NÂng cao hiệu quả hoạT ĐỘng của thị trưỜng cho ngưỜi nghèo sự tham gia của ngưỜi nghèo trong chuỗi giá trị NÔng nghiệp nghiên cứU ĐỐi với ngành chè


CHƯƠNG 8 – MỘT SỐ KHÓ KHĂN VÀ GỢI Ý GIẢI PHÁP



tải về 2.99 Mb.
trang12/17
Chuyển đổi dữ liệu15.05.2018
Kích2.99 Mb.
#38489
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17

CHƯƠNG 8 – MỘT SỐ KHÓ KHĂN VÀ GỢI Ý GIẢI PHÁP


8.1 Phân tích cây vấn đề


Trong chương này, chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích theo nhánh để sơ đồ hoá vấn đề, những hạn chế cũng như ảnh hưởng của mỗi loại hình của người trồng chè khi tham gia vào chuỗi marketing. Cuối cùng, chúng tôi đưa ra một số giải pháp. Tuy nhiên, một điều cần phải lưu ý ở đây là chương này tập trung vào phân tích các đối tượng trồng chè nghèo hơn là những người trồng chè nói chung.

Nông trường viên

Nói chung, có 2 nguyên nhân dễ nhận thấy tại sao nông trường viên nghèo. Chúng bao gồm yếu tố nội sinh và ngoại cảnh. Yếu tố nội sinh chính là những căn bệnh kinh niên như thiếu nhân công, thiếu vốn cũng như khả năng tiếp cận với các khoản vay ngân hàng. Yếu tố ngoại sinh liên quan đến tính bất ổn của thị trường, chính sách của công ty cũng như của Chính phủ; Chính những yếu tố đó đang cản trở trở nông trường viên tăng thu nhập, cải thiện sức khoẻ và giảm thiểu rủi ro.


Hình 8-1-Cây vấn đề cho nông trường viên


So với các đối tượng trồng chè khác, nông trường viên có lợi thế hơn là thu nhập ổn định hơn do sản lượng chè đã được nhà máy đảm bảo bao tiêu. Do đó, vấn đề lo ngại lâu dài của nông trường viên là yếu tố sức khoẻ bị giảm sút. Trong tất cả các nhà máy được điều tra, hầu hết nông trường viên đều cảnh báo, để đáp ứng nhiệm vụ phải bán hầu hết\hoặc toàn bộ sản lượng chè cho nhà máy, họ đã sử dụng thuốc trừ sâu quá mức và điều này gây hại rất lớn đến chính sức khoẻ của họ, đặc biệt là đối với những nông trường viên nghèo. Hơn nữa, vì độ phì nhiêu của đất ngày càng có giảm, nên họ phải tăng bón phân cho đất để đáp ứng được yêu cầu sản lượng chè như các vụ trước. Tất cả những yếu tố này đang dẫn đến một tình trạng báo động, phân bón và thuốc trừ sâu bị lạm dụng đang ảnh hưởng đến sức khoẻ của chính người dân.
Rất nhiều nông trường viên phản ánh rằng, bởi vì hệ thống thu mua của nhà máy không rõ ràng nên tỷ lệ khấu trừ nước bề mặt ngoài là quá cao và nhà máy kiểm soát chất lượng chè cũng rất chặt chẽ. Do đó, nên tỷ lệ khấu trừ nước bề mặt ngoài là quá cao và nhà máy kiểm soát chất lượng chè cũng rất chặt. do đó, người dân, đặc biệt là người dân nghèo rất thiệt thòi. Như trường hợp của Công ty Sông Cầu, vì nông trường viên nghèo thường dư ít chè hơn, trong khi lại phải giao nộp toàn bộ chè thu hoạch được cho Công ty. Theo quan điểm của nhiều nông trường viên, chính hệ thống thu mua hiện nay đã áp đặt tỷ lệ khấu trừ nước bề mặt ngoài cao như vậy, và họ cũng băn khoăn, không biết rằng mức thu như vật là chính sách của công ty hay chỉ của một ai đó đề ra, hay xuất phát từ “hệ thống không rõ ràng” của nhà máy. Hơn nữa, chính hệ thống thu mua còn nhiều điều không rõ ràng này cũng là nguyên nhân khiến giá thu mua chè luôn ở mức thấp như hiện nay, ảnh hưởng tiêu cùc đến những nông trường viên nghèo bởi vì nguồn thu nhập chính của họ là từ trồng chè.
Đứng trên giác độ kinh tế vĩ mô, chính sách của chính phủ cũng cản trở người dân, như Nhà nước chỉ cấp sổ đỏ cho toàn bộ vùng trồng chè chứ không cấp cho mỗi hộ gia đình như người dân trồng lúa. Chính vì vậy, nông trường viên không thể mang đất ra thế chấp cho ngân hàng. Trong một số trường hợp, nông trường viên, đặc biệt là những người nghèo, rất cần vốn để đầu tư vào vườn chè hoặc để dự trữ cho những lóc bất trắc như ốm đau hay thiên tai. Vay vốn của ngân hàng đáp ứng được nhu cầu lúc cấp thiết và có lãi suất thấp, nếu không, họ sẽ lại phải vay qua trung gian và phải trả lãi suất cao. Chính vì lẽ đó, khi người dân không được vay vốn từ ngân hàng, họ sẽ dễ bị tổn thương và trong chừng mực nào đó, cơ hội dành cho họ để cải thiện thu nhập, mở mang sản xuất sẽ ngày càng bị hạn chế.
Một khác biệt đáng kể của nông trường viên so với các đối tượng khác là nông trường viên buộc phải trả bảo hiểm xã hội để sau này được hưởng lương hưu. Thông thường, họ phải nộp từ 1 đến 2 triệu đồng/ năm. Như vậy, rõ ràng đây là một gánh nặng đối với người nghèo, đặc biệt khi giá thu mua chè xuống thấp như trong năm 2003. Nộp bảo hiểm xã hội hàng năm là một trong những nguyên nhân khiến người nghèo bị tổn thương và làm giảm thu nhập của họ.
Những giải pháp cho nông trường viên, đặc biệt là nông trường viên nghèo tham gia và hưởng lợi từ chuỗi giá trị sẽ tập trung vào một số vấn đề chính sau:

  • Công ty cần phải kiểm tra, rà soát lại hệ thống thu mua và hoàn thiện thành một hệ thống minh bạch hơn. Bằng cách đó, họ sẽ thoả mãn hơn với nhà máy.

  • Chính phủ cần thay đổi chính sách đất như cấp sổ đỏ cho nông trường viên.




Каталог: images -> 2006
2006 -> Lúa gạo Việt Nam Giới thiệu
2006 -> Nghiªn cøu triÓn väng quan hÖ kinh tÕ th­¬ng m¹i viÖt nam – trung quèc ViÖn nghiªn cøu th­¬ng m¹i 2000 Lêi nãi ®Çu
2006 -> B¸o c¸o tæng kÕt ®Ò Tµi
2006 -> BÁo cáo nghiên cứu khả năng cạnh tranh của các mặt hàng nông sản chính của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập afta
2006 -> NGÀnh lúa gạo việt nam nguyễn Ngọc Quế Trần Đình Thao Hà Nội, 5-2004 MỤc lụC
2006 -> Hµ Néi, th¸ng 10 n¨m 2006
2006 -> §inh Xun Tïng Vò träng B×nh TrÇn c ng Th¾ng Hµ NéI, th¸ng 12 N¡M 2003
2006 -> Nhãm nghiªn cøu: Hoµng Thuý b ng (M. Sc) NguyÔn V¨n NghÖ (mba) Lª Hoµng Tïng
2006 -> PHÁt triển hệ thống tín dụng nông thôN Ở việt nam1
2006 -> ¶nh h­ëng cña viÖc Trung Quèc vµo wto vµ mét sè bµi häc cho ViÖt Nam1

tải về 2.99 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương