NHÀ ĐẦu tư thông minh "Cuốn sách hay nhất về đầu tư từng được viết cho đến nay"



tải về 3.49 Mb.
trang36/42
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích3.49 Mb.
#3721
1   ...   32   33   34   35   36   37   38   39   ...   42

Ị201Ị. Carol J. Loomis, "Ảo tưởng 15%", Fortune, ngày 5/2/2001, trang 102-108.

[2021. Xem Jason Zweig, "Vấn đề kỳ vọng", Money, tháng 1/ 2001, trang 49-50.

[2031. Louis K. C. Chan, Jason Karceski, và Josef Lakonishok, "Mức độ và sự liên tục của tốc độ tăng trưởng," Cơ quan Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia, Bài nghiên cứu số 8282, tháng 5/2001, có thể xem tại www.nber.org/papers/w8282.

[204]. Gần 20 năm trước, vào tháng 10/1982, chứng khoán Johnson & Johnson mất 17,5% giá trị của nó trong một tuần khi có vài người chết sau khi uống thuốc Tylenol đã bị pha xyanua bởi một người ngoài vô danh. Johnson & Johnson đã phản ứng bằng cách đi đầu trong dùng vỏ hộp chống làm giả, và chứng khoán của nó đã trở thành một trong những đầu tư tuyệt nhất trong những năm 1980.

Ị205Ị. Để có được nhận định rằng việc giữ được vị trí trên danh sách Forbes 400 là vô cùng khó, tôi phải cảm tạ nhà quản lý đắu tư Kenneth Fisher (bản thân ông cũng là một người viết bài cho Forbes).

[206]. Có lẽ là trừ những kế hoạch bình quân giá phí đô la được bắt đằu với mức giá vừa phải. (Chủ thích của tác giả).

[207]. Vào cuối những năm 1990, dự báo của những "nhà chiến lược thị trường" trở nên có tầm ảnh hưởng hơn bao giờ hết. Tiếc thay, những dự báo ấy lại không trở nên chính xác hơn. Vào ngày 3/10/2000, ngày đầu tiên mà chỉ số tổng hợp NASDAQ đạt được mức cao kỷ lục là 5048,62, nhà phân tích kỹ thuật cấp cao của công ty Prudential Securities đã nói trong tạp chí USA Today (Nước Mỹ ngày nay) rằng ông trông đợi NASDAQ sẽ đạt 6.000 điểm trong vòng 12 đến 18 tháng tới. Năm tuần sau đó; NASDAQ đã teo xuống còn 3321,29 - nhưng Thomas Gavin, một nhà chiến lược thị trường ở Donaldson, Lufkin & Jenrette, đã tuyên bố rằng "NASDAQ chỉ có 200 hoặc 300 điểm ở phía đi xuống, và 2000 ở phía đi lên." Hóa ra là không có điếm nào ở phía đi lên và hơn 2.000 điểm ở phía đi xuống, vì NASDAQ tiếp tục sụp đổ cho đến khi nó vét đáy ở mức 1114,11 vào ngày 9/10/2002. Vào tháng 3/ 2001, Abby Joseph Cohen, nhà chiến lược đầu tư cấp cao của công ty Goldman, Sachs & Co.f đã dự báo rằng chỉ số 500 chứng khoán của s & p sẽ ở mức 1.650 khi kết thúc năm ấy và chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones sẽ là 13.000 điểm khi kết thúc năm 2001. "Chúng tôi không trông thấy sự suy thoái," Cohen nói, g'\/à tin rằng lợi nhuận các công ty sẽ tăng gằn tới các mức tăng trưởng xu hướng vào cuối năm nay." Kinh tế Mỹ chìm dãn vào suy thoái ngay khi bà đang nói, và kết thúc năm 2001 thì s & p 500 ở mức 1148,08, trong khi chỉ số Dow là 10,021,50 - lằn lượt thấp hơn dự đoán của bà là 30% và 23%.

[208]. Xem trang 17.

[209]. Nhưng theo Robert M. Ross, chuyên gia về lý thuyết Dow, hai tín hiệu mua cuối cùng, được thấy vào tháng 12/1966 và tháng 12/1970, thấp hơn rất nhiều so với các điểm mua trước đó. (Chú thích của tác giả).

[210]. Nếu không có thị trường giá xuống khiến giá chứng khoán giảm, bất cứ ai đang chờ đề "mua thấp" cũng sẽ cảm thấy bị bỏ lại hoàn toàn - và điều hay xảy ra là anh ta cuối cùng sẽ từ bỏ hết mọi sự thận trọng trước đó và nhảy cả hai chân vào. Đó là lý do vì sao thông điệp của Graham về tầm quan trọng của kỳ luật tâm lý lại quan trọng đến thế. Từ tháng 10/1990 đến tháng 1/2000, chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones đã tăng lên không ngừng, không bao giờ mất hơn 20% và chỉ chịu lỗ 10% hoặc cao hơn có ba lần. Tổng lợi nhuận (không tính cổ tức): 395,7%. Theo công ty Crandall, Pierce & Co., đây là lằn thị trường đi lên không ngắt quãng dài thứ hai trong thế kỷ vừa qua, chỉ có lằn bùng nổ các năm 1949-1961 là kéo dài hơn. Một thị trường đi lên càng kéo dài thì những nhà đầu tư sẽ càng bị nhiễm chứng hay quên nặng hơn; sau năm năm trở lên, nhiều người không tin rằng còn tồn tại thị trường giá xuống. Tất cả những ai quên đều sẽ phải được nhắc nhở; và trong thị trường chứng khoán, những ký ức được gợi lại bao giờ cũng không hay.

|211| Graham phân tích về "phương châm được đề xuât" này trong chương 4 (trang 107-110). Phương châm này hiện giờ được gọi là "sự phân bổ tài sản mang tính chiến thuật" và được nhiều tổ chức đầu tư như các quỹ lương hưu và quỹ quyên tặng đại học làm theo.

[212]. Nhiêu người trong số những "người áp dụng kế hoạch theo công thức" này rồi sẽ bán hết những cổ phiếu của mình vào cuối năm 1954, sau khi thị trường cổ phiếu Mỹ tăng 52,6%, tỷ suất lợi nhuận hằng năm cao thứ hai được ghi nhận cho tới lúc đó. Trong năm năm sau đó; những người căn thị trường cũng có khả năng phải đứng ngoài lề khi mà giá cổ phiếu tăng gấp đôi.

[2131. Các cách kiếm tiền dễ dàng trong thị trường chứng khoán mất tác dụng vì hai lý do: xu hướng chung của các trào lưu là đảo ngược sau một thời gian, tức "hồi quy về trung vị", và việc một lượng lớn người nhanh chóng áp dụng phương thức chọn chứng khoán, những người đổ xô vào và làm hỏng hết niềm vui của những người đến trước. (Lưu ý rằng, khi nói tới "trải nghiệm buồn" của mình, Graham đã - và luôn - thành thực trong việc nhận lỗi của mình.) Hãy xem Jason Zweig, "Murphy đã từng là nhà đằu tu", Money, tháng 7/2002, trang 61-62, và Jason Zweig, "Vở kịch Năm Mới," Money, tháng 12/2000, trang 89-90.

[214] . Tương đương ngày nay của những gì mà Graham gọi là những "công ty hàng thứ hai" là hàng nghìn các chứng khoán không được liệt kê trong chỉ số 500 chứng khoán Standard & Poor's. Một danh sách được sửa đổi thường xuyên của 500 chứng khoán trong chỉ số s & p có tại www.standardandpoors.com.

|215|. Hãy lưu ý cần thận những gì Graham nói ở đây. Điêu không chỉ có thể xảy ra, mà còn rất có thể xảy ra, là hầu hết cổ phiếu bạn sở hữu sẽ tăng giá ít nhất 50% từ mức giá thấp nhất và mất giá trị ít nhất 33% từ mức giá cao nhất của chúng - bất kể bạn sở hữu cổ phiếu nào và thị trường xét tổng thể đi lên hay đi xuống. Nếu bạn không chịu được cái đó - hoặc bạn nghĩ rằng danh mục đắu tư của bạn thoát khỏi cái đó theo một cách diệu kỳ nào đó - thì bạn chưa thể gọi là một nhà đàu tư. (Graham nói đến sự giảm giá 33% là "tương đương một phần ba", vì một sự tăng giá 50% khiến một cổ phiếu 10 đô la trở thành 15 đô la, rồi sự giảm giá 33% [tức giảm 5 đô la] lại đưa nó quay về 10 đô la, là điểm xuất phát.) [216]. Với nhà đầu tư ngày nay, chiến lược lý tưởng để theo đuổi "công thức" này là tái cân bằng, mà chúng tôi đã phân tích ở trang 124-125.

[217]. Hầu hết các công ty ngày nay cung cấp "chứng chỉ cổ phiếu có dấu chìm" chỉ theo yêu cầu đặc biệt. Các chứng khoán hầu hết tồn tại dưới dạng điện tử hoàn toàn (giống như tài khoản ngân hàng của bạn gồm tín dụng và nợ được máy tính hóa, không phải tiền thật) và do đó dễ kinh doanh hơn là vào thời của Graham.

[218]. Giá trị tài sản ròng (net asset value), giá trị trên sổ sách (book value), giá trị trên bảng tổng kết tài sản (balance-sheet value), và giá trị tài sản hữu hình (tangible-asset value) đèu là từ đồng nghĩa với giá trị ròng (net worth), tức tổng giá trị của các tài sản vật chất và tài chính của công ty trừ đi toàn bộ nợ của nó. Nó có thể được tính ra bằng các dùng những bảng tổng kết tài sản trong các báo cáo hằng năm hoặc hằng quý của công ty; là lấy tổng số vốn cổ phần mà các cổ đông sở hữu, trừ hết những tài sản "m'ẽm" như đặc quyền kế nghiệp (sự tín nhiệm), thương hiệu, và các tài sản vô hình khác, sau đó chia cho số cổ phần đã pha loãng hoàn toàn vẫn đang lưu hành để ra được giá trị sổ sách của mỗi cổ phần.

Ị219Ị. Việc Graham sử dụng từ "nghịch lý" có lẽ là gợi tới một bài báo kinh điển của David Durand, "Các cổ phiếu tăng trưởng và nghịch lý Petersburg", The journal of Finance, tập XII, số 3, tháng 9/1957, trang 348-363, trong đó; so sánh việc đầu tư vào các cổ phiếu tăng trưởng có giá cao với việc cá cược vào một loạt tung đồng xu mà mỗi lằn xu tung lên là tiền trả lại tăng lên. Durand đã chỉ ra rằng nếu một cổ phiếu tăng trưởng có thể tiếp tục phát triển với mức độ cao trong một khoảng thời gian vô hạn, một nhà đầu tư nên (trên lý thuyết) sẵn sàng trả một mức giá vô hạn cho các cổ phần của nó. Vậy thì tại sao chưa bao giờ có một chứng khoán nào bán với giá vô hạn đô la mỗi cổ phần? Bởi vì mức tăng trưởng tương lai dự kiến được trông đợi càng cao, và khoảng thời gian mà nó được trông đợi xảy ra càng dài, thì dung sai càng lớn, và giá của thậm chí một tính toán sai sót nhỏ xíu càng cao. Graham nói thêm về vấn đề này trong Phụ lục 4 (trang 631).

[220]. Lịch sử gần đây hơn của A & p không khác mấy. Vào cuối năm 1999, giá cổ phiếu của nó là 27,875 đô la; vào cuối năm 2000 là 7 đồ la,ế một năm sau là 23,78 đô la; vào cuối năm 2002 là 8,06 đô la. Mặc dù sau đó những sai sót kế toán ờ A & p đã sáng tỏ, nó đi ngược lại hoàn toàn với logic cho rằng giá trị của một công ty tương đối vững chắc như cửa hàng tạp hóa có thể giảm ba phần tư trong một năm, tăng gấp ba lần trong năm tiếp theo, rồi sau đó lại giảm hai phần ba trong năm sau đó.

[221]. "Chỉ đến chừng mực phù hợp với sổ sách của anh ta" nghĩa là "chỉ đến chừng mực mà mức giá đủ thuận lợi để hậu thuẫn cho việc bán chứng khoán đó". Theo ngôn ngữ môi giới truyền thống, "sổ sách" là cuốn sổ cái ghi những cổ phần nắm giữ và giao dịch của nhà đầu tư .

Ị222Ị. Đây có thế nói là đoạn văn quan trọng nhất trong toàn bộ cuốn sách của Graham. Trong 174 chữ này Graham đã tóm tắt kinh nghiệm của cả đời mình. Bạn không thể đọc quá nhiều lằn những chữ này; chúng là khắc tinh của thị trường giá xuống. Nếu bạn giữ chúng bên mình và để chúng hướng dẫn bạn trong suốt cả cuộc đời đầu tư, bạn sẽ sống sót cho dù thị trường quẳng cho bạn cái gì.

[2231. Graham còn nói nhiều hơn về những gì ngày nay được gọi là "quản trị công ty" (corporate governance). Xem phần bình luận của chương 19.

[2241. Do cái mà Graham gọi là "quy luật của sự ngược lại", vào năm 2002, hoa lợi của các trái phiếu kho bạc Mỹ dài hạn đã chạm mức thấp nhất kể từ năm 1963. Vì tỷ suất lợi tức của trái phiếu chuyển động ngược với giá, tỷ suất lợi tức thấp đó có nghĩa là giá đã tăng lên - khiến các nhà đầu tư háo hức nhất mua ngay khi trái phiếu đang đắt nhất và mức sinh lợi tương lai của chúng gần như đảm bảo sẽ thấp. Điều này cung cấp thêm một chứng cứ về bài học của Graham rằng nhà đắu tư phải từ chối đưa ra những quyết định dựa trên dao động thị trường.

[225]. Một phân tích đã cập nhật cho bạn đọc ngày nay, giải thích về tỷ suất lợi tức hiện tại và nhiều loại trái phiếu và quỹ trái phiếu đa dạng hơn ngày nay, có thể tìm đọc ở phần bình luận của chương 4.

[226]. Ba đánh giá cao nhất cho trái phiếu và chứng khoán ưu tiên là Aaa, Aa, và A, được Moody's sử dụng, và AAA, AA, và A, được Standard & Poor's sử dụng. Có những đánh giá khác nữa, đi xuống tới D. (Chú thích của tác giả).

[227]. Ý tưởng này đã áp dụng ít nhiều ở châu Âu - ví dụ, công ty điện năng của nhà nước Ý đã áp dụng nó vào những "phiếu nợ đảm bảo có mức lai suất thả nổi" đáo hạn vào năm 1980. Vào tháng 6/1971, nó đã quảng cáo ở New York rằng mức lai suất hằng năm được trả từ đó trở đi trong sáu tháng tới sẽ là 8,125%. Một cải biến lỉnh hoạt khác được ngân hàng The Toronto-Dominion Banks thực hiện với các "phiếu nợ 7%-8%", đáo hạn năm 1991, chào bán vào tháng 6/ 1971. Các trái phiếu trả mức 7% cho tới tháng 7/1976 và 8% từ sau đó; nhưng cổ đông có quyền chọn nhận vốn của mình vào tháng 6/1976. (Chú thích của tác giả).

|228|. Nhưng đã nói trong các phần bình luận của chương 2 và chương Am các trái phiếu kho bạc được bảo vệ chống lạm phát, tức TIPS, là một phiên bản mới và cải tiến của những gì Graham đang nói tới ở đây.

[229]. Tiến sỹ Jekyll là nhân vật đa nhân cách trong tác phẩm Trường hợp kỳ Ị ạ của Tiến sỹ Je kyII và Ngài Hyde của nhà văn Anh Robert Louis Stevenson, ớ cùng một người, Tiến sỹ Jekyll hiển hiện vào ban ngày và Ngài Hyde hiển hiện vào ban đêm. (Chú thích của người dịch và Ban biên tập tiếng Việt).

[230]. Xem đoạn văn của Graham ở trang 231-233.

[231]. Như Graham đã nói đến trong một loạt bài báo kinh điển vào năm 1932, cuộc Đại Suy thoái đã khiến cổ phần của hàng tá các công ty giảm xuống dưới giá trị của tiền mặt và những tài sản thanh khoản khác của họ; khiến chúng "khi chết có giá hơn là khi sống.”

[2321. Thông cáo báo chí của Spectrem Group, "Các nhà tài trợ cho kế hoạch đã thua trong trận đánh nhằm ngăn cản sự tham dự giảm dằn vào các kế hoạch đóng góp đã định", ngày 25/10/2002.

[233]. Một vài tháng sau, vào ngày 10/3/2000 - chính cái ngày mà NASDAQ đạt mức cao kỷ lục của nó - "chuyên gia" kinh doanh trực tuyến James J. Cramer viết rằng anh ta đã "liên tục" bị hấp dẫn trong những ngày gãn đây để bán tháo Berkshire Hathaway, một lời cá cược rằng chứng khoán của Buffet sẽ còn giảm nữa. Cramer còn tuyên bố rằng cổ phần của Berkshire "đủ chín để đập". Cùng ngày hôm đó; nhà chiến lược thị trường Ralph Acampora của công ty Prudential Securities đã hỏi: "Norfolk Southern hay Cisco Systems: Bạn muốn mình ờ đâu trong tương lai?" Cisco, chiếc chìa khóa dẫn lên đường cao tốc Internet của tương lai, có vẻ như lấn át hoàn toàn Norfolk Southern, một phần của hệ thống đường sắt của quá khứ. (Trong năm sau đó, Norfolk Southern tăng 35% trong khi Cisco giảm 70%.) |234| . Khi được hỏi rằng điều gì ngăn cản sự thành công của hầu hết các nhà đầu tư cá nhân, Graham đã đưa ra một câu trả lời chính xác: "Nguyên nhân thất bại chính là họ chú ý quá nhiều vào những gì thị trường hiện đang làm." Hãy đọc "Benjamin Graham: Suy nghĩ về phân tích chứng khoán" [ghi lại buổi thuyết giảng tại Trường kinh doanh của Đại học Đông Bắc bang Missouri, tháng 3/1972], Tạp chí Financial History (Lịch sử Tài chính), số 42, tháng 3/1991, trang 8.

[235]. Không cần biết những khái niệm có nghĩa gì, hay phải có nghĩa gì. Trong khi ngoài cồng chúng những phân loại này rất được coi trọng, thì khi nói riêng với nhau, hầu hết những người trong giới đầu tư coi thường những khái niệm này và gán chúng với những câu đùa chẳng buồn cười tí nào.

[2361. Hãy đọc bài báo tuyệt hay của Walter Updegrave, "Hãy giữ cho điều đó là hiện thực", Money, tháng 2/2002, trang 53-56.

[237]. Hãy đọc Jason Zweig, "Bạn đã thắng thị trường chưa?" Money, tháng 1/2000, trang 55-58.

[238]. Khoa thần kinh học về việc đầu tư được khám phá trong bài báo của Jason Zweig, "Bạn có bị ràng buộc vào của cải?" Money, tháng 10/2002, trang 74- 83, cũng có tại trang http://money.cnn.com/2002/09/ 25/pf/investing/agenda_brain_short/index.htm. Hãy đọc thêm Jason Zweig, "Khó khăn với con người," Money, tháng 10/2000, trang 67-70.

[239]. Cũng đáng hỏi thêm là bạn có thoải mái sống trong nhà mình không nếu giá thị trường của nó được thông báo đến từng xu một mỗi ngày trên báo và ti vi.

|240|. Trong một loạt các thí nghiệm ấn tượng vào cuôi những năm 1980, một nhà tâm lý học của trường đại học Columbia và Harvard là Paul Andreassen cho thấy rằng những nhà đẳu tư nào cập nhật tin tức liên tục về chứng khoán của mình kiếm chỉ được bằng một nửa số lợi nhuận của những nhà đầu tư không có chút tin tức nào. Xem Jason Zweig, "Here's How to Use the News and Tune Outthe Noise," Money, tháng 7/ 1998, trang 63-64.

[241]. Luật thuế Liên bang có thể sửa đổi thường xuyên. Ví dụ về chứng khoán của Coca-Cola đưa ra ở đây đúng với bộ luật thuế Hoa Kỳ vào đằu năm 2003.

[242]. Ví dụ này giả thiết nhà đầu tư không hiện thực hóa lãi vốn vào năm 2002 và không tái đầu tư bất cứ cổ tức Coca nào. Việc hoán đổi thuế không được coi nhẹ, vì chúng có thể dễ dàng bị xử lý nhầm. Trước khi thực hiện việc hoán đổi thuế, hãy đọc Thông báo số 550 của 1RS (www.irs.gov/pub/irspdf/p550.pdf). Một hướng dẫn tốt về việc quản lý thuế đầu tư của bạn là cuốn sách của Robert N. Gordon và Jan M. Rosen Wall Street Secrets for Tax-Efficient Investing (Những bi mật của Phố Wall về đầu tư có hiệu quả về mặt thuế)M Bloomberg Press, Princeton, New Jersey, 2001.) Cuối cùng, trước khi bạn bóp cò; hãy tham khảo một nhà cố vấn thuế chuyên nghiệp.

[243]. Sẽ là sự vi phạm luật Liên bang nếu một quỹ đầu tư tương hỗ mở, quỹ đóng, hay một quỹ trao đổi giao dịch bán cổ phiếu cho công chúng khi mà nó chưa "đăng ký" (tức là nộp hồ sơ tài chính bắt buộc) cho SEC.

[244]. Ngành kinh doanh quỹ đầu tư đã đi từ "rất lớn”

tới khổng lồ. Vào cuối năm 2002, có 8.279 quỹ đầu tư tương hỗ giữ 6,56 ngàn tỉ đô la, 514 quỹ đóng với 149,6 tỉ đô la tài sản, và 116 quỹ trao đổi giao dịch, hay còn gọi là ETF (exchange-trade fund), với tổng tài sản 109,7 tỉ đô la. Những con số này bao gồm cả các hình thức đầu tư kiểu quỹ như niên kim biến đổi (variable annuity), và những công ty tín thác đầu tư theo suất (unit investment trust).

|245|. Danh sách cách loại quỹ tương hỗ lớn có tại www.ici.org/pdf/g2understanding.pdf và http://news.morningstar.com/fundReturns/ CategoryReturns.html. Các quỹ cổ phiếu thư (letter- stock fund) không còn tồn tại nữa, trong khi các quỹ phòng vệ thường bị SEC cấm bán cổ phiếu cho bất cứ nhà đầu tư nào thu hằng năm dưới 200.000 đô la hoặc có giá trị tài sản ròng dưới 1 triệu đô la.

[246]. Mức phí bán luôn được ghi ờ dạng phân trăm của giá bán, mà giá bán bao gồm mức phí, khiến cho mức phí có vẻ thấp hơn so với khi tính theo giá trị tài sản ròng. Chúng tôi coi đây là mánh lới về doanh số không xứng đáng trong ngành kinh doanh đáng kính này. (Chú thích của tác giả).

|247| . Ngày nay, phí bán tối đa của một quỹ chứng khoán thường vào khoảng 5,75%. Nếu bạn đầu tư 10.000 đô la vào một quỹ với mức chi phí bán đồng mức 5,75%, thì 575 đô la sẽ thuộc về người (và công ty môi giới) đã bán chứng khoán cho bạn, và bạn còn khoản đàu tư thuần ban đầu là 9.245 đô la. Mức phí bán 575 đô la thật ra là 6,1% của khoản tiền đầu tư thực, đó là lý do vì sao Graham gọi cách tính phí thông thường là "mánh lới bán hàng". Kề từ năm 1980, những quỹ không cộng phí bán đã trở nên phổ biến, và hiện giờ chúng không còn nhỏ hơn các quỹ có cộng phí nữa.

[248]. Ngày nay, hầu hết các quỹ tương hỗ đều bị đánh thuế dưới dạng "công ty đầu tư trung gian", viết tắt là RIC (regulated investment company), được miễn thuế thu nhập công ty, miễn là nó chi trả hầu như toàn bộ lợi nhuận của mình cho những người nắm giữ cổ phần. Với lựa chọn mà Graham loại bỏ để "tránh ôm đồm lộn xộn", một quỹ có thể yêu cằu SEC sự cho phép đặc biệt để phát hành một trong những phần nó nắm giữ trực tiếp cho người nắm giữ cố phần của quỹ - giống như những gì công ty Graham- Newman (GEICO) của ông đã làm vào năm 1948: chia những cổ phiếu của GEICO thành các suất nhỏ để phát hành cho chính những nhà đầu tư của Graham- Newman. Kiểu phát hành nay vô cùng hiếm.

[249]. Các quỹ hai mục đích (dual-purpose fund), rất phổ biến vào cuối những năm 1980, hầu như đã biến mất khỏi thị trường; đây là một điều đáng tiếc, vì chúng tạo ra cho các nhà đầu tư một cách linh hoạt hơn để lợi dụng các kỹ năng của những người chọn chứng khoán tuyệt vời, như_John Neff. Có lẽ thị trường giá xuống gần đậy sẽ dẫn tới việc xuất hiện trở lại công cụ đầu tư hấp dấn này.

[250]. Các "quỹ hiệu quả" (performance fund) cực kỳ thịnh hành vào cuối những năm 1960. Chúng tương đương với những quỹ tăng trưởng táo bạo vao CUỐI những năm 1990, nhưng cũng chang phục vụ tốt gì hơn cho các nhà đầu tư.

[251]. Trong những giai đoạn dài tới 10 năm, các tỷ suất lợi nhuận của chỉ số Dow và chỉ số s & p 500 có thể cách nhau khá nhiều. Tuy nhiên, trong một vòng đời đầu tư điến hình - chẳng hạn từ 25 tới 50 năm - tỷ suất lợi nhuận của chúng thường khá gằn nhau.

[2521. Một trong những "công ty sắp phá sản" mà Graham nói tới là National Student Marketing Corp. (NSM); một trò lừa đảo ngụy trang dưới dạng chứng khoán, công ty mà thiên sử của nó được kể một cách tuyệt vời trong sách của Andrew Tobias, The Funny Money Game (Trò chơi tiền bạc vui nhộn) (Playboy Press, New York, 1971). Trong số những nhà đầu tư thông minh bị lừa bởi Cort Randall, người sáng lập đãy sức lôi cuốn của NSM, có các quỹ tài trợ của Đại học Cornell và Đại học Harvard, và những bộ phận ủy thác của các ngân hàng nổi tiếng như Morgan Guaranty và Bankers Trust.

[2531. The Money Managers (Các nhà quản Ịý tiền tệ), của G. E. Kaplan và c. Welles, Random House, 1969.

(Chú thich của tác giã).

[254]. Như một chứng cớ gần đây nhất của câu tục ngữ trên rằng "càng thay đổi thì càng y nguyên", hãy xet Ryan Jacob, một thần đồng 29 tuoỉ, người đã lập nên quỹ Jacob Internet Fund của mình vào cuối năm 1999, sau khi tạo ra mức tỷ suất lợi nhuận 216% với quỹ Internet trước đó của mình. Các nhà đầu tư đã đố gằn 300 triệu đô la vào quỹ của Jacob vào một vài tuần đầu của năm 2000. Quỹ này sau đó đã mất 79,1% vào năm 2000, 56,4% vào năm 2001, và 13% vào năm 2002 - sự sụt giá tổng cộng là 92%. Thua lỗ đó có lẽ đã làm cho các nhà đầu tư của Jacob trở nên già hơn và thông thái hơn là nó đã làm cho anh ta.

[2551. Thú vị thay, sự bùng phát rồi nổ tai hại của những năm 1999-2002 cũng đã đến khoảng 35 năm sau chu kỳ điên rồ trước đó. Có lẽ cằn khoảng 35 năm để những nhà đẳu tư nào nhớ tới sự điên cuồng của "Nèn kinh tế mới" trước đó trở nên ít bị ảnh hưởng hơn so với những người không nhớ. Nếu linh cảm này đúng, nhà đầu tư thông minh nên đặc biệt thận trọng vào khoảng năm 2030.

[256]. Xem định nghĩa "cổ phiếu thư" ở trang 17. (Chú f2571. Tên một cuốn sách được xuất bản lằn đầu vào năm 1852. Cuốn sách đã mô tả vụ "Bong bóng South Sea", cơn sốt hoa tuy líp; và những lằn sốt đầu cơ khác trong quá khứ. Nó được tái bản vào năm 1932 bởi Bernard M. Baruch, có lẽ là nhà đầu tư liên tiếp thành công trong thời hiện tại. Nhận xét. Điều này là mất bò mới lo làm chuồng. Cuốn Extraordinary Popular Delusions and the Madness of Crowds (Các ảo tưởng phổ biến lạ thường và sự điên rồ của đám đông) (Metro Books, New York, 2002) của Charles Mackay được xuất bản Jan đầu vào năm 1841. Nó không phải một cuốn dễ đọc, cũng không phải hoàn toàn chính xác, nó là cái nhìn tống quát về cách mà rất nhiều người có thể tin vào những thứ rất ngớ ngấn —ví dụ như sắt có thể được biển đoi thành vang, quỷ thường hiện lên vào những buổi tối thứ sáu, và việc trở nên giàu có nhanh chóng trong thị trường chứng khoán là chuyện có thể. Để có mọt bài tường thuật thực tế hơn, hãy đọc cuốn sách của Edward Chancellor: Devil Take the Hindmost (Khôn sống mống chết) (Farrar, Straus & Giroux, New York, 1999); để xem một cuốn nhẹ nhàng hơn, hãy thử đọc sách của Robert Menschel: Markets, Mobs and Mayhem: A Modern Look at the Madness of Crowds (Thị trường, đám đông bát nháo và sự lộn xộn. Một cái nhìn hiện đại vào sự điên rò của đám đông) (John Wiley & Sons, New York, 2002). (Chú thich của tác giả).

[258]. Tương đương của ngày nay với các "ngoại lệ hiếm hoi" của Graham thường là những quỹ mở; bị đóng đối với những nhà đầu tư mới - tức là các nhà quản lý không nhận thêm tiền nữa. Trong khi việc này giảm chi phí quản lý mà họ có thể kiếm được, nó lại tối đa hóa tỷ suất lợi nhuận mà những người nắm giữ cò phần đã có của họ có thể nhận được. Do hầu hết những người quản lý quỹ thường muốn đi tìm số 1 hơn la trở thành số 1, viẹc đóng cửa một quỹ đối với các nhà đầu tư mới là một bước hiếm hoi và can đảm.

[259]. Tác giả tính như sau: tỷ suất lợi nhuận của nhà đầu tư B nếu giá bán cổ phiếu của anh ta không thay đổi là 85% + 30% - 1,5% (chi phí hoa hồng) = 113,5°/Ố, muốn có kết quả lợi nhuận như nhà đầu tư A (thu về 100% giá trị tài sản) thì giá bán cổ phiếu của anh ta phải giảm đi 113,5% -100% =13,5%, còn 86,5% - 13,5% = 73%. (Chú thich cùa người dịch vả Ban biên tập tiếng Việt).

[260]. Các quỹ khu vực ngành đầu tư chuyên môn hóa vào hầu như mọi ngành có thể tưởng tượng được miễn là đang tồn tại - và chúng đã có từ những năm 1920. Sau gần 80 năm lịch sử, cac bằng chứng quá rõ ràng: Ngành kiếm được nhiều tiền nhất, và do đó được ưa chuộng nhất, của bất cứ năm nào thường sẽ trở thành ngành hoạt động tệ nhất trong năm sau đó. Cũng giống như nhàn cư vi bất thiện, các quỹ khu vực ngành là ke thù của nhà đầu tư.

[2611. Có quá nhiều nghiên cứu về hoạt động kết quả của quỹ đàu tư tương hỗ để trích dẫn. Một vài bản tóm tắt và các đường dẫn hữu ích có thể tìm thấy tại www.investorhome. com/mutual. htm#do; www.ssrn.com (gõ chữ "mutual fund" vào ô tìm kiếm), và www.stanford.edu/-wfsharpe/art/art.htm.

[262]. Nói thế không có nghĩa là những quỹ này sẽ hoạt động tốt hơn nếu các nhà đầu tư "siêu sao" của họ ở lại; tất cả những gì chúng tôi có thể chắc chắn là hai quỹ đó đã hoạt động kém đi khi không có họ nữa.


Каталог: file -> downloadfile6 -> 161
downloadfile6 -> Họ và tên sinh viên: Trần Thị Mỹ Hằng Mã sinh viên: 0851015561
downloadfile6 -> Thế giới an ninh- thiết lập hệ thống camera quan sát với card ghi hình Hệ thống Demo bao gồm
downloadfile6 -> 1 Giới thiệu adc 0809
161 -> BÀi giảng quản trị ngân hàng 2
downloadfile6 -> HUỲnh duy khánh các công thức tính thể TÍCH
downloadfile6 -> Dạng 1: Tính các đại lượng cơ bản (công thoát A, v0max, P, ibh, Uh, H…)
downloadfile6 -> Ách đỌc tên latinh đỗ Xuân Cẩm Giảng viên Đh huế
downloadfile6 -> I. TỔng quan về vqg tràm chim vị trí địa lý
161 -> ĐẠi họC ĐÀ NẴng trưỜng đẠi học kinh tế khoa tài chính ngân hàng  bt nhóm môn thanh toán quốc tế

tải về 3.49 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   32   33   34   35   36   37   38   39   ...   42




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương