NHÀ ĐẦu tư thông minh "Cuốn sách hay nhất về đầu tư từng được viết cho đến nay"



tải về 3.49 Mb.
trang33/42
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích3.49 Mb.
#3721
1   ...   29   30   31   32   33   34   35   36   ...   42

CHÚ THÍCH [ỊJ. Đồng tác giả với David Dodd và được xuất bản lần đầu vào năm 1934. (Trong sách có ba loại chú thích: chú thích của tác giả, chú thích bố sung của nguyên bản tiếng Anh trong lần tái bản có Chĩnh lý thứ tư và chú thích của bản dịch tiếng Việt Từ đây trở đi, mọi chú thích nếu không có ghi chú gì thêm là chú thích bổ sung của nguyên bản. Chú thích của tác giả trong nguyên bản và chú thích của người dịch và Ban biên tập tiếng Việt được ghi chú rõ.) [2]. Nhà Grossbaum đã đổi họ mình thành Graham trong Thế chiến I, khi mà những cái họ giống họ Đức bị nghi ngờ.

[3]. Mua chứng khoán với khoản tiền trả ngay ít hơn tổng giá trị tiền mua và vay thêm tiền của nhà môi giới cho đủ rồi trả dằn và thế chấp (cằm cố) bằng chính chứng khoán được mua. {Chú thích của người dịch và Ban biên tập tiếng Việt).

[4]. Graham-Newman Corp. là một quỹ đầu tư tương hỗ mở (xem chương 9) mà Graham điều hành hợp danh cùng Jerome Newman, một nhà đầu tư giỏi. Trong phần lớn thời gian hoạt động, quỹ đóng cửa với các nhà đầu tư mới. Tôi xin cảm ơn Walter Schloss vì đã cung cấp dữ liệu thiết yếu cho việc ước lượng mức sinh lợi của Graham-Newman. Con số 20% mức sinh lợi hằng năm mà Graham ghi trong phần Tái bút của mình (trang 589) có vẻ đã không tính phí quản lý.

[5]. Văn bản ỉn ờ đây là bản tái bản có chỉnh lý lần thứ tư đã được Graham sửa đổi vào năm 1971-1972 và được xuất bản lằn đắu vào năm 1973.

[6]. Nhà thơ và triết gia Mỹ gốc Tây Ban Nha (1863- 1952). {Chú thích của người dịch và Ban biên tập tiếng Việt).

[7]. Raskob (1879-1950) là một giám đốc của Du Pont, một công ty hóa chất khổng lồ, và là chủ tịch hội đồng tài chính của General Motors, ông còn là chủ tịch toàn quốc của Đảng Dân chủ, và là thế lực thúc đầy sự xây dựng tòa nhà Empire State. Các tính toán của giáo sư tài chính Jeremy Siegel khẳng định rằng kế hoạch của Raskob sẽ chỉ tạo được dưới 9.000 đô la sau 20 năm, mặc dù lạm phát rồi sẽ ăn mất phần lớn lợi nhuận đó. Để có cái nhìn mới nhất, chuẩn xác nhất về các quan điểm của Raskob trong việc đầu tư cổ phiếu dài hạn, hãy xem bài khảo luận của cố vấn tài chính William Bernstein tại WMW.efficientfrontier.com/ef/197/raskob.htm.

[8]. 'Thảo luận ngắn gọn" của Graham gồm hai phần, tại trang 49 và trang 217-218. Để biết thêm về lý thuyết Down, hãy xem http://viking.som.yale.edu/will/ dow/downpage.html.

[9]. "Cổ phiếu thư" là một loại cổ phiếu mà người mua không được đăng ký bán với ủy ban Chứng khoán và Giao dịch (SEC), điều này được ghi rõ trong thư rằng nó được mua theo hình thức đầu tư. (Chú thích của tác giả).

f101. Các quỹ đầu tư tương hỗ mua "cổ phiếu thư”

trong các giao dịch riêng tư, sau đó lập tức định lại giá các cổ phiếu này với giá đại chúng cao hơn (xem định nghĩa của Graham ở chú thích 2 trên đây). Điều này khiến các quỹ đẳu cơ mạo hiểm ("go-go" fund) đạt được mức sinh lợi cao, không ben lâu, trong những năm giữa thập kỷ 1960. ủy ban Chứng khoán và Giao dịch Mỹ đã dẹp bỏ sự lạm dụng này vào năm 1969, và nó không còn là một mối lo đối với những nhà đầu tư quỹ. Chứng chỉ quyền mua cổ phiếu sẽ được giải thích trong chương 16.

[111. Penn Central Transportation Co.f khi đó là công ty đường sắt lớn nhất ở Mỹ; đã yêu cằu bảo hộ phá sản vào ngày 21 tháng 6 năm 1970 - khiến các nhà đầu tư bị sốc; họ không thể ngờ một công ty khổng lồ như vậy có thể sụp đổ (xem trang 473). Trong số các công ty với món nợ "thái quá" mà Graham nhận định, có Ling-Temco-Vought và National General Corp. (xem trang 476 và 516). "Vấn đề trả nợ" của Phố Wall nảy sinh từ năm 1968 đến năm 1971, khi mà một số công ty môi giới uy tín bỗng nhiên vỡ nợ.

[12]. Những con số ờ trước là các con số của chỉ số Moody cho các trái phiếu hạng AAA và cổ phiếu công nghiệp. (Chú thích của tác giả).

[Ị3] Xem chương 2. Vào đầu năm 2003, trái phiếu kho bạc Mỹ; đáo hạn trong 10 năm sẽ cho khoản lợi 3,8%, trong khi chứng khoán (đo bằng chỉ số DJIA) cho 1,9%. (Chú ý rằng mối quan hệ này không khác biệt nhiều so với những con số của năm 1964 mà Graham trích dẫn). Lợi nhuận sinh ra từ các trái phiếu chất lượng cao đã hạ đều đặn từ năm 1981.

[14] . "Cổ phiếu ngành vận tải hàng không" tất nhiên đã tạo ra biết bao hào hứng vào cuối những năm 1940 và đàu những năm 1950, giống như cổ phiếu Internet đã tạo ra nửa thế kỷ sau đó. Trong những quỹ đầu tư tương hỗ nóng nhất lúc đó có Aeronautical Securities và Quỹ Missiles-Rockets-Jets & Automation. Các quỹ này, cũng giống như những chứng khoán mà chúng nắm giữ, hóa ra lại trở thành một thảm họa đầu tư. Ngày nay, người ta chấp nhận rằng tổng lợi tức lũy kế của ngành hàng không trong suốt lịch sử của nó là âm. Bài học mà Graham đưa ra không phải là bạn không nên mua cổ phiếu hàng không, mà là bạn không bao giờ nên chẩp nhận "điẽu chắc chắn" là một ngành nào đó sẽ cho kết quả tốt hơn tất cả các ngành khác trong tương lai.

(Ĩ5Ị. Quỹ đầu tư tương hỗ hay quỹ tương hỗ (mutual fund) dùng tiền vốn cổ phần của nhà đầu tư góp vào để đău tư (chủ yếu vào chứng khoán) thay vì nhà đầu tư trực tiếp đầu tư. Nhà đău tư góp vốn bằng cách mua cổ phần của quỹ. Mục đích của quỹ là đa dạng hóa đầu tư, giảm thiểu rủi ro và chi phí đầu tư thấp với hiệu quả cao do tính chuyên nghiệp của quỹ. (Chủ thích của người dịch và Ban biên tập tiếng Việt).

[16]. Tài sản hữu hình bao gồm tài sản vật chất của công ty (như bất động sản nhà xường, thiết bị và các sáng chế) cũng như cân đối tài chính của nó (như tiền mặt, đầu tư ngắn hạn và các khoàn thu). Những yếu tố không thuộc tài sản hữu hình bao gồm nhãn hàng, bản quyền, bằng sáng chế, nhượng quyền, đặc quyền kế nghiệp và thương hiệu. Để biết thêm về giá trị tài sản hữu hình xem chú thích cuối trang 225.

[171. Để hiểu rõ nhận định này, hãy xem khả năng bạn mua một chứng khoán ờ mức 30 đô là và bán lại ở giá 600 đôla có hay xảy ra không.

[18]. SAT: kỳ thi đánh giá kỹ năng, kiến thứ để đăng ký vào một số trường đại học tại Mỹ. (Chú thích của người dịch và Ban biên tập tiếng Việt).

[19]. Benjamin Graham, Nhà đầu tư Thông minh (Harper & Row, 1949), trang 4.

[20]. Loại quỹ này còn được dịch là quỹ phòng hộ, quỹ phòng vệ/ngừa rủi ro hoặc quỹ đằu cơ. Tuy nhiên chúng tôi không dùng tên gọi quỹ đằu cơ, vì go-go fund đã được dịch là quỹ đằu cơ mạo hiểm. {Chú thích của người dịch và Ban biên tập tiếng Việt).

[211. "Quỹ phòng \jệ là chỗ chứa một khoản tiền, phần lớn không được chính phủ quản lý, được đầu tư mạnh tay cho những khách hàng giàu có. Để đọc về câu chuyện LTCM, hãy xem cuốn When Genius Failed (Khi thiên tài thất bại) , của Roger Lowenstein (Random House, 2000).

I22Ị. Tôn ông (Sir) đặt trước tên họ người được phong là hiệp sĩ hoặc tòng nam tước, còn Huân tước (Lord) đặt trước tên họ người được phong các tước quý tộc cao hơn, từ nam tước trở lên. {Chú thích của người dịch và Ban biên tập tiếng Việt).

[23]. John Carswell, South Sea Bubble (Bong bóng South Sea) (Cresset Press, London, 1960), trang 131, 199. Ngoài ra, hãy xem www.harvard-magazine.com/ issues/mj99/damnd.html.

[24]. Constance Loizos, "Hỏi và đáp: Alex Cheung", InvestmentNews (Tin tức đầu tư), 17/5/1999, trang 38. Mức sinh lợi 20 năm cao nhất trong lịch sử quỹ đầu tư tương hỗ là 25,8% một năm, do Peter Lynch huyền thoại của Quỹ Fidelity Magellan đạt được, trong hai thập kỷ tính tới 31 tháng 12 năm 1994. Hoạt động hiệu quả của Lynch đã biến 10.000 đô la thành 982.000 đô la trong 20 năm. Cheung dự đoán quỹ của ông sẽ biến 10.000 đô la thành hơn 4 triệu đô la trong cùng một khoảng thời gian như vậy. Thay vì xem Cheung là lạc quan quá đáng, các nhà đầu tư đổ tiền vào cho ông, vung hơn 100 triệu đô la vào quỹ của ông trong năm sau đó. Một khoản đầu tư 10.000 đô la vào Monument Internet Fund vào tháng 5 năm 1999 sẽ teo lại còn khoảng 2000 đô la vào cuối năm 2002. (Monument Internet Fund không còn tồn tại dưới dạng ban đắu, và bây giờ nó được biết đến là Orbitex Emerging Techonology Fund).

[25]. Lisa Reilly Cullen, "Câu lạc bộ ba chữ số", Money (Tiền), tháng 12 năm 1999, trang 170. Nếu bạn đầu tư 10.000 đô la vào quỹ của Vilar vào cuối năm 1999, thì bạn sẽ kết thúc năm 2002 với số tiền chỉ còn 1195 đô la - một trong những sự hủy diệt tài sản tồi tệ nhất trong lịch sử quỹ đầu tư tương hỗ.

[26] . Xem www.thestreet.com/funds/smarter/ 891820.html. Những chứng khoán ưa thích của Cramer đã không "đi lên kể cả trong ngày tốt lẫn ngày xấu." Đến cuối năm 2002, một trong 10 chứng khoán đó đã phá sản, và khoản đầu tư 10.000 đô la chia đều giữa các chứng khoán Cramer chọn lựa sẽ mất giá trị tới 94%, khiến bạn chỉ còn lại tổng cộng là 597,44 đô la. Có lẽ ý của Cramer là các chứng khoán của ông sẽ "thắng cuộc", không phải ờ "thế giới mới", mà ở thế giới sắp tới.

[27]. Ngoại lệ duy nhất của quy luật này là một nhà đầu tư nghỉ hưu đã lâu, người có thể không sống lâu hơn một thị trường giá xuống lâu dài. Tuy vậy ngay cả một nhà đắu tư lớn tuổi cũng không nên bán chứng khoán của mình đi chỉ vì chúng đã giảm giá; cách tiếp cận này không chỉ biến lỗ trên giấy thành lỗ thật, mà còn khiến người thừa kế của ông/bà ta mất khả năng thừa kế chứng khoán này với giá rẻ hơn, khi tính thuế.

[28]. Benjamin Graham, David L. Dodd, Sidney Cottle, và Charles Tatham, NXB McGraw-Hill, lần xuất bản thứ 4, năm 1962. Một bản sao của cuốn Phân tích chứng khoán phiên bản năm 1934 được tái phát hành vào năm 1996 (McGraw-Hill). (Chú thích của tác giả).

[29]. Câu này được trích từ cuốn Investment and Speculation (Đầu tư và đầu cơ), của Lawrence Chamberlain, xuất bản năm 1931. (Chú thích của tác giả).

[30]. Trong một bản điều tra do Hội đồng quản trị Cục Dự trữ Liên bang thực hiện. (Chú thích của tác giả).

[311. Điều tra mà Graham trích dẫn là do Đại học Michigan thực hiện cho Cục Dự trữ Liên bang (FED) và được công bố trong Tập san thông tin của Cục Dự trữ Liên bang (Federal Reserve Bulletin), tháng 7/1948. Mọi người được hỏi là "giả sử một người quyết định không tiêu tiền của mình. Anh ta có thể gửi ngân hàng hoặc mua trái phiếu hoặc có thể đầu tư. Theo bạn thì cách nào là khôn ngoan nhất đối với anh ta nhằm sử dụng số tiền của mình: gửi ngân hàng, mua trái phiếu tiết kiệm, đầu tư vào bất động sản hay mua một cổ phiếu thường?" Chỉ có 4% cho là cổ phiếu thường sẽ mang lại lợi nhuận thỏa đáng. 26% xem đây là "không an toàn hoặc đánh bạc". Từ năm 1949 đến năm 1958, thị trường chứng khoán đạt được một trong những mức lợi tức 10 năm cao nhất trong lịch sử, trung bình là 18,7% năm. Trong một cuộc điều tra tương tự như điều tra này của FED, một cuộc thăm dò do tạp chí BusinessWeek thực hiện cuối năm 2002 cho thấy là chỉ có 24% số nhà đầu tư muốn đầu tư thêm vào các quỹ tương hỗ của họ hoặc vào các danh mục đầu tư cổ phiếu, giảm từ mức 47% mới chỉ ba năm trước đó.

I32Ị. Đâu cơ có ích ở hai khía cạnh. Thứ nhất, không có đầu cơ thì những công ty mới chưa qua thử thách (chẳng hạn như Amazon.com hay Công ty đèn điện Edison [Edison Electric Light Co.] trước kia) có lẽ không bao giờ có thể huy động được vốn cằn thiết để mở rộng kinh doanh. Cơ hội mạo hiểm nhưng cám dỗ có được lợi nhuận lớn là mỡ bôi trơn cho cỗ máy đổi mới. Thứ hai, rủi ro được hoán đổi (song không bao giờ bị loại bỏ) mỗi lằn chứng khoán được mua hay bán. Người mua chịu rủi ro cơ bản là chứng khoán đó có thể đi xuống. Trong khi đó; người bán vẫn chịu một phần rủi ro nhỏ - đó là khả năng chứng khoán mà anh ta vừa mới bán có thể sẽ lên.

[33]. Một tài khoản bảo chứng (ký quỹ) giúp bạn mua chứng khoán bằng tiền vay từ công ty môi giới. Bằng cách dùng tiền vay đầu tư , bạn có thể kiếm nhiều hơn khi chứng khoán đi lên - nhưng bạn cũng có thể bị mất sạch nếu chúng đi xuống. Vật thế chấp để vay là giá trị của các khoản đắu tư trong tài khoản của bạn - do đó bạn phải cho thêm tiền vào tài khoản nếu giá trị đó giảm xuống dưới mức bạn đã vay. Để biết thêm thông tin về các tài khoản bảo chứng (margin account), hãy xem www.sec.gov/investor/pubs/ margin.htm, www.sia.com/publications/pdf/ MarginsA.pdf, và www.nyse.com/pdfs/ 2001_factbook_09.pdf |34|. Giá trị cơ sở (underlying value) được hiểu là giá trị nên tảng, nội tại [của một doanh nghiệp], bao gồm cả tài sản hữu hình lẫn vô hình, tức là cả yếu tố định lượng (tài sản, vốn, lợi nhuận) lẫn yếu tố định tính (chất lượng quản lý, tài sản trí tuệ, thành tựu quá khứ) và có thể khác với giá thị trường. (Chú thích của người dịch và Ban biên tập tiếng Việt).

[35]. Phiên bản sách năm 1965, tr. 8. (Chú thích của tác giả).

[36]. 30 cổ phiếu công ty nằm trong "rổ hàng hóa" để tính chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones (DJIA), gọi tắt là chỉ số Dow. (Chú thích của người dịch và Ban biên tập tiếng Việt).

[37]. Hãy đọc lại câu của Graham và chú ý đến điều mà chuyên gia đầu tư vĩ đại nhất này đang nói: Tương lai của giá chứng khoán không bao giờ có thể dự đoán được. Và khi đọc tiếp, bạn hãy nhận thấy rằng tất cả những gì mà Graham nói là để giúp bạn nắm được sự thật này. Vì bạn không thể dự đoán được hành vi của thị trường, bạn phải học cách dự đoán và kiểm soát hành vi của bản thân mình.

[38]. Dự báo của Graham đúng đến đâu? Khi mới nhìn qua, nó có vẻ rất đúng: Từ đầu năm 1972 đến hết năm 1981, chứng khoán thu được mức sinh lợi trung bình hằng năm là 6,5% (Graham không nói rõ khoảng thời gian trong dự báo của mình, nhưng cũng hợp lý nếu ta cho là ông đã nghĩ tới khoảng thời gian 10 năm). Tuy nhiên, lạm phát ghê gớm ở mức 8,6% hằng năm trong thời kỳ này đã ăn mất tất cả lợi nhuận mà cổ phiếu tạo ra. Trong phần này của chương, Graham tóm tắt cái được gọi là "biểu thức Gordon", về cơ bản cho rằng mức sinh lợi trong tương lai của thị trường cổ phiếu sẽ bằng tổng tỷ suất cổ tức hiện tại cộng với tỷ lệ tăng lợi tức (earnings growth) kỳ vọng. Với mức tỷ suất cổ tức chỉ dưới 2% vào đằu năm 2003, và mức tăng lợi tức dài hạn khoảng 2%, cộng với mức lạm phát hơn 2% một chút, mức sinh lợi trung bình hằng năm trong tương lai khoảng 6% là hợp lý. (Xem phần bình luận về chương 3.) (39). ở đây chúng tôi đặt giả thiết khung thuế cao nhất cho nhà đầu tư điển hình với 40% áp dụng vào cổ tức và 20% áp dụng cho các lợi nhuận vốn. (Chú thích của tác giả).

[40]. Kể từ năm 1997, khi các trái phiếu kho bạc được bảo vệ chống lạm phát (Treasury Inflation-Protected Securities hay TIPS) được phát hành, cổ phiếu đã không còn tự động trở thành lựa chọn tối ưu cho các nhà đầu tư trông chờ lạm phát gia tăng. TIPS, không như các trái phiếu khác, chỉ tăng giá trị nếu chỉ số giá tiêu dùng tăng lên. Điều này bảo vệ một cách hiệu quả để nhà đầu tư không bị mất tiền sau lạm phát, cổ phiếu không có bảo đảm nào như vậy, và như vậy phòng vệ giá của chúng là rất kém đề chống lại các mức lạm phát cao. (Để biết thêm chi tiết, hãy xem phần bình luận về chương 2.) [411. Ngày nay, các chỉ số phổ biến rộng rãi nhất có thể thay cho chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones là chỉ số chứng khoán Standard & Poor's 500 ("S & P" hoặc "S & p 500") và chỉ số Wilshire 5000. Chỉ số s & p tập trung vào 500 công ty lớn, nổi tiếng tạo nên khoảng 70% tổng giá trị của thị trường vốn cổ đông Mỹ. Chỉ số Wilshire 5000 tập trung vào mức sinh lợi của hầu hết các chứng khoán lớn, được kinh doanh công khai ở Mỹ, gần 6700 chứng khoán tất cả, song vì những công ty lớn nhất chiếm gần hết tổng giá trị của chỉ số này, mức sinh lợi của Wilshire 5000 thường gần giống với mức sinh lợi của s & p 500. Một số quỹ đầu tư tương hỗ chi phí thấp giúp các nhà đầu tư giữ chứng khoán trong các chỉ số này như một danh mục đầu tư đơn giản, tiện lợi (xem chương 9).

Í42Ị Xem các trang 404-407 và 418-423.

[43]. Để biết chi tiết hơn, hãy xem chương 6.

[441. Để hiểu thêm về các "quỹ đầu tư có tiếng", xem chương 9. "Sự quản lý chuyên nghiệp" do "một công ty tư vấn đắu tư được công nhận" được bàn đến trong chương 10. "Bình quân chi phí đô la" được giải thích trong chương 5.

[451. Xem chương 8.

põị. Trong việc bán khống một cổ phiếu, bạn đang đánh cược rằng giá cổ phiếu đó sẽ đi xuống chứ không đi lên. Bán khống là một quá trình ba bước: đầu tiên bạn vay cổ phiếu của ai đó đang nắm giữ chúng; sau đó bạn bán ngay số cổ phiếu đã vay, cuối cùng bạn mua bù số cổ phiếu trên để trả. Nếu giá cổ phiếu đi xuống, bạn có thể mua số cổ phiếu thay thế với giá thấp hơn. Chênh lệch giữa giá bán cổ phiếu đi vay và giá mua cổ phiếu thay thế là lai gộp của bạn (lãi thực thấp hơn vì còn phí cổ tức hay phí lai suất, cùng với phí môi giới). Tuy nhiên nếu cổ phiếu lên giá chứ không giảm giá, thua lỗ tiềm tàng của bạn là không giới hạn - khiến cho bán khống là loại đằu cơ không chấp nhận được đối với hầu hết các nhà đầu tư cá nhân.

[47]. Vào cuối những năm 1980, khi mà các vụ tiếp quản công ty thù địch và mua lại cổ phần bằng tiền va y (đòn bầy tài chính) tăng lên nhiều, Phố Wall đã dựng nên các "quầy" kinh doanh chênh lệch giá (arbitrage desk) để thu lời từ những sai sót trong việc ra giá trong các giao dịch phức tạp này. Họ trở nên giỏi trò này đến nỗi các lợi nhuận dễ kiếm đều biến mất và nhiều quầy như vậy đã đóng cửa. Mặc dù Graham có nói tới việc này một lằn nữa (xem trang 198-200), kiểu kinh doanh này không còn khả thi hoặc phù hợp với đa số mọi người, vì chỉ có các giao dịch nhiều triệu đô la mới đủ lớn để thu vào lợi nhuận đáng kể. Những cá nhân giàu có hoặc các tổ chức mới có thể tận dụng chiến lược này thông qua các quỹ phòng vệ chuyên kinh doanh chênh lệch giá trong sáp nhập hoặc "sự kiện".

[481. Gia đình Rothschild, đứng đằu là Nathan Mayer Rothschild, từng là quyền lực chi phối lĩnh vực ngân hàng đầu tư và môi giới châu Âu thế kỷ 19. Để đọc về một lịch sử hoành tráng, hãy xem cuốn The House oỉ Rothschild. Mone/s Prophet (Gia đình Rothschild:

Những nhà tiên tri về tiền bạc, 1798-1848) (Viking, 1998) của Niall Ferguson.

[49]. Graham còn đi xa hơn nữa khi giải thích từng khái niệm chủ đạo trong định nghĩa của ông: "phân tích kỹ lưỡng" có nghĩa là "nghiên cứu các thông tin dưới ánh sáng của các tiêu chuẩn đã định về sự an toàn và giá trị", trong khi "an toàn vốn" nghĩa là "bảo vệ khỏi sự thua lỗ trong tất cả các điều kiện hay dao động thống thường hoặc tương đối nhiều khả năng xảy ra", còn mức sinh lợi "thỏa đáng" (hay "thỏa mãn") nói tới "bất kỳ tỷ suất sinh lợi, dù thấp cỡ nào, mà nhà đầu tư có thể chấp nhận được, với điều kiện anh ta hoạt động tương đối thông minh." (Phân tích chứng khoán, bản in năm 1934, trang 55-56).

|5o|. Phân tích chứng khoán, bản in năm 1934, trang 310.

[511. Theo như Graham đã khuyên trong một bài phỏng vấn, "Bạn hãy tự hỏi mình: Nếu không có thị trường cho các cổ phiếu này, liệu tôi có muốn đầu tư vào công ty này với các điều kiện này không?" (Forbes, 1/1/1972, trang 90).

[52]. Mua bán trong ngày (day trading): mua và bán (hoặc bán khống và mua lại) cùng một loại chứng khoán trong cùng một ngày. (Chú thích của người dịch và Ban biên tập tiếng Việt).

[53]. Nguồn: Steve Galbraith, báo cáo nghiên cứu của Sanford c. Bernstein & Co., ngày 10/1/2000. Các cổ phiếu trong hình này có mức sinh lợi trung bình 1196,4% vào năm 1999. Chúng mất đi trung bình 79,1% mức sinh lợi vào năm 2000, 35,5% vào năm 2001, và 44,5% vào năm 2002 - phá hủy tất cả lợi nhuận của năm 1999, và còn nhiều hơn thế nữa.

[54]. Thay vì mơ mộng xa vời, đáng lẽ Streisand nên nghe theo Graham. Nhà đầu tư thông minh không bao giờ bỏ một cổ phiếu chỉ vì giá thị trường của nó giảm; cô luôn phải hỏi trước tiên xem giá trị cơ sở của công ty có thay đổi hay không.

[55]. Chỉ 12 tháng sau, cổ phần của Juno đã teo xuống chỉ còn 1,093 đô la.

[56]. Ký hiệu băng thông tin điện tử của một công ty là những chữ viết tắt, thường từ một đến bốn chữ cái, tên công ty để đọc nhanh khi nhận dạng một chứng khoán với mục đích kinh doanh.

[57]. Đây không phải một vụ nhầm lẫn duy nhất; có ít nhất ba lằn khác trong những năm 1990 mà những người mua bán trong ngày đã khiến giá các chứng khoán nhầm lẫn vọt lên khi họ nhầm ký hiệu thông tin điện tử của nó với ký hiệu của một công ty Internet mới.

[58]. Vào năm 2000 và 2001, Amazon.com và Qualcomm lằn lượt mất tổng cộng 85,5% và 71,3%.

[59]. Shwert thảo luận về các phát hiện này trong một bài nghiên cứu tuyệt vời "Những điều bất thường và tính hiệu quả thị trường" có thể xem tại http://schwert.ssb.rochester.edu/papers.htm.

[50]. Xem Plexus Group Commentary 54, "Phăn băng nổi chính thức của các chi phí giao dịch cao nhất", tháng 1, 1998, tại www.plexusgroup.com/ fs_research.html.

[61]. James O'Shaughnessy, What Works on Wall Street (McGraw-Hill, 1996), trang xvi, 273-295.

[62]. Một sự ngược đời đặc biệt đã khiến cho hai quỹ 0'Shaughnessy còn sống sót (giờ được gọi là quỹ Hennessy) bắt đầu biểu hiện khá tốt ngay khi 0'Shaughnessy tuyên bố rằng ông sẽ chuyên việc quản lý cho một công ty khác. Những người nắm giữ cổ phần của quỹ tức điên lên. Trong một cuộc trò chuyện trên www.morningstar.com, một người đã giận giữ nói: 'Tôi nghĩ chắc 'dài hạn' đối với 0'S là 3 năm... Tôi hiếu nỗi đau của bạn. Tôi cũng đã đặt niềm tin vào phương pháp của 0'S... Tôi đã nói với một số bạn bè và người thân về quỹ này, và giờ tôi mừng vì họ không làm theo lời khuyên của tôi.”

[63]. Xem Jason Zweig, "Lợi nhuận giả", Money, tháng 8/1999, trang 55-57. Một thảo luận kỹ lưỡng về Bốn Kẻ Ngốc cũng có thể xem tại www.investorhome.com/ fool.htm.

(64Ị. Tới cuối những năm 1990, lời khuyên này-phù hợp với các quỹ tài trợ hoặc từ thiện với thời gian đầu tư dài vô tận - đã lan tới những nhà đầu tư cá nhân có cuộc sống hữu hạn. Trong bản in năm 1994 của cuốn sách gây ảnh hưởng của mình, Stocks for the Long Run (Cổ phiếu cho dài hạn), giáo sư tài chính Jeremy Siegel của Đại học Wharton khuyên rằng những nhà đầu tư "liều ỉĩnh" nên mua bằng tiền vay theo hình thức kinh doanh bảo chứng, vay hơn một phần ba trị giá ròng của mình để nhấn chìm 135% tài sản của mình vào cổ phiếu, cả những viên chức chính phủ cũng làm theo: tháng 2/1999, Ngài (the Honorable) Richard Dixon, Bộ trưởng Tài chính bang Maryland, đã nói với khán giả ở một hội thảo đầu tư: "Không có lý gì đề bất kỳ ai đặt tiền vào quỹ trái phiếu.”

[651. Đây là một trong những đánh giá sai hiếm có của Graham. Vào năm 1973, chỉ hai năm sau khi Tổng thống Richard Nixon áp đặt luật kiểm soát tiền lương và giá cả, mức lạm phát đạt tới 8,7%, mức cao nhất kể từ cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Mười năm từ 1973 đến hết 1982 là thời kỳ lạm phát nhất trong lịch sử nước Mỹ đương đại, khi mà giá sinh hoạt gần như tăng gấp đôi.

[66]. Điều này được viết trước quyết định "đóng băng" giá cả và lương bổng của Tổng thống Nixon vào tháng 8 năm 1971, theo sau là hệ thống kiểm soát "Giai đoạn 2" của ông. Những diễn biến quan trọng này sẽ xác minh cho các quan điểm đã nói ở trên. (Chú thích của tác giả).

[67]. Tỷ suất lợi tức trên 425 chứng khoán công nghiệp của chỉ số Standard & Poor's là vào khoảng 11,5% trên giá trị tài sản - một phần nhờ vào việc tính cả công ty IBM lớn và có lợi nhuận cao, vốn không nằm trong 30 cổ phiếu phát hành của DJIA. {Chú thích [69]. Một biểu đồ cồng bố bởi hãng American Telephone & Telegraph vào năm 1971 chỉ ra rằng những mức phí dịch vụ điện thoại tại gia vào năm 1970 có phần thấp hơn của năm 1960. (Chú thích của tác giả).

[70]. John Pierpont Morgan là nhà tài chính quyền lực nhất cuối thế kỷ 19 đẳu thế kỷ 20. Do ảnh hưởng rộng lớn của mình, ông đã liên tục được hỏi xem liệu thị trường chứng khoán sẽ có kết quả gì tiếp theo. Morgan đưa ra một câu trả lời ngắn gọn và luôn luôn chính xác là: "Nó sẽ lên xuống." Xem Jean Strouse, Morgan: Nhà tài chính Mỹ (Morgan: American Financier) (Random House, 1999), trang 11.

[71] 1. Nhà triết lý đầu tư Peter L. Bernstein cảm thấy Graham đã "sai bét" về các kim loại quý, đặc biệt là vàng, khi mà nó (ít nhất là trong những năm sau khi Graham viết chương này) thể hiện khả năng vượt bậc để vượt qua lạm phát. Cố vấn tài chính William Bernstein đồng ý khi chỉ ra rằng một phần nhỏ xíu dành để làm quỹ kim loại quý (chẳng hạn, 2% tổng tài sản của bạn) là quá ít để ảnh hưởng xấu tới mức sinh lợi tổng thể của bạn nếu vàng biểu hiện kém. Nhưng, khi vàng biểu hiện tốt, mức sinh lợi của nó thường tuyệt vời - có khi vượt quá 100% một năm - đến nỗi chỉ mình nó thôi có thể biến một danh mục đầu tư ảm đạm trở thành sáng bóng. Tuy nhiên, nhà đầu tư thông minh tránh đầu tư trực tiếp vào vàng, với chi phí lưu trữ và bảo hiểm cao; ngược lại, họ sẽ tìm ra một quỹ đầu tư tương hỗ đa dạng chuyên về chứng khoán của các công ty kim loại quý và mức phí dưới 1% chi phí hàng năm. Hãy giới hạn lượng tiền đầu tư của bạn ở mức 2% tổng tài sản tài chính của mình (hoặc có thể là 5% nếu bạn trên 65 tuổi).


Каталог: file -> downloadfile6 -> 161
downloadfile6 -> Họ và tên sinh viên: Trần Thị Mỹ Hằng Mã sinh viên: 0851015561
downloadfile6 -> Thế giới an ninh- thiết lập hệ thống camera quan sát với card ghi hình Hệ thống Demo bao gồm
downloadfile6 -> 1 Giới thiệu adc 0809
161 -> BÀi giảng quản trị ngân hàng 2
downloadfile6 -> HUỲnh duy khánh các công thức tính thể TÍCH
downloadfile6 -> Dạng 1: Tính các đại lượng cơ bản (công thoát A, v0max, P, ibh, Uh, H…)
downloadfile6 -> Ách đỌc tên latinh đỗ Xuân Cẩm Giảng viên Đh huế
downloadfile6 -> I. TỔng quan về vqg tràm chim vị trí địa lý
161 -> ĐẠi họC ĐÀ NẴng trưỜng đẠi học kinh tế khoa tài chính ngân hàng  bt nhóm môn thanh toán quốc tế

tải về 3.49 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   29   30   31   32   33   34   35   36   ...   42




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương