nhân hiếm khi nổi rõ. Kèm theo có các tế bào nội mạch chứng tỏ sự phát triển các mạch máu trong u. Không có các tế bàoviêm.


tải về 0.56 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương