NHÀ ĐẦu tư thông minh "Cuốn sách hay nhất về đầu tư từng được viết cho đến nay"



tải về 3.49 Mb.
trang34/42
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích3.49 Mb.
#3721
1   ...   30   31   32   33   34   35   36   37   ...   42

[72]. Được đăng trên Wall Street Journal, tháng 10 năm 1970. {Chú thích của tác giả).

[73]. Cục Thống kê Lao động Mỹ, nơi tính chỉ số giá tiêu dùng để đo lạm phát, có một trang web đầy đủ và có ích tại www.bls.gov/cpi/home.htm.



(mỊ. Để đọc một bài miêu tả sống động về khung canh "lạm phát đã chết", hãy xem \*vww.pbs.org.newshour/bb/economy/july-dec97/ inflation_12-16.html. Vào năm 1996, Hội đồng Boskin, một nhóm các nhà kinh tế được chính phủ yêu cầu điều tra xem mức lạm phát chính thức có chính xác không, đã ước tính rằng nó bị phóng đại, thường là gằn 2 điểm phần trăm một năm. Để đọc báo cáo của Hội đồng này, xem www.ssa.gov/history/reports/ boskinrpt.html. Nhiều chuyên gia đầu tư giờ đây cảm thấy giảm phát, hay giá giảm, là mối nguy hiểm còn lớn hơn lạm phát,ế cách tốt nhất để phòng vệ trước rủi ro này là đưa các trái phiếu vào làm một thành phần cố định trong danh mục đầu tư của bạn. (Xem phần bình luận của chương 4.) [75]. Để hiểu thêm nhiều quan điểm hơn về cạm bẫy cư xử này, hãy đọc các tác giả Eldar Shafir, Peter Diamond và Amos Tversky, "Ảo giác đồng tiền" trong cuốn Lựa chọn, giá trị và cơ cấu (Choices, Values, and Frames) do Daniel Kahneman và Amos Tversky biên tập (Cambridge, 2000), trang 335-355.

[76]. Năm đó; tổng thống Jimmy Carter đã có bài phát biểu nổi tiếng phiền muộn, trong đó ông cảnh báo về một cuộc khủng hoảng niềm tin, cái sẽ "tấn công chính trái tim, tâm hồn và tinh thần ý chí của dân tộc" và "đe dọa hủy diệt cơ cấu chính trị và xã hội Mỹ".

[77]. Xem các tác giả Stanley Fischer, Ratna Sahay và Carlos A. Vegh, bài "Sự thổi phồng hiện đại và lạm phát cao", Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia (Mỹ), bài nghiên cứu 8930, tại www.nber.org/papers/w8930.

[78]. Thật vậy, nước Mỹ đã từng có hai thời kỳ siêu lạm phát. Trong Cách mạng Mỹ; giá cả gần như nhân ba mỗi năm kể từ năm 1777 đến hết 1779, với một pao (0,454 kg) bơ giá 12 đô la và một thùng bột mì giá 1.600 đô la ở bang Massachusetts dưới quyền lực lượng Cách mạng. Trong cuộc Nội chiến, lạm phát dữ dội ở mức hằng năm là 29% (ở miên Bắc) và gần 200% (ở miên Nam, theo phe Hợp bang ly khai). Gần đây hơn, như năm 1946, lạm phát đạt 18,1% ở Mỹ.

(79). Tôi phải cảm ơn Laurence Siegel của Quỹ Ford vì thông tin cay độc mà chính xác này. Ngược lại với nó; vào lúc giảm phát (tức là giá giảm liên tục) thì người cho vay có lợi hơn người đi vay - đó là lý do vì sao hầu hết các nhà đầu tư nên giữ ít nhất một phần nhỏ tài sản của mình làm trái phiếu, như một dạng bảo hiểm đối với giá cả giảm phát.

[80]. Khi mức lạm phát là âm, khái niệm kỹ thuật của nó là "giảm phát". Thông thường thì ban đầu giá cả giảm thường xuyên nghe có vẻ hấp dẫn, cho đến lúc bạn nghĩ tới ví dụ về Nhật Bản. Giá cả giảm phát ở Nhật từ năm 1989 đến nay, và giá trị của bất động sản và thị trường cổ phiếu giảm năm này qua năm khác - sự tra tấn loãng không ngớt đối với nen kinh tế lớn thứ hai thế giới này.

[81]. Theo Ibbotson Associates, cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu và lạm phát, Sách hướng dẫn năm 2003 (Stocks, Bonds, Bill, and Inflation, 2003 Handbook) (Ibbotson Associates, Chicago, 2003), Bảng 2-8. Quy luật này cũng xuất hiện rõ ràng ở ngoài nước Mỹ: ở Bỉ, Ý và Đức, những nơi mà lạm phát đặc biệt cao vào thế kỷ 20, "lạm phát có vẻ có tác động tiêu cực tới cả thị trường cổ phiếu và trái phiếu", theo lời của Elrroy Dimson, Paul Marsh và Mike Stauton trong cuốn Sụ chiến thắng của người lạc quan: 101 năm của lợi nhuận đầu tư toàn cầu (Triumph of the Optimist: 101 Years of Global Investment Returns) (Princeton University Press, 2002), trang 53.

[82]. Thông tin đãy đủ, tuy có lúc không được cập nhật, về REITs có tại www.nareit.com.

[83]. Để có thêm thông tin, hãy xem các trang www.vanguard.com,www.cohenandsteers.com, www.columbiafunds.com và www.fidelity.com. Lý do để đầu tư vào quỹ REIT sẽ yếu đi nhiều nếu như bạn sở hữu một ngôi nhà, bởi vì nó tạo cho bạn một khoản tiền đặt sẵn tự nhiên trong sở hữu bất động sản.

(84Ị. Một bài giới thiệu hay về TIPS có thể được xem tặĩ WMW.publicdebt.treas.gov/of/ofinflin.htm. Để đọc về các thảo luận sâu hơn, hãy xem www.federalreserve.gov/Pubs/feds/2002/200232/ 200232pap.pdf, www.tiaa-crefinstitute.org/ Publications/residags/73_09-2002.htm;www.bwater.com/researchJbonds.htm.

[85]. Loại tài khoản tiết kiệm nhằm giảm thu nhập chịu thuế căn cứ theo mục 401 (k) trong bộ Luật Thuế thu nhập nội địa của Mỹ; theo đó bạn sẽ không phải chịu thuế thu nhập cho khoản tiền gửi vào tài khoản 401 (k) để đến khi về hưu mới rút ra. (Chú thích của người dịch và Ban biên tập tiếng Việt).

[86]. Để biết thêm chi tiết về các quỹ này, hãy xem www.vanguard.com hoặc www.fidelity.com.

[87]. Cả chỉ số Standard & Poor's và Dow Jones đều tính con số trung bình riêng cho các công ty dịch vụ tiện ích công cộng và vận tải (chủ yếu là các công ty đường sắt). Kể từ năm 1965 Thị trường Chứng khoán New York đã tính toán một chỉ số đại diện cho những diễn biến của tất cả những cổ phần thường niêm yết tại đó. {Chú thích của tác giả).

[88]. Nghiên cứu này ở dạng cuối cùng của nó là của Lawrence Fisher và James H. Lorie, 'Tỷ suất sinh lợi của đầu tư vào cổ phiếu thường: dữ liệu của từng năm, 1926-1965", The Journal of Business (Tạp chỉ Kinh doanh), tập XLI, số 3 (tháng 7/1968), trang 291- 316. Để đọc tóm tắt về ảnh hưởng rộng lớn của nghiên cứu này, hãy xem http://libary.dfaus.com/ rep r i nts/work_of_a rt/.

[89]. Do Trung tâm Nghiên cứu giá chứng khoán của Đại học Chicago thực hiện, được quỹ Charles E. Merrill Foundation tài trợ. (Chú thích của tác giả).

[90]. Xem trang 67-69.

|9Î|. 'Tỷ lệ giá/lợi tức" (P/E) của một cổ phiếu, hoặc cua một chỉ số trung bình thị trường như chỉ số 500 cổ phiếu s & p, là một công cụ đơn giản để đo nhiệt độ thị trường. Nếu chẳng hạn một công ty kiếm được 1 đô la lợi nhuận ròng năm vừa qua trên mỗi cổ phiếu, và cổ phiếu của nó được bán với giá 8,93 đô la một cổ phiếu, thì tỷ lệ giá/lợi tức của nó sẽ là 8,93, còn nếu cổ phiếu của nó được bán với giá 69,70 đô la, thì chỉ số giá/lợi tức của nó sẽ là 69,7. Nói chung, chỉ số P/E dưới 10 được coi là thấp (rẻ);giữa 10 và 20 được coi là trung bình, và lớn hơn 20 được coi là cao (đắt). (Để biết thêm về chỉ số P/E, hãy xem trang 191).

f92Ị. "Growth stock": cổ phiếu mà lợi tức/thu nhập tăng nhanh hơn mức chung của toàn ngành hoặc của thị trường. Những công ty như vậy trả ít hoặc không trả cổ tức mà dùng lợi nhuận đề tái đầu tư sản xuất. {Chủ thích của người dịch và Ban biên tập tiếng Việt).

[93]. Điều này được viết lằn đằu tiên vào năm 1971 khi chỉ số DJIA ờ mức 940. Quan điểm ngược lại thường có trên Phố Wall đã được minh họa trong một nghiên cứu chi tiết, đưa ra mức định giá trung vị là 1520 cho chỉ số DJIA vào năm 1975. Điều này sẽ tương ứng với mức giá trị đã giảm là, ví dụ, 1200 vào giữa năm 1971. Vào tháng 3 năm 1972, DJIA một lần nữa lại ờ mức 940 sau một lằn giảm xuống mức 798. {Chú thích của tác giả). Một lằn nữa, Graham đã đúng. "Nghiên cứu chi tiết" mà ông nói tới đã quá lạc quan trước cả một thập kỷ: chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones không đóng cửa với mức trên 1520 cho tới tận ngày 13/12/1985.

[94]. Nếu không tính cổ tức, cổ phiếu giảm 47,8% hai năm đó.

[9^ . Tởi thập kỳ 1840, các chì số nảy được mờ rộng đẽ bao £ồm tối đa lặ 7 cố phiếu tài chịnh vã 27 cố phiếu đường sất - mãc dù vậy van lã một mằu đại diện ngỡ ngấn cùa thị trưởng chửng khoán trè tuổi vả huỹển náo cùa Mỹ.

[96]. Mức giá cổ phiếu rẻ hơn đương nhiên không có nghĩa là sự kỳ vọng mức sinh lợi chứng khoán 7% của các nhà đầu tư sẽ được hiện thực hóa.

[97]. Hãy xem Jeremy Siegel, Stocks for the Long Run (McGraw-Hill, 2002), trang 94, và Robert Arnott và William Bernstein, "Làm loãng hai phần trăm", bài nghiên cứu, tháng 7 năm 2002.

[98]. Cổ phiếu ưu đãi được tác giả xếp vào "cổ phiếu hạng trên", còn "cổ phiếu thường" ở "hạng dưới" (xem chương 11, trang 316 ). {Chú thích của người dịch và Ban biên tập tiếng Việt).

[99]. Xem phần "Kết luận" của Graham ở chương 2, trang 74.

Ịị 00|. Giá không ghi đơn vị tiền có nghĩa là tính theo phân trăm mệnh giá. Xem chú thích của tác giả ở chương 6. {Chú thích của người dịch và Ban biên tập tiếng Việt).

f1011. Tỷ suất lợi tức miễn thuế cao hơn, có đủ độ an toàn, có thể đạt được từ một số Trái phiếu thu nhập công nghiệp (Industrial Revenue Bond) nhất định, một thứ khá mới trong những phát minh tài chính. Chúng sẽ là mối quan tâm đặc biệt đối với nhà đầu tư mạnh bạo. (Chú thích của tác giả).

Í1021. Sự phản đối của Graham đối với các trái phiếu có tỷ suất lợi tức cao ngày nay đã giâm xuống do sự phổ biến của các quỹ đău tư hỗ tương, giúp rãi rộng các rủi ro và nghiên cứu về việc sờ hữu "trái phiếu rác". Xem bình luận về chương 6 đề biết thêm chi tiết.

Í1031. Các trái phiếu "New Housing" và phiếu nợ "New Community" giờ không còn nữa. Các trái phiếu New Housing Authority được bảo hộ bời Bộ Phát triển nhà và đô thị Mỹ (HUD) và được miễn thuẽ thu thập, nhưng chúng không được phát hành từ 1974. Các phiếu nợ New Community, cũng được bảo hộ bời HUD, được ủy quyền nhờ một luật Liên bang được thông qua vào năm 1968. Khoảng 350 triệu đô la tiền các phiếu nợ này được phát hành trong năm 1975, nhưng chương trình đã bị ngừng vào năm 1983.

Í1041. "Phiếu lãi" của một trái phiếu là mức lãi suất của nó; một trái phiếu có "phiếu lãi thẩp" có mức lãi suất thu nhập thấp hơn trung bình thị trường.

|105|. Mặc dù lý lẽ của Graham vẫn có thể áp dụng được, song các con số đã thay đối. Các công ty hiện tại có thể khấu trừ 70% thu nhập họ nhận được từ cổ tức, và mức thuế thu nhập tiêu chuẩn là 35%. Do đó; một công ty sẽ trả khoảng 24,50 đô la tiền thuế trên 100 đô la tiền cổ tức của một chứng khoán ưu đãi, so với 35 đô la tiền thuế trên 100 đô la thu nhập lãi. Các cá nhân trả cùng mức thuế thu thập trên cổ tức và thu nhập lãi, nên các chứng khoán ưu đãi không có lợi thế thuế nào dành cho họ.

f1061. Để biết thêm sự phân biệt giữa sự đầu tư khó khăn về vật chất với khó khăn về trí tuệ và cảm xúc, xem chương 8 và chương "Ba cách đề làm một nhà đầu tư thành công" của Charles D. Ellis, trong Tuyển tập của nhà đầu tư {The Investor's Anthology ) của Charles D. Ellis và James R. Vertin (John Wiley & Sons, 1997) trang 72.

f1071. Một lằn tìm kiếm trên Google gần đây cho cụm từ "age and asset allocation" (tuổi và cách phân bổ tài sản) cho hơn 30.000 kết quả trên mạng.

2. James K. Glassman và Kevin A. Hassett, Dow 36,000.The New strategy for Profiting from the Coming Rise in the stock Market (Dow 36.000. Một chiến lược mới nhằm kiếm lời từ sự tăng giá sắp đến trên thị trường chứng khoán) (Times Business, 1999), trang 250.

f1091 . Để đọc một bài luận tuyệt vời về hiện tượng tâm lý này, hãy đọc bài của Daniel Gilbert và Timothy Wilson, "Mong muốn nhầm", tại www.wjh. ha rva rd .ed u/~ dtg/ Gilbert_&_Wilson(Miswanting).pdf.

[1Ị0] Để cho đơn giản, ví dụ này giả định rằng chứng khoán tăng ngay lập tức.

[1111. Với năm thuế 2003, khung thuế Liên bang thấp nhất là cho những người độc thân kiếm được dưới 28.400 đô la, hoặc một đôi kết hôn (nộp tờ khai thuế chung) có thu nhập ít hơn 47.450 đô la một năm.

|112| Hai máy tính trực tuyến có thể giúp bạn tính lợi tức sau thuế của các trái phiếu đô thị và trái phiếu chịu thuế có tại www.investingbonds.com/cgi-bin/ calculator.pl và www.lebenthal.com/ index_infocenter.html. Để quyết định xem một trái phiếu đô thị có dành cho bạn hay không, hãy tìm "tỷ suất lợi tức tương đương có tính thuế" (“taxable equivalent yield") được tính bởi các máy tính này, sau đó so sánh kết quả với tỷ suất lợi tức hiện có trên các trái phiếu Kho bạc (http://money.cnn.com/markets/ bondcenter hoặc www.bloomberg.com/markets/ C13.html). Nếu tỷ suất lợi tức của các trái phiếu kho bạc cao hơn tỷ suất lợi tức tương đương chịu thuế, thì các trái phiếu đô thị không phải là dành cho bạn. Dù sao, bạn hãy cần thận rằng các trái phiếu và quỹ đô thị có mức lợi tức thấp hơn, dao động giá lớn hơn, so với hầu hết các trái phiếu chịu thuế khác. Hơn nữa, mức thuế tối thiểu thay thế, bây giờ đang đánh vào những người Mỹ thu nhập trung bình, có thể vô hiệu hóa các lợi thế của trái phiếu đồ thị.

[113] . Để có bài giới thiệu xuất sắc về đằutưtrái phiếu, hãy xem http://flagship.vanguard.com/web/ planret/ AdvicePTIBInvestmentsInvestinginBonds.html#Interes Để có một giải thích dễ hiểu hơn nữa về trái phiếu, hãy đọc http://money.cnn.eom/pf/101/lessons/7/. Một danh mục đầu tư "bậc thang", giữ các trái phiếu với các kỳ hạn khác nhau, là một cách khác để bảo hộ khỏi rủi ro do mức lãi suất.

[1141 . Để biết thêm thông tin, hãy xem www.vanguard.com; www.fidelity.com, www.schwab.com, và www.troweprice.com.

[1151 . Để xem một bài tóm tắt trực tiếp có thể đọc được, lên trang www.aaii.com/promo/20021118/ bonds.shtml.

f1161. Viết tắt của collateralized mortgage obligation (phiếu nợ có thế chấp đa dạng hóa kỳ hạn): một loại trái phiếu từ cùng một khoản vay được chia nhỏ thành nhiều lớp kỳ hạn với ưu tiên chi trả khác nhau, nhằm giảm thiểu rủi ro thu hồi trước hạn nhưng lãi suất và tính thanh khoản thấp. (Chú thích của người dịch và Ban biên tập tiếng Việt).

|117| Nói chung, các khoản niên kim không cố định không hấp dẫn đối với các nhà đầu tư dưới 50 tuổi đang trông đợi sẽ ở khung thuế cao trong thời gian nghỉ hưu, hoặc những người chưa đóng góp tối đa cho tài khoản 401 (k) hoặc IRA (tài khoản hưu cá nhân) của mình. Các niên kim cố định (với ngoại lệ đáng kể là các niên kim từ TIAA-CREF) có thể thay đổi các mức "bảo đảm" của mình và vụt bạn bằng các phí từ bỏ. Để có được sự phân tích kỹ lưỡng và khách quan về niên kim, hãy xem hai bài báo xuất sắc của Walter Updegrave: 'Thu nhập suốt đời," Money, số tháng 7/2002, trang 89-96, và "Sách hướng dẫn cho người mua niên kim," Money, tháng 11/2002, trang 104-110.

[1181. Để biết thêm về vai trò của cổ tức trong một danh mục đầu tư, xem chương 19.

|119|. Vào đầu năm 1949, mức sinh lợi trung bình hăng năm của cổ phiếu trong vòng 20 năm trước đó là 3,1% so với 3,9% của các trái phiếu kho bạc dài hạn - tức 10.000 đô la đầu tư vào cổ phiếu sẽ thành 18.415 đô la trong khoảng thời gian đó, trong khi cùng một lượng tiền ấy đầu tư vào trái phiếu sẽ thành 21.494 đô la. Điêu đủ hiển nhiên là năm 1949 đã trở thành thời điểm tuyệt vời để mua cổ phiếu: Trong thập kỷ tiếp sau đó, chỉ số 500 chứng khoán của Standard & Poor's tăng trung bình 20,1% một năm, một trong những tỷ lệ lai suất dài hạn tốt nhất trong lịch sử chứng khoán Mỹ.

[120]. Các nhận xét trước đây của Graham có tại trang 34-35. Hãy thử tưởng tượng xem ông sẽ nghĩ gì về thị trường chứng khoán cuối những năm 1990, khi mà mỗi mức cao kỷ lục mới được coi là "bằng chứng" nữa rằng cổ phiếu là cách làm giàu không rủi ro!

[121]. Chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones lúc đó đóng cửa với mức cao kỷ lục 381,17 vào ngày 3/9/ 1929. Nó đóng cửa chỉ với mức cao hơn thế vào ngày 23/11/1954 - hơn một phần tư thế kỷ sau - khi nó đạt tới 382,74. (Khi bạn nói bạn muốn sở hữu cổ phiếu "cho lâu dài", bạn có nghĩ thời kỳ đó có thể dài tới chừng nào - hay có nhiều nhà đầu tư mua vào năm 1929 không còn sống vào năm 1954?) Tuy nhiên, với những nhà đắu tư kiên trì đã tái đầu tư thu nhập của mình, thì mức sinh lợi cổ phiếu là dương trong thời kỳ đáng lẽ tối tăm này, chẳng qua chỉ vì tỷ suất cổ tức tính trung bình cao hơn 5,6% một năm. Theo các giáo sư Elroy Dimson, Paul Marsh và Mike Stauton của Trường Kinh doanh London, nếu bạn đầu tư 1 đô la vào cổ phiếu Mỹ vào năm 1900 và tiêu hết cổ tức của mình, danh mục đẳu tư của bạn sẽ thành 198 đô la vào năm 2000. Nhưng nếu bạn tái đầu tư cổ tức của mình, danh mục đầu tư của mình sẽ biến thành 16.797 đô la! Hoàn toàn không phải là một suy nghĩ nhìn lại quá khứ, cổ tức là sức mạnh lớn nhất trong việc đầu tư cổ phiếu.

[1221. Tại sao "mức giá cao" của cổ phiếu lại ảnh hưởng tới tỷ suất cổ tức của chúng? Tỷ suất cổ tức của một cổ phiếu là tỷ lệ cổ tức tiền mặt của nó đối với giá của một cổ phần thường. Nếu một công ty trả 2 đô la cổ tức mỗi năm trong khi giá cổ phiếu của nó là 100 đô la thì tỷ suất cổ tức của nó sẽ là 2%. Nhưng nếu giá cổ phiếu tăng gấp đôi trong khi mức cổ tức đứng yên, thì tỷ suất cổ tức sẽ giảm xuống còn 1%. Vào năm 1959, khi mà xu hướng Graham nhận thấy vào 1957 đã đuợc tất cả mọi người biết đến, hầu hết các "học giả" Phố Wall tuyên bố rằng nó sẽ không thể kéo dài. Trước đó chưa bao giờ cổ phiếu lại có tỷ suất cổ tức thấp hơn trái phiếu; vả lại, do cổ phiếu rủi ro hơn trái phiếu, tại sao lại có người mua chúng trừ phi người ta trả thêm lợi nhuận cổ tức để đền bù cho mức rủi ro cao hơn? Các chuyên gia lập luận rằng các trái phiếu sẽ chỉ có tỷ suất lợi tức cao hơn cổ phiếu trong nhiều nhất là vài tháng, và sau đó mọi chuyện sẽ trở lại "bình thường". Hơn bốn thập kỷ sau, mối quan hệ chưa từng trở lại bình thường; tỷ suất cổ tức của chứng khoán (cho tới giờ) vẫn luôn thấp hơn mức tỷ suất lợi tức của trái phiếu.

(123). Xem trang 74 và 106-107.

[1241. Để biết thêm một quan điểm nữa về sự đa dạng, xem phần đóng khung trong bình luận về chương 14 (trang 409).

[125]. Nhà đầu tư thận trọng ngày nay vẫn nên đòi hỏi ít nhất 10 năm thanh toán cổ tức liên tục (điều này sẽ loại khỏi phạm vi xem xét chỉ một thành viên của chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones là Microsoft và vẫn còn ít nhất 317 chứng khoán để chọn trong chỉ số s & p 500). Kể cả đòi hỏi 20 năm thanh toán cổ tức liên tục cũng không phải là giới hạn quá đáng; theo Morgan Stanley, 255 công ty trong chỉ số s & p 500 đạt được tiêu chuần này vào cuối năm 2002.

[1261. "Quy tắc 72" là một dụng cụ trí tuệ hữu ích. Để tính thời gian một lượng tiền cằn để tăng gấp đôi giá trị, chỉ cằn lấy 72 chia cho mức tăng dự kiến của nó. Với 6%m chẳng hạn, tiền sẽ tăng gấp đôi trong 12 năm (72/6 = 12). Với mức 7m'\ mà Graham đưa ra, một chứng khoán tăng sẽ tăng gấp đôi giá trị của nó chỉ trong 10 năm (72/7,1 = 10,1 năm).

[127]. Graham nói tới điểm này trên trang 90.

f1281 . Để chỉ ra rằng các nhận định của Graham vẫn luôn luôn đúng, chúng tôi có thể thay IBM bằng Microsoft và Texas Instruments bằng Cisco. Cách nhau 30 năm, mà các kết quả giống nhau đến kỳ lạ: cổ phiếu của Microsoft giảm 55,7% từ năm 2000 đến 2002, trong khi cổ phiếu của Cisco - đã tăng khoảng 50 lằn trong sáu năm trước đó - mất 76% giá trị của nó từ năm 2000 đến 2002. Cũng như với Texas Instruments, mức giảm giá của Cisco lớn hơn mức giảm lợi tức của nó; lợi tức của nó chỉ giảm có 39,2% (khi so sánh mức trung bình ba năm cho các năm 1997-1999 với mức của các năm 2000-2002). vẫn vậy, chúng càng tăng nóng thì ngã càng đau.

|129|. Hệ số lợi tức (earnings multiplier) là từ đồng nghía chỉ tỷ lệ giá/lợi tức (P/E), nó đo xem nhà đầu tư sẵn sàng trả giá bao nhiêu cho một chứng khoán so với khả năng sinh lời của ngành kinh doanh cơ sở của chứng khoán đó. (Xem chú thích 2 ở trang 86 của chương 3.) [1301. Các nhà đầu tư ngày nay có thể tự tạo ra hệ thống tự động để quản lý chất lượng các cổ phiếu của mình bằng cách dùng các "hệ theo dõi danh mục đầu tu" tương tác tại những trang web như www.quicken.com,moneycentral.msn.com, finance.yahoo.com, và www.morningstar.com. Tuy nhiên, Graham chắc sẽ cảnh báo bạn không nên dựa dẫm quá nhiều vào một hệ thống như vậy; mà bạn phải sử dụng lý lẽ của bản thân để bù đắp cho phần mềm.

[131]. Practical Formulas for Successful Investing (Các công thức thực dụng cho đầu tư thành công),W\\ừeó Funk, Inc., 1953. (Chủ thich cùa tác giả).

[132]. Để cập nhật số liệu của Graham, hãy lấy mỗi lượng tiền đô la trong phần này và nhân nó lên năm lần.

[1331. Trong những phương pháp toán học để đưa ra quyết định đầu tư hiện nay, định nghĩa "rủi ro" theo sự thay đổi giá trung bình, tức "tính dễ biến động", đã trở thành một thông lệ chuẩn. Hãy đọc, chẳng hạn, An Introduction to Risk and Return (Giới thiệu về rủi ro và lợi nhuận), của Richard A. Brealey, The M.I.T. Press, 1969. Chúng tôi cho rằng cách dùng từ "rủi ro" như vậy có hại hơn là có lợi cho quyết định đầu tư sáng suốt—vì nhấn mạnh quá nhiều vào sự dao động củ3 thị trường. (Chú thich cùa tác giả).

f1341. Tất cả 30 công ty trong chỉ số DJIA đều đạt được tiêu chuẩn này vào năm 1971. (Chú thich củ. tác giả).

Í1351 . Trong thị trường ngày nay, để được coi là lớn, một công ty phải có tổng giá trị chứng khoán (hoặc "vốn thị trường") ít nhất là 10 tỉ đô la. Theo bảng thống kê chứng khoán trực tuyến tại http://screen.yahoo.com/stocks.html, điều này có nghĩa là bạn có khoảng 300 chứng khoán để chọn, vào đầu năm 2003.

|136|. Tức 8 giờ tối. (Chú thích của người dịch và Ban biên tập tiếng Việt).

[1371. Peter Lynch và John Rothchild, trong cuốn One Up on Wall Street (Một kẻ lên ở Phố Wall) (Penguin, 1989), trang 23.

[1381 . Phỏng vấn Kevin Landis trên chương trình Trong đống tiền (In the Money) của CNN vào ngày 5/ 11/1999, 11 sáng, giờ chuần mièn Đông Hoa Kỳ (EST). Nếu các số liệu của Landis có thể hiện được điều gì, thì "những điều bạn biết" không phải là "tất cả những gì bạn thật sự cần" để chọn chứng khoán một cách thành công. Từ cuối năm 1999 đến cuối năm 2002, quỹ của Landis (toàn những công ty công nghệ mà ông nhận là quen biết "trực tiếp" từ trụ sở của mình tại Silicon Valley) đã mất 73,2% giá trị, một cú đấm còn mạnh hơn cả quỹ công nghệ trung bình phải chịu trong thời kỳ đó.

ri391 . Theo Sarah Lichtenstein và Baruch Fischhoff, "Liệu những người biết nhiều hơn có biết nhiều hơn về việc họ biết được nhiều đến đâu?", Hành vi của tô chức và khả năng của con người (Organizational Behavior and Human Performance) , tập 20, số 2g tháng 12/1977, trang 159-183.

f1401. Xem Gur Huberman, "Sự quen biết nuôi dưỡng đầu tu"; Joshua D. Coval và Tobias J. Moskowitz, "Địa lý học đầu tu"; và Gur Huberman và Paul Sengmuller, "Chứng khoán công ty trong các chương trình 401 (k)," tất cả đèu có tại http://papers.ssrn.com.

[141]. Theo giáo sư tài chính Charles Jones của Trường Thương mại Columbia, giá của một giao dịch nhỏ, một chiều (mua hoặc bán) với một chứng khoán niêm yết trên sở Giao dịch Chứng khoán New York đã giảm từ 1,25% vào thời của Graham xuống còn 0,25% vào năm 2000. Với những tổ chức như quỹ hỗ tương đầu tư, các mức giá này thật ra cao hơn. (Hãy đọc Charles M. Jones, "Một thế kỷ của tính thanh khoản và chi phí giao dịch trên thị trường chứng khoán", tại http://papers.ssrn.com.) [142]. Để giúp quyết định xem các chứng khoán mà bạn sở hữu có đủ đa dạng trên nhiều khu vực công nghiệp khác nhau, bạn có thể sử dụng chức năng 'Instant X-Ray" (Chụp X-quang tức khắc) miễn phí có tại www. mo mi ngstar.com hoặc đọc phần thông tin khu vực (Tiêu chuẩn phân loại ngành công nghiệp toàn cằu) tại www.standardandpoors.com.

[1431. Discount broker: Cá nhân hoặc tổ chức mua bán chứng khoán cho khách hàng với chi phí thấp và không có nhiệm vụ tư vấn cho khách hàng. (Chú thích CÙ3 người dịch và Ban biên tập tiếng Việt).

[144]. Rip Van Winkle là nhân vật chính trong truyện của Washington Irving, chìm vào giấc ngủ 20 năm và thấy mọi sự thay đổi nhiều khi tỉnh dậy. (Chú thich của ngưởi dịch vã Ban bién tập tiếng Việt).

[1451. Để biết thêm về cách phân tích để giữ một phần danh mục đắu tư của bạn là chứng khoán ngoại, hãy xem trang 211-213.

[146]. Nguồn: số liệu thống kê do Ibbotson Associates cung cấp. Mặc dù các nhà đầu tư riêng lẻ không được mua toàn bộ s & p 500 cho đến tận năm 1976, ví dụ này vẫn chứng tỏ sức mạnh của việc mua nhiều thêm khi giá chứng khoán đi xuống.

[147]. ở đây Graham đã lỡ miệng. Sau khi nhấn mạnh trong chương 1 rằng khái niệm về một nhà đầu tư "mạnh bạo" không phụ thuộc vào lượng rủi ro mà bạn tìm kiếm, mà vào lượng cồng sức mà bạn sẵn sàng bỏ ra, Graham lại rơi vào cách nghĩ thông thường rằng các nhà đàu tư mạnh bạo thì phải "xông xáo" hơn. Tuy nhiên, phần còn lại của chuơng chỉ rõ rằng Graham vần giữ khái niệm gốc của mình. (Nhà kinh tế vĩ đại người Anh John Maynard có vẻ là người đầu tiên dùng từ "mạnh bạo" (enterprise) như một từ đồng nghĩa với sự đầu tư phân tích.) |l48ị. Các "phát hành có phiếu lai cao" là các trái phieu công ty có lãi suất cao hơn trung bình (trên thị trường ngày nay thì ít nhất là 8%) hoặc các cổ phiếu ưu đãi có tỷ suất cổ tức cao (10% hoặc hơn). Nếu một công ty phải trả cả mức lãi suất để vay tiền, đó là một tín hiệu cơ bản thế hiện rằng nó rất rủi ro. Để biết thêm về các trái phiếu tỷ suất cao hoặc trái phiếu ĩ£rácl!, xem trang 168-170.


Каталог: file -> downloadfile6 -> 161
downloadfile6 -> Họ và tên sinh viên: Trần Thị Mỹ Hằng Mã sinh viên: 0851015561
downloadfile6 -> Thế giới an ninh- thiết lập hệ thống camera quan sát với card ghi hình Hệ thống Demo bao gồm
downloadfile6 -> 1 Giới thiệu adc 0809
161 -> BÀi giảng quản trị ngân hàng 2
downloadfile6 -> HUỲnh duy khánh các công thức tính thể TÍCH
downloadfile6 -> Dạng 1: Tính các đại lượng cơ bản (công thoát A, v0max, P, ibh, Uh, H…)
downloadfile6 -> Ách đỌc tên latinh đỗ Xuân Cẩm Giảng viên Đh huế
downloadfile6 -> I. TỔng quan về vqg tràm chim vị trí địa lý
161 -> ĐẠi họC ĐÀ NẴng trưỜng đẠi học kinh tế khoa tài chính ngân hàng  bt nhóm môn thanh toán quốc tế

tải về 3.49 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   30   31   32   33   34   35   36   37   ...   42




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương