NHÀ ĐẦu tư thông minh "Cuốn sách hay nhất về đầu tư từng được viết cho đến nay"



tải về 3.49 Mb.
trang30/42
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích3.49 Mb.
#3721
1   ...   26   27   28   29   30   31   32   33   ...   42

Giờ nhóm này chắc sẽ trở nên hơi phổng mũi về điều này, bản chất con người là vậy. Họ sẽ cố khiêm tốn, nhưng ở các buổi tiệc cốc-tai thỉnh thoảng họ sẽ hé lộ cho những người khác giới hấp dẫn kỹ thuật của mình là gì, và những hiểu biết sâu sắc nào mà họ đem đến cho lĩnh vực tung xu.

Giả sử rằng những người thắng cuộc nhận được phần thưởng xứng đáng từ những người thua, và trong mười ngày nữa chúng ta sẽ có 215 người đã gọi đúng 20 lần tung xu liên tiếp và những người, bằng trò thi thố này, biến một đô la thành một khoảng hơn 1 triệu đô la một chút. Sẽ có 225 triệu đô la bị thua và cũng sẽ có 225 triệu đô la được thắng.

Tới lúc ấy, nhóm này sẽ thật sự mất hết sự ung dung điềm tĩnh. Họ chắc sẽ viết những cuốn sách về "Cách mà tôi đã biến một đô la thành một triệu trong hai mươi ngày làm việc với ba mươi giây mỗi sáng." Tệ hơn nữa, họ chắc sẽ bắt đầu bay khắp đất nước để tham dự những buổi hội thảo về cách tung xu hiệu quả và bắt đắu tấn công các giáo sư hoài nghi với câu hỏi: "Nếu đó là việc không thể thực hiện được, thì tại sao chúng tôi có tới 215 người?”

Nhưng rồi một giáo sư trường kinh doanh nào đó chắc sẽ đủ khiếm nhã để nói ra thực tế là nếu có 225 triệu con đười ươi tham gia vào một trò tương tự như vậy thì kết quả cũng gần như nhau - 215 con đười ươi tự cao tự đại với 20 lằn tung thắng liên tiếp.

Tuy nhiên, tôi sẽ cãi rằng có một số sự khác biệt quan trọng trong những ví dụ mà tôi sắp trình bày. Trước hết là, nếu (a) bạn lấy 225 con đười ươi được phân bố đại loại đều như dân số Mỹ; nếu (b) còn 215 con thắng còn lại sau 20 ngày; và nếu (c) bạn thấy rằng 40 con đến từ một vườn thú cụ thể nào đó ở Omaha, thì bạn sẽ chắc là mình sắp phát hiện ra điều gì đó. Vậy là chắc bạn sẽ đi hỏi người trông nom vườn thú xem anh ta cho chúng ăn gì, xem chúng có những bài tập đặc biệt gì không, chúng đọc những cuốn sách gì, và còn những chuyện khác có trời mới biết. Tức là; nếu bạn tìm thấy sự tập trung khác thường của sự thành công, bạn có lẽ sẽ muốn biết xem mình có thể nhận định sự tập trung của các đặc điểm bất thường có thể là những yếu tố nguyên nhân.

Sự điều tra khoa học thường đi theo khuôn mẫu như vậy. Nếu bạn đang cố gắng phân tích những nguyên nhân có thể của một loại ung thư hiếm - với chẳng hạn 1.500 ca một năm ờ Mỹ - và bạn phát hiện thấy rằng 400 ca đã xảy ra ở một thị trấn nhỏ khai thác mỏ ở bang Montana, thì bạn sẽ trở nên rất quan tâm tới nguồn nước ở đó; hay nghè nghiệp của những người bị bệnh, hay các biến số khác. Bạn biết rằng không phải ngẫu nhiên mà có tới 400 người tập trung trong một khu vực nhỏ. Bạn không nhất thiết phải biết các yếu tố nguyên nhân, nhưng bạn sẽ biết cằn tìm chúng ở đâu.

Tôi đồng ý với bạn rằng có những cách khác để xác định một căn nguyên ngoài địa lý. Ngoài căn nguyên địa lý ra, còn có một thứ mà tôi gọi là căn nguyên trí tuệ. Tôi nghĩ bạn sẽ thấy là một con số không cân đối những người tung xu thành công trong thế giới đầu tư đến từ một ngôi làng trí tuệ rất nhỏ có thể được gọi là Graham-và-Doddsville. Sự tập trung những người thắng không thể giải thích đơn giản bằng sự ngẫu nhiên này có thể được lằn tìm về tới ngôi làng trí tuệ đó.

Có thể tồn tại những điều kiện khiến cả sự tập trung như vậy cũng trở nên không quan trọng. Biết đâu 100 người chỉ đơn giản là đang bắt chước dự đoán của một nhân vật vô cùng thuyết phục nào đó. Khi anh ta bảo mặt ngửa, 100 người làm theo đã tự động nói theo như vậy. Nếu người dẫn đầu đó là một trong 215 người còn lại cuối cùng thì việc 100 người đến từ cùng một nguồn gốc trí tuệ chẳng nói lên điều gì. Đơn giản là ta sẽ chỉ đang nhận dạng một trường hợp như cả trăm trường hợp khác mà thôi. Tương tự như vậy, giả sử rằng bạn sống trong một xã hội gia trưởng mạnh và tất cả các gia đình ở Mỹ đều, nói cho thuận tiện, có mười thành viên. Hãy giả sử thêm nữa rằng văn hóa gia trưởng mạnh đến nỗi khi 225 triệu người dân vào cuộc vào ngày đằu tiên đó; mỗi thành viên trong gia đình đêu nói theo lời dự đoán của ông bố. Giờ đây, vào cuối thời kỳ 20 ngày, bạn sẽ có 215 người thắng cuộc, và bạn sẽ thấy rằng họ chỉ đến từ 21,5 gia đình. Một số người ngây thơ sẽ cho rằng điều này chỉ ra một yếu tố di truyền vĩ đại để giải thích việc tung xu thành công. Nhưng tất nhiên, điều đó sẽ chẳng có ý nghĩa gì cả vì đơn giản nó chỉ có nghĩa là bạn không có 215 cá nhân thắng cuộc, mà là có 21,5 gia đình được phân bố ngẫu nhiên đã thắng cuộc.

Trong nhóm những nhà đầu tư thành công mà tôi muốn xem xét, có một vị "gia trưởng" trí tuệ chung là Ben Graham. Nhưng những người con đã đi từ ngôi nhà của vị "gia trưởng" trí tuệ này đã dự đoán các lần "tung xu" của mình rất khác nhau. Họ đã đến những nơi khác nhau, bán và mua những chứng khoán và công ty khác nhau, nhưng họ lại có một bản ghi kết quả tổng hợp không thể giải thích đơn giản chỉ bằng sự cơ hội ngầu nhiên. Nó chắc chắn không thể được giải thích bằng nguyên nhân là họ đang dự đoán các lằn tung xu giống hệt nhau vì có một thủ lĩnh ra hiệu cho họ dự đoán. Thủ lĩnh chỉ đặt ra lý thuyết trí tuệ cho việc đưa ra những quyết định dự đoán sấp ngửa, còn mỗi học trò đã tự quyết định cách thức áp dụng lý thuyết riêng cho mình.

Chủ đè trí tuệ chung của những nhà đầu tư đến từ Graham-và-Doddsville là: họ tìm kiếm sự khác biệt giữa giá trị của một doanh nghiệp và giá của những mảnh nhỏ của doanh nghiệp đó trên thị trường. Điều cốt lõi là họ khai thác những sự khác nhau này mà không có sự quan tâm của nhà lý luận thị trường hữu hiệu xem chứng khoán này được mua vào thứ Hai hay thứ Năm, tháng 1 hay tháng 7, v.v. Nhân tiện, khi những nhà kinh doanh mua các doanh nghiệp - chính là những gì các nhà đắu tư của Graham & Dodd đang làm thông qua phương tiện là các chứng khoán có thể mua bán trên thị trường - tôi không nghĩ rằng nhiều người sẽ nhồi vào quyết định mua của mình ngày tháng mà giao dịch sẽ diễn ra. Nếu việc một doanh nghiệp được mua vào thứ Hai hay thứ Sáu chẳng có gì khác nhau, tôi thấy khó mà hiểu tại sao các nhà học thuật lại đắu tư quá nhiều thời gian và cồng sức để xem nó có gì khác không khi mua những mảnh nhỏ của cùng những doanh nghiệp ấy. Các nhà đầu tư của Graham & Dodd, không cằn nói cũng biết, không bàn đến hệ số beta, mô hình định giá vốn đầu tư, hay hiệp phương sai trong mức sinh lời của các chứng khoán. Đó không phải những chủ đề mà họ quan tâm. Thật vậy, hầu hết mọi người trong số họ sẽ gặp khó khăn khi phải định nghĩa những khái niệm đó. Các nhà đầu tư chỉ đơn giản tập trung vào hai biến số: giá và giá trị.

Tôi luôn thấy rất lạ là có biết bao nhiêu các nghiên cứu được hình thành từ động thái của giá và số lượng, những thứ mà các nhà phân tích biểu đồ quan tâm. Bạn có thể tưởng tượng được việc mua cả một doanh nghiệp chỉ vì giá của doanh nghiệp đó đã lên đáng kể trong tuần trước và tuần trước nữa? Tất nhiên, lý do mà nhiều nghiên cứu được tạo thành từ những biến số giá và số lượng là vì ngày nay, trong thời đại máy tính, có một nguồn dữ liệu gằn như vô tận về chúng. Không hẳn là vì những nghiên cứu này hữu dụng; đơn giản là vì dữ liệu có ở đó và các nhà học thuật đã chăm chỉ làm việc để học các kỹ thuật toán học cần để xử lý chúng. Một khi học được những kỹ thuật này, sẽ là tội lỗi nếu không sử dụng chúng, kể cả khi việc sử dụng không có ích lợi hay tác hại gì. Như một người bạn đã nói, với một người có cây búa, thì tất cả mọi thứ đèu trông giống cái đinh.

Tôi nghĩ nhóm người mà chúng ta đã nhận biết qua một ngôi nhà trí tuệ chung rất đáng để nghiên cứu. Ấy vậy mà, mặc cho tất cả những nghiên cứu học thuật về tác động của những biến số như giá, số lượng, tính thời vụ, quy mô vốn hóa, v.v, đối với kết quả hoạt động chứng khoán, không có sự quan tâm nào được thể hiện rõ ràng đối với việc nghiên cứu những phương pháp của nhóm tập trung khác thường những người thắng cuộc theo định hướng giá trị này.

Tôi bắt đâu nghiên cứu các kết quả này bằng cách quay trở lại với nhóm bốn người của chúng tôi, những người đã từng làm việc ờ công ty Graham-Nevvman từ năm 1954 đến hết năm 1956. Chỉ có bốn người - tôi không chọn những tên này từ hàng nghìn tên khác. Tôi đã yêu cằu được làm việc không lương ở công ty Graham-Nevvman sau khi tôi học lớp của Ben Graham, nhưng ông lại từ chối tôi với lý do là tôi được định giá quá cao. ông ấy coi cái giá trị này nghiêm túc quá đi thôi! Sau nhiều lằn nài nỉ, cuối cùng ông đã thuê tôi. Có ba thành viên hợp danh (partner) và cả bốn chúng tôi đều ờ mức "quê mùa", cả bốn người đã rời khỏi công ty trong khoảng từ năm 1955 đến năm 1957 khi công ty chấm dứt hoạt động, và có thể lằn theo bản ghi kết quả của ba người.

Ví dụ đâu tiên (xem bảng 1, trang 609-610) là Walter Schloss. Walter chưa từng học đại học, nhưng đã học một khóa của Ben Graham vào buổi tối ờ Học viện Tài chính New York. Walter đã rời khỏi Graham-Newman vào năm 1955 và đã đạt được một bản ghi kết quả được đưa ra ờ đây sau 28 năm.

BẢNG 1: Walter J. Schloss



BẢNG 1: Walter J. Schloss (tiếp)



Đây là những gì mà "Adam Smith"[546] - sau khi tôi kể cho anh ta về Walter - đã viết về Walter trong cuốn Siêu tiền tệ (1972):

Anh ta không có kết nối hay tiếp cận nào tới các thông tin có ích. hầu như không ai trên Phố Wall biết anh ta và anh ta không được cung cấp ý tưỏng gì. Anh ta nhìn vào những con số trong các cuốn hướng dẫn và gửi thư xin các báo cáo hằng năm, và có lẽ chỉ thế mà thôi.

Khi giới thiệu tôi với [Schloss], Warren cũng đã, như tôi nghĩ, miêu tả anh ta. "Anh ta không bao giờ quên rằng mình đang xử lý tiền của người khác và điều này củng cố ác cảm thông thường của anh ta đối với sự thua lỗ." Anh ta hoàn toàn chính trực và có cách nhìn thực tế về mình. Tiền đối với anh ta là thực và chứng khoán cũng là thực - từ đó tạo ra sự cuốn hút đối với nguyên tắc "số dư an toàn".

Walter đã đa dạng hóa rất nhiều và hiện đang sở hữu hơn 100 đắu chứng khoán. Anh ta biết nhận dạng những chứng khoán bán ở mức thấp hơn nhiều so với giá trị của chúng cho người sở hữu tư. Và anh ta chỉ làm có vậy thôi. Anh ta không lo rằng hiện giờ có phải là tháng 1 hay không, anh ta không lo rằng hôm nay có phải thứ Hai hay không, anh ta không lo rằng năm nay có phải năm bằu cử không. Anh ta chỉ nói đơn giản là, nếu một công ty trị giá một đô la và tôi có thể mua nó với giá 40 xu thì có thể sẽ có điều tốt đẹp xảy đến với tôi. Và anh ta cứ làm như vậy, hết lần này qua lằn khác. Anh ta sở hữu nhiều chứng khoán hơn tôi nhiều - và anh quan tâm tới bản chất nen tảng của doanh nghiệp ít hơn tôi nhiều: tôi không có mấy ảnh hưởng tới Walter. Đó là một trong những điểm mạnh của Walter; chẳng ai có mấy ảnh hưởng đối với anh ta.

Trường hợp thứ hai là Tom Knapp, người cũng đã làm việc ở công ty Graham-Newman cùng với tôi. Tom đã học chuyên ngành hóa học ở Đại học Princeton trước khi tham gia chiến tranh; khi trở về sau chiến tranh, anh ta thành một kẻ lang thang bãi biển. Rồi một ngày anh ta đọc được rằng Dave Dodd dạy một khóa buổi tối về đầu tư ở Đại học Columbia. Tom học khóa này theo hình thức không lấy tín chỉ, và anh ta trở nên quan tâm tới mồn này đến nỗi anh ta đi đăng ký vào Trường kinh doanh của Đại học Columbia, và anh ta đã có bằng thạc sĩ quản trị kinh doanh (MBA). Ngẫu nhiên thay, 35 năm sau, tôi đã đi tìm Tom để kiểm chứng một số thông tin được ghi ờ đây và tôi lại thấy anh ta ở bãi biển. Điểm khác biệt duy nhất là giờ anh ta sở hữu cái bãi biển đó!

Vào năm 1968, Tom Knapp và Ed Anderson, cũng là học trò của Graham, cùng với một hoặc hai người có cùng chí hướng đã thành lập công ty Tweedy, Browne Partners và các kết quả đầu tư của họ được nêu trong bảng 2. Công ty Tweedy, Brown đã tạo dựng được một kết quả như vậy với sự đa dạng hóa rất rộng. Thỉnh thoảng họ mua quyền sở hữu kiểm soát các doanh nghiệp, nhưng kết quả của các đầu tư thụ động thì cũng ngang với kết quả của các đầu tư kiểm soát. BẢNG 2: Tweedy, Browne Inc.

* Bao gồm cả cổ tức được chi trả cho cả chỉ số tổng hợp Standard & Poor's 500 và chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones.

Bảng 3 mồ tả thành viên thứ ba trong nhóm, người đã lập nên công ty hợp danh Buffett Partnership vào năm 1957. Điều tốt nhất mà anh ta đã làm là rời khỏi đó năm 1969. Kể từ đó; theo một nghĩa, Berkshire Hathaway đã là sự tiếp tục của công ty hợp danh đó xét theo vài khía cạnh. Không có một chỉ số nào tôi có thể đưa ra cho bạn mà tôi cảm thấy là có thể đánh giá chính xác về việc quản lý đầu tư ở Berkshire. Nhưng tôi nghĩ là dù bạn xem xét nó thế nào, nó cũng là khá thành công.

BẢNG 3: Buffett Partnership, Ltd.



Bảng 4 cho thấy bản ghi kết quả của quỹ Sequoia Fund, được quản lý bởi một người mà tôi đã gặp vào năm 1951 ở lớp học của Ben Graham là Bill Ruane. Sau khi học ờ Trường kinh doanh của Đại học Harvard, anh ta đã đến Phố Wall. Rồi anh ta nhận ra rằng mình cần phải được đào tạo kinh doanh thực sự nên anh ta đã đến học khóa của Ben ở Đại học Columbia, nơi chúng tôi đã gặp nhau vào năm 1951. Bản ghi kết quả của Bill từ năm 1951 đến 1970 khi làm việc với những lượng tiền tương đối nhỏ là tốt hơn nhiều so với trung bình. Khi tôi chấm dứt Buffet Partnership, tôi đã đê nghị Bill xem liệu anh ta có thể lập ra một quỹ để "ôm" tất cả các thành viên hợp danh chúng tôi, do đó anh ta đã lập ra Sequoia Fund. Anh ta lập ra nó vào một thời điểm rất tệ, ngay khi tôi thôi việc. Anh ta đi thẳng vào thị trường hai giá và vào tất cả những khó khăn được tạo ra đối với kết quả hoạt động tương đối của các nhà đầu tư theo định hướng giá trị. Tôi rất vui lòng mà nói rằng những thành viên hợp danh của tôi, với mức độ đáng ngạc nhiên, không chỉ ờ lại với anh ta mà còn thêm tiền vào, và các kết quả tốt đẹp đã đuợc thể hiện.

BẢNG 4: Sequoia Fund, Inc.

* Bao gồm cả cổ tức (và phân bổ lãi vốn trong trường hợp của Sequoia Fund) được xét như thể là đã được tái đắu tư.

** Các con số này là hơi khác một chút so với các con số của s & p trong bảng 1 bởi sự khác nhau trong việc tính toán cổ tức được tái đầu tư.

Không có cái nhìn vuốt đuôi vào quá khứ nào ở đây cả. Bill là người duy nhất mà tôi gợi ý cho các thành viên hợp danh của mình, và tôi nói tại thời điểm đó nếu anh ta đạt được mức lợi thế bốn điểm một năm so với chỉ số Standard & Poor's, thì đó sẽ là kết quả đáng nể. Bill đã đạt được nhiều hơn thế, làm việc với số tiền ngày càng lớn. Điều này khiến mọi việc khó khãn hơn. Quy mô là cái neo của hiệu quả hoạt động. Không có gì nghi ngờ về điều này. Điều này không có nghĩa là bạn không thể hoạt động tốt hơn trung bình nếu bạn trở nên lớn hơn, nhưng có nghĩa là số dư giảm xuống. Và nếu có bao giờ bạn đạt đến mức quản lý hai nghìn tỉ đô la, và đó lại chính là tổng giá trị vốn cổ đông của cả một nên kinh tế, thì bạn đừng nghĩ rằng mình có thể hoạt động khá hơn trung bình!



Tôi cằn phải nói thêm rằng với những số liệu mà chúng ta đã xem, trong cả khoảng thời gian đó hầu như không có sự trùng lặp nào trong các danh mục đầu tư này. Đây là những người chọn chứng khoán dựa trên sự chênh lệch giữa giá và giá trị, nhưng họ lựa chọn rất khác nhau. Các cổ phần lớn nhất của Walter là những công ty be thế như Hudson Pulp & Paper, Jeddo Highland Coal và New York Trap Rock Company, và tất cả những cái tên khác tự dưng đến trong đầu những người đọc ngẫu nhiên những trang báo kinh doanh. Các lựa chọn của Tweedy Browne có độ nổi tiếng thấp hơn mức đó nhiều. Mặc khác, Bill lại làm việc với những công ty lớn. Sự trùng lặp giữa các danh mục đầu tư này là rất, rất thấp. Những số liệu kết quả này không phản ánh hiện tượng một người xướng dự đoán sấp ngửa và năm mươi người khác nhất loạt hô theo anh ta.

Bảng 5 là bản ghi kết quả của một người bạn của tôi, một người tốt nghiệp từ Trường Luật Harvard và đã thành lập một công ty luật lớn. Tôi tình cờ gặp anh ta vào khoảng năm 1960 và bảo anh ta là làm luật như một thú tiêu khiển thì được, nhưng anh ta còn có thể làm khá hơn thế. Anh ta đã lập nên một công ty hợp danh khác hoàn toàn so với của Walter. Danh mục đầu tư của anh ta tập trung vào rất ít đằu chứng khoán, do đó số liệu kết quả của anh dễ biến động hơn nhiều nhưng nó cũng dựa trên cùng một phương pháp chiết khấu giá trị như vậy. Anh ta sẵn sàng chấp nhận những đỉnh cao hơn và thung lũng thấp hơn trong kết quả hoạt động, và anh ta là một người mà toàn bộ tinh thần dồn vào sự tập trung, với những kết quả đã được thể hiện ra. Nhân thể, số liệu này thuộc về Charlie Munger, thành viên hợp danh của tôi khá lâu cùng hoạt động trong Berkshire Hathaway. Tuy nhiên, khi anh ta điều hành công ty hợp danh của mình, danh mục đẳu tư của anh ta khác hẳn của tôi và của những người khác được nêu trên đây.

BẢNG 5: CHARLES MUNGER

Bảng 6 là bản ghi kết quả của một người là bạn của Charlie Munger - cũng là một người không học trường kinh doanh - anh ta tốt nghiệp chuyên ngành toán ở Đại học Nam California (USC). Anh ta đến làm việc ở hãng IBM sau khi tốt nghiệp và làm người bán hàng cho IBM trong một thời gian. Sau khi tôi đến gặp Charlie, Charlie đã đến gặp anh ta. Đây là kết quả của Rick Guerin. Từ năm 1965 đến 1983, so với lợi nhuận tổng hợp của s & p là 316 phần trăm, Rick đã có 22.200 phần trăm, một con số mà, chắc là vì anh không được đào tạo kinh doanh, anh ta coi là quan trọng về mặt thống kê.

BẢNG 6: Pacific Partners, Ltd.

Một thông tin bổ sung: tôi thấy rất lạ thường là ý tưởng mua những tờ đô la với chỉ 40 xu sẽ hấp dẫn người ta ngay lập tức hoặc là hoàn toàn không hấp dẫn một chút nào. Nó giống như là việc tiêm chủng vậy. Nếu nó không lôi cuốn một người ngay lập tức thì tôi thấy rằng bạn có thể thuyết phục anh ta hàng năm trời và chỉ cho anh ta thấy nhiều số liệu, nhưng vẫn chẳng được tích sự gì. Họ không thể nắm bắt được khái niệm đó, dù nó đơn giản đến vậy. Một người như Rick Guerin, không được đào tạo bài bản về kinh doanh, lại hiểu ngay phương pháp đầu tư theo giá trị và anh ta áp dụng nó sau đấy năm phút. Tôi chưa từng thấy ai lại chuyển đổi dằn dằn sang phương pháp này trong quãng mười năm cả. Hình như nó không phải là vấn đề chỉ số IQ hay đào tạo học thuật. Nó là sự nhận dạng ngay tức thì, hoặc không chấp nhận gì hết.

Bảng 7 là bản ghi kết quả của Stan Perimeter. Stan tốt nghiệp ngành đào tạo toàn diện[547] ở Đại học Michigan, và là một thành viên hợp danh trong công ty quảng cáo Bozell & Jacobs. Chúng tôi tình cờ lại ở cùng một tòa nhà ở Omaha. Vào năm 1965, anh ta nhận thấy rằng tôi có một doanh nghiệp tốt hơn anh ta, nên anh ta đã bỏ nghề quảng cáo. Một lằn nữa, chỉ mất năm phút để Stan đến với phương pháp giá trị.

BẢNG 7'. Perimeter Investments



Perimeter không sở hữu những gì Walter Schloss sở hữu. Anh ta không sở hữu những gì Bill Ruane sở hữu. Đây là những bản ghi kết quả được tạo lập một cách độc lập. Nhưng mỗi lằn Perimeter mua chứng khoán thì đó là vì anh ta đang nhận được giá trị cao hơn cho số tiền mà anh ta trả. Đó là điều duy nhất anh ta nghĩ tới. Anh không nhìn vào các mức dự đoán lợi tức hằng quý, anh ta không nhìn lợi tức của năm sau, anh ta không nghĩ xem hôm nay là ngày nào của tuần, anh ta không quan tâm về đến nghiên cứu đầu tư từ bất cứ chỗ nào nói gì, anh ta không quan tâm về xung lượng giá cả, số lượng, hay bất cứ điều gì khác.

Anh ta đơn giản chỉ hỏi: doanh nghiệp này có giá trị thế nào?

Bảng 8 và bảng 9 là bản ghi kết quả của hai quỹ hưu trí mà tôi từng làm việc. Chúng không được chọn từ hàng chục quỹ hưu trí mà tôi từng làm việc; chúng là hai quỹ duy nhất mà tôi đã gây ảnh hưởng. Trong cả hai trường hợp, tôi đã hướng họ đến những nhà quản lý có định hướng giá trị. Rất, rất ít quỹ hưu trí được quản lý theo quan điểm giá trị. Bảng 8 là Quỹ hưu trí của công ty Washington Post Company. Nó đã từng là một ngân hàng lớn một vài năm trước, và tôi đã khuyên rằng họ sẽ có lợi khi chọn những nhà quản lý có định hướng giá trị.

BẢNG 8: Master Fund của The Washington Post Company, ngày 31/12/1983

* Đã quy về một năm Xếp hạng chỉ kết quả hoạt động của quỹ so với chỉ số vạn năng của A. C. Becker.

xếp hạng được nêu là: 1 = kết quả hoạt động tốt nhất, 100 = tồi nhất.

Như bạn có thể thấy, trên tổng thể họ đã nằm trong các nhóm phần trăm đầu kể từ khi họ đưa ra sự thay đổi. Công ty Post đã bảo những người quản lý giữ ít nhất 25% dưới dạng trái phiếu, điều có lẽ sẽ không nhất thiết là lựa chọn của các nhà quản lý này. Vậy nên tôi đã thêm kết quả hoạt động trái phiếu chỉ đơn giản để minh họa rằng nhóm này không có chuyên môn đặc biệt gì về trái phiếu. Họ chắc cũng sẽ không nói rằng họ có. Kể cả việc kéo 25 phần trăm quỹ của mình vào một lĩnh vực không phải chuyên môn của họ, họ vần nằm trong tốp phần trăm đầu trong việc quản lý quỹ. Trải nghiệm Washington Post không kéo dài quá lâu nhưng nó đại diện cho nhiều quyết định đầu tư được đưa ra bởi ba nhà quản lý không được nhận dạng từ trước.

Bảng 9 là bản ghi kết quả của quỹ FMC Corporation. Tôi không quản lý một đồng nào trong đấy nhưng tôi có ảnh hưởng tới quyết định của họ chọn những nhà quản lý theo định hướng giá trị vào năm 1974. Trước đó, họ đã chọn những nhà quản lý theo cách giống như hầu hết các công ty lớn hơn. Hiện nay, họ đứng số một trong khảo sát Becker về các quỹ hưu trí do quy mồ của họ trong khoảng thời gian sau khi "chuyển đổi" sang phương pháp giá trị này. Năm ngoái, họ đã có tám nhà quản lý vốn cổ đông với thời gian hoạt động trên một năm. Bảy người trong số đó có kết quả cộng dồn tốt hơn chỉ số s&p. cả tám người có kết quả hoạt động năm ngoái tốt hơn s&p. Mức chênh lệch thuần giữa kết quả hoạt động trung vị hiện nay và kết quả hoạt động thực sự của quỹ FMC trong thời kỳ này là 243 triệu đô la. FMC cho rằng điều này là do quan điểm mà họ nhận được trong việc chọn các nhà quản lý. Các nhà quản lý đó không hẳn là những nhà quản lý mà tôi nhất định sẽ chọn, nhưng họ cũng có cùng đặc điểm là chọn các chứng khoán dựa trên giá trị.

BÁNG 9: Quỹ lương hưu của FMC Corporation, tỷ suất lợi nhuận năm (%)





kcsl = không có số liệu BẢNG 9: Quỹ lương hưu của FMC Corporation, tỷ suất lợi nhuận năm (%) (tiếp theo)

Như vậy đó là chín bản ghi kết quả của các nhà "tung xu" đến từ Graham-và-Doddsville. Tôi không chọn họ trong số hàng nghìn người khác qua việc nhìn vuốt đuôi lại quá khứ. Không phải là tôi đang kể tên cho các bạn một đống người trúng xổ số - những người mà tôi chưa từng nghe tên trước khi họ trúng xổ số. Tôi đã chọn những người này nhiều năm trước dựa trên khuôn khổ của họ trong việc đưa ra quyết định đầu tư. Tôi biết những gì mà họ được dạy và hơn nữa tôi còn hiểu riêng về trí tuệ, nhân cách và tâm tính của họ. Điều rất quan trọng là bạn phải hiểu rằng nhóm này đã nhận lấy mức rủi ro thấp hơn trung bình rất nhiều; hãy lưu ý tới bản ghi kết quả hoạt động của họ trong những năm mà thị trường chung yếu. Mặc dù họ có phong cách khác nhau rất nhiều, những nhà đầu tư này trong tư tưởng của mình luôn mua một doanh nghiệp chứ không phải là mua một chứng khoán. Một số người trong số họ mua toàn bộ một doanh nghiệp. Cách thường xuyên hơn nhiều là họ mua những mảnh nhỏ của các doanh nghiệp. Thái độ của họ là như nhau, cho dù là mua toàn bộ hay chỉ một mảnh nhỏ của một doanh nghiệp. Một số người trong họ có những danh mục đầu tư với hàng tá chứng khoán; những người khác thì tập trung vào một dúm chứng khoán. Nhưng tất cả đều khai thác mức chênh lệch giữa giá thị trường của một doanh nghiệp và giá trị thực của nó.


Каталог: file -> downloadfile6 -> 161
downloadfile6 -> Họ và tên sinh viên: Trần Thị Mỹ Hằng Mã sinh viên: 0851015561
downloadfile6 -> Thế giới an ninh- thiết lập hệ thống camera quan sát với card ghi hình Hệ thống Demo bao gồm
downloadfile6 -> 1 Giới thiệu adc 0809
161 -> BÀi giảng quản trị ngân hàng 2
downloadfile6 -> HUỲnh duy khánh các công thức tính thể TÍCH
downloadfile6 -> Dạng 1: Tính các đại lượng cơ bản (công thoát A, v0max, P, ibh, Uh, H…)
downloadfile6 -> Ách đỌc tên latinh đỗ Xuân Cẩm Giảng viên Đh huế
downloadfile6 -> I. TỔng quan về vqg tràm chim vị trí địa lý
161 -> ĐẠi họC ĐÀ NẴng trưỜng đẠi học kinh tế khoa tài chính ngân hàng  bt nhóm môn thanh toán quốc tế

tải về 3.49 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   26   27   28   29   30   31   32   33   ...   42




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương