Sở y tế nghệ an bệnh việN Đa khoa huyện thanh chưƠng đỀ CƯƠNG


Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước



tải về 0.56 Mb.
trang9/17
Chuyển đổi dữ liệu29.01.2023
Kích0.56 Mb.
#54147
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   17
đề cương nghiên cứu khoa học năm 2022.bs hồng XN

Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước


Tế bào học chọc hút bằng kim nhỏ vú lần đầu tiên được Martin, Erris và Stewart sử dụng vào những năm 1930. Sử dụng các kim 20 đến 26G có hay không có bơm tiêm hút để lấy mẫu tổn thương, nhuộm và đưa ra chẩn đoán trong vài phút. Trên quan điểm khoa học, đây là một kỹ thuật nhanh, đơn giảnvà cực kỳ chính xác dưới bàn tay của một nhà bệnh học có kinh nghiệm. Về mặt kinh tế, đây là một phương pháp có giá thành rẻ nhất. Còn về quan điểm nhân đạo, nó rút ngắn thời gian lo lắng của bệnh nhân về bản chất tổn thương và cho phép bệnh nhân tham gia vào việc lựa chọn biện pháp điều trị phù hợp với tình trạng lâm sàng riêng của mình. Hơn nữa tế bào học chọc hút kim nhỏ không gây sẹo da, rất có lợi cho những bệnh nhân có chẩn đoán tế bào học lành tính [49],[50]…


Ngày nay tế bào học chọc hút bằng kim nhỏ đã được chứng minh là một phương pháp chẩn đoán có giá trị và chính xác đối với bệnh vú, được sử dụng rộng rãi tại các cơ sở khám chữa bệnh. Nhiều công trình nghiên cứu đã được thực hiện để đánh giá giá trị của phương pháp này với những kết quả rất tíchcực.
Nghiên cứu của các tác giả trong nước cũng khẳng định CHTBKN trong chẩn đoán bệnh vú là phương pháp rất có giá trị chẩn đoán bệnh cũng như giá trị kinh tế. Từ những năm 1990, các nghiên cứu của Lê Đình Roanh, Ngô ThuThoa, Đặng Tiến Hoạt đã sử dụng phương pháp CHTBKN để phát hiện bệnh tuyến vú, chẩn đoán ung thư vú [51],[52]. Tiếp theo đó, các tácgiả Nguyễn Văn Bằng (2002), Nguyễn Dung và cộng sự (2009), Trần Văn Thuấn (2011)… đã sử dụng CHTBKN trong phát hiện bệnh tuyến vú tại cộng đồng [53],[54],[55]…
Zanconati và cs (2000) nghiên cứu về vai trò của tế bào học chọc hút kim nhỏ trong các tổn thương vú không sờ nắn thấy cho kết quả như sau: độ đặc hiệu 95,3%, độ nhạy 87,8%, giá trị tiên đoán dương tính là 76,6% và tiên đoán âm tính là 97,8% [56]. Tương tự, nghiên cứu của Nasar Yousuf Alwahaibi và cs (2014), tỉ lệ tương ứng các giá trị độ đặc hiệu, độ nhạy, giá trị tiên đoán dương tính và giá trị tiên đoán âm tương ứng là 65%, 70%, 77% và 57%[57].
Nghiên cứu của Mulazim Hussain Bukhari và cs (2011) được thiết kế để thấy được vai trò của tế bào học chọc hút kim nhỏ trong các khối u vú có thể cảm nhận được. Kết quả: độ nhạy là 98%, độ đặc hiệu là 100%, độ chính xác đạt 98%, giá trị tiên đoán âm tính 100% và giá trị tiên đoán dương tính là 97%. Các tác giả đưa ra kết luận rằng tế bào học chọc hút kim nhỏ là một công cụ kinh tế và đáng tin cậy, nhanh chóng cho việc chẩn đoán các tổn thương vú có thể sờ nắn được và việc kiểm tra tế bào học của các tổn thương trước khi điều trị là một phương thức chẩn đoán quan trọng[8].
Trong chẩn đoán UTV, nhiều công trình đã chứng minh vai trò của CHTBKN như là một biện pháp hữu hiệu giúp các nhà phẫu thuật chẩn đoán trước mổ. Kim và cs (2000) cũng chứng minh rằng độ chính xác cao của CHTBKN với giá trị dự báo cho một chẩn đoán tế bào học ác tính là 98,4%; Độ nhạy tuyệt đối và hoàn toàn của các tổn thương ác tính là 64,5% và 90,3%. Độ đặc hiệu là 71,9%. Tỉ lệ âm tính giả và dương tính giả là 4,3% và 0,7%. Tỉ lệ phiến đồ không đạt yêu cầu là 9,3%; Tỉ lệ không phù hợp giữa chẩn đoán tế bào học và mô học thấp hơn với những tổn thương phát triển lớn và lan toả (lành tính và ác tính), những khối u ác tính có tăng sinh xơ, các tổn thương bất thường và trong UTBM độ thấp[58].
Nghiên cứu của Shirish S. Chandanwale và cs (2014) trên 902 bệnh nhân có biểu hiện khối u vú sờ thấy đã khẳng định CHTBKN là an toàn, hiệu quả, chi phí thấp và là một kỹ thuật đáng tin cậy để đánh giá trước phẫu thuật các khối u vú sờ thấy. Đặc biệt giá trị của CHTBKN sẽ cao hơn khi kết hợp với khám lâm sàng và chụp X quang (Triple test) [59].
Trong nghiên cứu của Ogawa và cs (1998), các tác giả đã nghiên cứu hồi cứu tiềm năng chẩn đoán và những cạm bẫy của CHTBKN trong chẩn đoán các tổn thương vú. Các tác giả nhận thấy phương pháp tế bào học chọc hút kim nhỏ cũng có một số cạm bẫy.Việc nhận biết những cạm bẫy của phương pháp này là cực kỳ quan trọng cho việc quản lý chặt chẽ bệnh nhân. Tỉ lệ phiến đồ đạt yêu cầu là 74% trong lần chẩn đoán đầu tiên, trong khi phiến đồ đạt yêu cầu cuối cùng là 93% sau chọc hút lại. Tỉ lệ này thấp hơn ở những u đo được dưới 10mm đường kính (62%) và bệnh xơ hoá (25%). Độ nhạy của phương pháp là 65%, độ đặc hiệu là 75% và giá trị tiên đoán dương tính là 92%. Tỉ lệ âm tính cao hơn trong UTBM ống không xâm nhập (45%). Tỉ lệ dương tính giả là 1,34%. Nếu chỉ giới hạn với những tổn thương vú không sờ nắn thấy tỉ lệ phiến đồ đạt yêu cầu độ chính xác là 67%[60].
Đánh giá những phiến đồ CHTBKN không chẩn đoán được, nghiên cứu của Kumarasinghe và Constantine (1998) cho thấy hình ảnh tế bào học phổ biến nhất gây khó khăn cho việc chẩn đoán là mật độ tế bào (37%), mất dính tế bào (30%), nhân và hạt nhân lớn (30%), kích thước tế bào nhỏ (40%). Số lượng tế bào ít hoặc không đạt yêu cầu (86%), bệnh sử không đầy đủ (14%) và nhuộm kém (14%) góp phần vào những khó khăn kỹ thuật[61].
Nghiên cứu của Paulo Mendoza và cs (2011) đã xác định nguyên nhân của những trường hợp âm tính giả thường là do các kỹ thuật lấy mẫu không đủ để đánh giá, hoặc không chọc trúng vị trí tổn thương, ngoài ra có trường hợp âm tính giả do lỗi diễn giải[62].

    1. tải về 0.56 Mb.

      Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương