NHÀ ĐẦu tư thông minh "Cuốn sách hay nhất về đầu tư từng được viết cho đến nay"



tải về 3.49 Mb.
trang35/42
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích3.49 Mb.
#3721
1   ...   31   32   33   34   35   36   37   38   ...   42

[149]. Vào đàu năm 2003, tỷ suất tương đương của hoa lợi trái phiếu là 5,1% trên các trái phiếu công ty cấp cao và 4,7% trên các trái phiếu đô thị miễn thuế kỳ hạn 20 năm. Để cập nhật về các mức tỷ suất này, hãy xem www.bondsonline.com/asp/news/ composites/html hoặc www.bloomberg.com/markets/ rates.html và www.bloomberg.com/markets/ psamuni.htm.

[150]. Năm 1970 đường sắt Milwaukee đã báo cáo sự thâm hụt lớn. Nó đã tạm ngưng việc trả lãi với các trái phiếu thu nhập của nó, và giá của trái phiếu phát hành 5% đó đã giảm xuống còn 10. (Chú thich của tác giả).

[151]. Về một ví dụ gần đây đã củng cố thêm một cách đau đớn ý kiến của Graham, hãy xem trang 169 dưới đây.

[152]. Giá trái phiếu được báo giá theo phần trăm mệnh giá, tức là của 100. Một trái phiếu có giá "85" nghĩa là đang được bán với giá 85% giá trị ban đầu của nó; một trái phiếu ban đằu được bán với giá 10.000 đô la, nhưng bây giờ bán với mức 85, sẽ có giá là 8.500 đô la. Khi các trái phiếu được bán dưới 100, chúng được gọi là trái phiếu "chiết khấu" hay trái phiếu "dưới giá" (discount bond); trên 100, chúng trở thành trái phiếu "trên giá" (premium bond).

[1531. Ví dụ: trái phiếu ưu đãi đầu tiên 6 đô la của Cities Service, khi không trả cổ tức, đã bán ở mức rất thấp, chỉ 15 vào năm 1937 và ờ mức 27 vào năm 1943, khi mà khoản cộng dồn đã đạt tới 60 đô la một cổ phiếu. Vào năm 1947 nó đã bị thu hồi bởi sở giao dịch chứng khoán với mức 196,50 đô la cho các phiếu nợ 3% với mỗi cổ phần, và nó được bán với mức giá cao tới 186. (Chú thich cùa tác giả).

|154| . Một nghiên cứu thống kê cầu kỳ thực hiện dưới sự chỉ đạo của Cơ quan Nghiên cứu Kinh tế Quốc Gia cho thấy rằng đây đúng là sự thật. Graham đang nói đến W. Braddock Hickman, Corporate Bono Quality and Investor Experience (Chất lượng trái phiếu công ty và kinh nghiệm nhà đầu tư) (Princeton University Press, 1958). (Chủ thích của tác giả). Cuốn sách của Hickman sau đó đã gây cảm hứng cho Michael Milken của công ty Drexel Burnham Lambert đưa ra cách tạo vốn có tỷ suất lợi tức cao cho những công ty với các đánh giá tín nhiệm tốt, giúp khởi động sự mua lại cổ phần bằng đòn bầy tài chính và trào lưu thâu tóm dạng thù địch vào cuối những năm 1980.

[1551. Các cổ phiếu thường phát hành mới - phát hành ra cồng chúng lẳn đằu (initial public offerings tức IPO) - thường được bán với "chiết khấu bao tiêu”

(hoa hồng cho người bao tiêu) khoảng 7%. Ngược lại, hoa hồng của người mua với các cổ phiếu thường cũ là vào khoảng dưới 4%. Mỗi khi Phố Wall kiếm được khoảng gãn gấp đôi với việc bán cái mới so với bán cái cũ, thì cái mới hơn sẽ khó bán hơn.

|156|. Gần đây, các giáo sư tài chính Owen Lamont cua Đại học Chicago và Paul Schultz của Đại học Notre Dame đã cho thấy rằng các công ty chọn chào bán các chứng khoán phát hành mới ra thị trường khi thị trường chứng khoán đang đến gần đỉnh. Muốn tìm hiểu các phát hành này về mặt chuyên môn, hãy xem các bài "Đánh giá việc cân đo giá trị: Các sự kiện của doanh nghiệp và việc định thời điểm ra thị trường" của Lamont và " Định thời điểm thị trường giả và kết quả thực hiện trong dài hạn của các phát hành ra công chúng lằn đẳu " của Schultz tại http://papers.ssrn.com.

[1571. Trong hai năm kể từ tháng 6/1960 tới tháng 5/ 1962, hơn 850 công ty đã lần đầu tiên bán chứng khoán của mình cho công chúng - tính trung bình hơn một công ty mỗi ngày. Vào cuối năm 1967 thị trường IPO lại nóng lên; năm 1969 một khối lượng đáng kinh ngạc là có tới 781 chứng khoán mới ra đời. Sự cung ứng quá thừa này giúp tạo ra các thị trường đi xuống của năm 1969 và của các năm 1973-1974. Đến năm 1974 thị trường IPO chết đến nỗi chỉ có chín chứng khoán mới được tung ra vào năm đó; năm 1975 chỉ có 14 chứng khoán mới. Sự cung ứng quá thiếu đó, ngược lại, đã giúp nuôi dưỡng thị trường đi lên của những năm 1980, khi mà khoảng 4000 chứng khoán mới tràn ngập thị trường, giúp kích thích sự nhiệt tình thái quá dẫn tới vụ sụp đổ năm 1987. Sau đó chu kỳ lại xoay ngược lại khi mà các IPO cạn khô vào các năm 1988-1990. Sự thiếu hụt đã góp phần vào thị trường đi lên của năm 1990 -và theo đúng tín hiệu, Phố Wall quay trở lại với việc tạo ra các chứng khoán mới và đẻ ra gần 5000 IPO. Rồi, sau vụ nổ sụp đổ năm 2000, chỉ có 88 IPO được phát hành vào năm 2001 - mức thấp nhất kể từ 1979. Trong tất cả các trường hợp, công chúng đã bị bỏng bởi các IPO và tránh xa chúng trong hai năm, nhưng luôn trở lại để bị bỏng lằn nữa. Kể từ khi có thị trường chứng khoán tới nay, các nhà đầu tư đã phải trải qua chu kỳ điên loạn rồi trì trệ này. Trong đợt bùng nổ IPO đằu tiên của Mỹ vào năm 1825, nghe kể rằng có người đàn ông đã bị đè chết trong lúc các nhà đầu cơ xô đầy nhau để mua cổ phiếu tại Ngân hàng Southwark mới; những người mua giàu nhất đã thuê côn đồ mở đường lên đầu chỗ xếp hàng. Hẳn vậy, tới năm 1829, các chứng khoán đã mất 25% giá trị.

[158]. ở đây Graham đang mô tả việc chào bán quyền đăng ký mua, trong đó các nhà đầu tư đã sở hữu chứng khoán được yêu cầu đổ thêm tiền vào để giữ nguyên tỷ lệ đầu tư vào công ty. Kiểu kinh doanh này, vẫn rất phổ biến ờ châu Âu, đã trở nên hiếm ở Mỹ, trừ giữa các quỹ đầu tư đóng (closed-end fund) với nhau.

|l59|. Vào thời của Graham, hầu hết các ngân hàng đầu tư danh tiếng nhất thường tránh xa khu vực kinh doanh IPO; một thứ được coi là sự bóc lột không đàng hoàng các nhà đầu tư ngây thơ. Thế nhưng, đến lúc đỉnh điếm của sự bùng nổ IPO vào cuối năm 1999 và đầu năm 2000, thì các ngân hàng đầu tư lớn nhất của Phố Wall đã nhảy cả hai chân vào rồi. Các công ty đáng kính vứt bỏ sự thận trọng truyền thống của mình và hành động như những đô vật bùn say xỉn, lăn lộn để quăng những chứng khoán có giá cao đến lố bịch vào công chúng đang hăm hở cuồng nhiệt. Đoạn mô tả của Graham về cách hoạt động của chu trình IPO là một đoạn kinh điển nên dùng làm bài bắt buộc trong các lớp học về đạo đức ngân hàng đầu tư, nếu có lớp như vậy.

[160]. Một mẫu đại diện từ 41 chứng khoán phát hành như vậy lấy từ cuốn stock Guide (Hướng dẫn chứng khoán) của Standard & Poor's cho thấy rằng 5 phát hành đã mất 90% hoặc hơn từ mức giá cao nhất của chúng, 30 phát hành mất hơn một nửa giá trị, và cả nhóm mất khoảng hai phần ba. Nhiêu chứng khoán phát hành khác không được liệt kê trong cuốn Hướng dẫn chứng khoán chắc chắn còn giảm giá nhiều hơn nữa nếu nhìn tổng quát. (Chú thich của tác giả).

[1611. Vào đầu những năm 1970, khi Graham viết cuốn sách này, chỉ có chưa đây một tá quỹ trái phiếu rác, hầu hết trong số đó có hoa hồng doanh số (sales commission) lên tới 8,5%, thậm chí có những quỹ còn bắt các nhà đầu tư trả phí để được tái đầu tư trở lại cổ tức hằng tháng của mình vào quỹ.

[1621. Edward I. Altman và Gaurav Bana, "Vỡ nợ và mức sinh lợi của các trái phiếu có tỷ suất lợi tức cao", bài nghiên cứu, Trường Kinh doanh Stern, Đại học New York, 2002.

[163]. Tức các chứng khoán Nga và Mexico. (Chú thích của người dịch và Ban biên tập tiếng Việt).

[164]. Graham không phê bình các trái phiếu ngoại một cách nhẹ nhàng, vì ông đã từng có một vài năm đầu sự nghiệp làm một nhân viên trái phiếu tại New York cho những người mua ở Nhật.

|165|. Hai quỹ trái phiếu thị trường mới nổi giá thấp, hoạt động tốt là Fidelity New Markets Income Fund và T. Rowe Price Emerging Markets Bond Fund; để CÓ thêm thông tin, xem www.fidelity.com, www.troweprice.com, và www.morningstar.com. Đừng mua bất kỳ quỹ trái phiếu thị trường mới nổi nào với mức phí hoạt động hằng năm cao hơn 1,25%, và được cảnh báo trước rằng một số quỹ này tính phí thu hồi ngắn hạn để ngăn các nhà đầu tư giữ chúng dưới ba tháng muốn hoàn trả.

f1661. Nguồn cụ thể về các chi phí môi giới là từ công ty Plexus Group tại Santa Monica, bang California, và trang web của nó, www.plexusgroup.com. Plexus tranh luận rất thuyết phục rằng, giống như hầu hết khối lượng của một tảng băng trôi nằm dưới mặt nước biển, lượng chi phí môi giới là vô hình - khiến nhiều nhà đầu tư nhầm tưởng rằng chi phí giao dịch của họ không đáng kể nếu giá môi giới thấp. Chi phí của việc kinh doanh các chứng khoán NASDAQ tương đối cao đối với những nhà đầu tư cá nhân, so với chi phí kinh doanh các chứng khoán niêm yết trên NYSE (xem trang 149, chú thích 1).

[167]. Những điều kiện thực tế còn khắc nghiệt hơn, vì chúng tôi bỏ qua thuế thu nhập tiểu bang trong ví dụ này.

f1681 . Những phát hiện của Barber và Odean có tại http://faculty.haas.berkeley.edu/odean/ Current%20Research.htm và http:// faculty.gsm.ucdavis.edu/-bmbarber/research/ default.html. Nhiều nghiên cứu khác, trùng hợp, đã tìm ra các kết quả gần như giống hệt đối với những nhà quản lý tiền bạc chuyên nghiệp - nên đây không phải là vấn đè chỉ giới hạn trong những nhà đầu tư cá nhân "ngây thơ".

[1691. Xem www.mjcrosoft.com/msft/stock.htm, phần "Kết quả đầu tư vào IPO".

|170|. Jay R. Ritter và Ivo Welch, 'Tổng quan hoạt động, định giá và phân bổ IPO," Journal of Finance (Tạp chí Tài chính), tháng 8/2002, trang 1797. Trang web của Ritter, tại http://bear.cba.ufl.edu/ritter, và trang web của Welch, tại http://welch.som.yale.edu/ là các mỏ vàng dữ liệu cho những ai quan tâm về các IPO [171Ị Lời nhắn số 9, ghi bởi "GoldFingers69" trên bảng tin nhắn của VA Linux (LNUX) tại messages.yahoo.com, cập nhật vào ngày 16/12/1999. MSFT là ký hiệu băng hình của hãng Microsoft Corp.

f1721 . Như đã nói (xem trang 116, chú thích 1), các trái phiếu New Housing Authority và New Community đã không còn được phát hành nữa.

[173]. Ngày nay các "trái phiếu chất lượng thấp" thuộc khu vực "tình huống đặc biệt" được gọi là các trái phiếu khủng hoảng (distressed bond) hoặc trái phiếu mất khả năng thanh toán (defaulted bond). Khi một công ty bị (hoặc tiến tới) phá sản, cổ phiếu thường của nó trở nên gãn như vô giá trị, vì luật phá sản của Mỹ cho người sở hữu trái phiếu quyền bồi thường pháp lý mạnh hơn nhiều so với người sở hữu cổ phiếu. Nhưng nếu công ty đó cải tổ thành công và thoát khỏi sự phá sản, những người giữ trái phiếu thường được nhận cổ phiếu trong công ty mới và giá trị của các trái phiếu sẽ hồi phục một khi công ty có khả năng trả lãi. Do đó các trái phiếu của một công ty gặp khó khăn tài chính có thể có diễn biến kết quả gằn tốt bằng cổ phiếu thường của một công ty khỏe mạnh. Trong những trường hợp đặc biệt này, như lời Graham nói, "không có sự khác biệt thật sự giữa trái phiếu và cổ phiếu thường.”

[174]. Hãy xem, ví dụ như, Lucile Tomlinson, Practical Formulas for Successful Investing (Các công thức thực dụng cho đầu tư thành công), và Sidney Cottle và w. T. Whitman, Investment Timing: The Formula Approach (Xác định thời điểm đầu tư thành công: phương pháp công thức)M cả hai cuốn đều xuất bản năm 1953. (Chú thích của tác giả).

|175|. Hãy để ý rất kỹ những gì Graham đang nói ở đây. Khi viết vào năm 1972, ông cho rằng giai đoạn kể từ 1949 - một thời kỳ hơn 22 năm - là giai đoạn quá ngắn để rút ra kết luận đáng tin cậy! Bằng sự thông thạo toán học của mình, Graham không bao giờ quên rằng các kết luận khách quan đòi hỏi phải có một lượng dữ liệu lớn với thời gian rất dài. Những kẻ lừa phỉnh quảng cáo cho các mẹo chọn chứng khoán "đã được thời gian kiểm chứng" hầu như luôn luôn dựa các phát hiện của mình trên các khoảng thời gian ngắn hơn những gì Graham có thể chấp nhận. (Graham thường dùng những khoảng 50 năm để phân tích dữ liệu quá khứ.) [1761. Một công ty có thành tích tằm thường thì không thể gọi, mà không làm lẫn khái niệm này, là một công ty tăng trưởng, hay một "cổ phiếu tăng trưởng" chỉ vì người đề xuất trông đợi nó sẽ hoạt động tốt hơn trung bình trong tương lai. Nó chỉ là một "công ty hứa hẹn". (Chú thích của tác giả). Graham đang đưa ra một điểm rất tinh tế mà quan trọng: Nếu định nghĩa một cổ phiếu tăng trưởng là một công ty sẽ phát triển mạnh trong tương lai, thì đó hoàn toàn không phải định nghĩa, mà chỉ là sự mơ tưởng. Nó giống như gọi một đội thể thao là "nhà vô địch" khi mà mùa giải còn chưa xong. Sự mơ tưởng này ngày nay vẫn còn; trong các quỹ đầu tư tương hỗ; các danh mục đầu tư "tăng trưởng" miêu tả các cổ phần của chúng là những công ty có "tiềm năng tăng trưởng hơn mức trung bình" hoặc "có các triển vọng thuận lợi trong việc tăng lợi tức." Một định nghĩa chính xác hơn có lẽ là những công ty có lợi tức thuằn trên mỗi cổ phần tăng trung bình mỗi năm ít nhất 15% trong ít nhất năm năm liên tục. (Đạt được tiêu chuẩn này trong quá khứ không đảm bảo rằng một công ty sẽ đạt được nó trong tương lai).



|Ịị 77j . Ngày nay, nhà đầu tư mạnh bạo có thể tạo ra một danh sách như vậy thông qua Internet bằng cách truy cập các trang web như www.morningstar.com (hãy thử dùng công cụ đánh giá stock QuickRank), WMW.quicken.com/investments/stocks/search/full, và http://yahoo.com.marketguide.com.

[178]. Xem bảng 7-1. (Chú thích của tác giả).

[179]. Trong mười năm tính tới ngày 31/12/2002, các quỹ đầu tư vào những công ty lớn tăng trưởng - loại hình ngày nay tương đương với những gì Graham gọi là "quỹ đắu tư tăng trưởng" - thu được tỷ lệ lợi nhuận trung bình hằng năm là 5,6%, kém hơn thị trường chứng khoán chung trung bình là 3,7 điểm phần trăm một năm. Tuy nhiên, các quỹ "giá trị lớn" đầu tư vào các công ty lớn có giá hợp lý hơn cũng hoạt động kém hơn thị trường trong cùng thời kỳ đó (kém cả một điểm phần trăm một năm). Vấn đề có phải chỉ đơn thuằn là các quỹ đầu tư tăng trưởng không thể chọn ra một cách đáng tin cậy những chứng khoán nào sẽ hoạt động vượt thị trường trong tương lai? Hay là chi phí cao của việc quản lý một quỹ trung bình (cho dù nó mua các chứng khoán của công ty tăng trưởng hay công ty "giá trị") vượt quá bất cứ lợi nhuận thêm nào mà những người quản lý của chúng có thể kiếm được qua những lựa chọn chứng khoán của mình? Để cập nhật về sự hoạt động của các quỹ được phân theo loại, xem www.morningstar.com, "Category Returns" ("Phân hạng mức sinh lợi"). Để có một lời nhắc nhở có tính khai sáng về khả năng tàn lụi của hoạt động của các kiểu đắu tư khác nhau, xem www.callan.com/ resource/periodic_table/pertable.pdf.

[180]. Graham đưa ra điểm này để nhắc bạn rằng một nhà đầu tư "mạnh bạo" không phải là một người chịu nhiều khả năng rủi ro hơn bình thường hoặc một người mua các chứng khoán "tăng nhanh mạnh mẽ"; một nhà đàu tư mạnh bạo đơn giản là một người sẵn sàng bỏ thêm thời gian và công sức vào việc nghiên cứu danh mục đầu tư của mình.

|181 Ị. Lưu ý rằng Graham đã nhấn mạnh việc tính tỷ lệ giá/lợi tức dựa trên trung bình nhiều năm của lợi tức trong quá khứ. Bằng cách đó, bạn giảm được nguy cơ đánh giá quá cao giá trị của một công ty dựa trên một đợt bùng nổ lợi nhuận tạm thời. Hãy tưởng tượng một công ty kiếm được 3 đô la trên một cổ phần trong 12 tháng qua, nhưng chỉ trung bình 50 xu một cổ phần trong sáu năm vừa qua. Con số nào - 3 đô la bỗng nhiên hay 50 xu đều đặn - thích hợp để đại diện cho xu hướng kéo dài hơn? Với 25 lần 3 đô la mà nó kiếm được trong năm vừa qua chứng khoán này phải có giá 75 đô la. Nhưng với 25 lần lợi tức trung bình trong bảy năm qua (6 đô la tổng lợi tức của 7 năm, chia 7, bằng 85,7 xu mỗi cổ phần trong lợi tức trung bình hằng năm), chứng khoán này sẽ chỉ có giá 21,43 đồ la. Bạn chọn con số nào sẽ tạo ra sự khác biệt lớn. Cuối cùng, đáng lưu ý là phương pháp chủ yếu trên Phố Wall ngày nay - các tỷ lệ giá/lợi tức chủ yếu dựa trên "lợi tức của năm sau" sẽ là cái mà Graham ghét cay ghét đắng. Làm sao bạn có thể định giá một công ty dựa trên lợi tức mà nó còn chưa tạo ra? Điêu đó giống như đặt giá nhà dựa trên tin đồn rằng Lọ Lem sẽ xây lâu đài mới ở góc phố.

[1821. Các ví dụ gần đây thể hiện chính xác ý của Graham. Vào ngày 21/9/2000, Intel Corp, nhà sản xuất chip điện tử máy tính, tuyên bố là nó trông đợi lợi nhuận của mình sẽ tăng 5% trong quý đó. Thoạt tiên, điều đó nghe có vẻ thật tuyệt; hầu hết các công ty lớn đều thích tăng doanh số của mình thêm 5% trong chỉ ba tháng. Nhưng phản ứng lại với điều đó; chứng khoán của Intel lại giảm 22%, khoản thua lỗ trên tổng giá trị là gần 91 tỉ đô la trong một ngày. Tại sao? Các nhà phân tích của Phố Wall đã kỳ vọng lợi nhuận của Intel tăng 10%. Tương tự, vào 21/2/2001, EMC Corp., một công ty lưu trữ dữ liệu, thông báo là nó hi vọng lợi nhuận của mình tăng ít nhất 25% vào năm 2001 - song một sự thận trọng mới trong số các khách hàng "có lẽ đã dẫn tới các chu kỳ bán ra dài hơn". Do có luồng do dự đó; cổ phiếu của EMC mất tới 12,8% giá trị của nó chỉ trong một ngày.

|183|. Tương đương ngày nay với các nhà đầu tư "có moi quan hệ gần gũi với công ty đó" là những người được gọi là các nhân vật nắm quyền kiểm soát số cổ phần công ty - những nhà quản lý hoặc giám đốc lâu năm giúp quản lý công ty và sở hữu những khối chứng khoán lớn. Những nhà điều hành như Bill Gates của Microsoft hay Warren Buffett của Berkeshire Hathaway kiểm soát trực tiếp số phận của công ty - và những nhà đầu tư bên ngoài mong muốn thấy những nhà quản lý cao cấp này giữ một lượng cổ phiếu lớn như một sự bỏ phiếu cho lòng tin. Nhưng các nhà quản lý cấp thấp hơn và những nhân viên bình thường không thể tác động tới giá cổ phiếu của công ty với những quyết định của cá nhân mình, do đó họ không nên đặt nhiều hơn một số phần trăm nhỏ trong tài sản của mình vào chứng khoán của chính công ty mình. Đối với những nhà đầu tư bên ngoài, cho dù họ có nghĩ mình hiểu về công ty thế nào, sự phản đối tương tự cũng được áp dụng.

[184]. Có hai câu thành ngữ lâu đời trên Phố Wall khuyên về những giao dịch như vậy: "Không có cái cây nào mọc vươn tới Thiên đường được" và "Một con bò (thị trường giá lên) có thể kiếm ra tiền, một con gấu (thị trường giá xuống) có thể kiếm ra tiền, còn một con heo không bao giờ kiếm ra tiền." (Chú thích của tác giả).

[1851. Có hai nghiên cứu để xem. Nghiên cứu đầu tiên, thực hiện bởi H. G. Shneider, một trong những học trò của chúng tôi, bao quát các năm 1917-1950 và được công bố tháng 6/1951 trong Journal of Finance (Tạp chí Tài chính). Nghiên cứu thứ hai được thực hiện bởi công ty Drexel Firestone, thành viên của Sở Giao dịch Chứng khoán New York, bao quát các năm 1933-1969. Dữ liệu được đưa ra ở đây đã được họ rộng lòng cho phép. (Chủthichcủa tác giả).

[186]. Drexel Firestone, một ngân hàng đầu tư ở Philadelphia, đã sáp nhập với Burnham & Co. vào năm 1973 và sau này trở thành Drexel Burnham Lambert, nổi tiếng với việc kinh doanh trái phiếu rác trong đợt bùng nổ thâu tóm công ty vào những năm 1980.

|187|. Chiến lược mua các chứng khoán rẻ nhất trong chi số trung bình công nghiệp Dow Jones hiện nay được mệnh danh hiệu là phương pháp "Dogs of the Dow" (Những con chó của chỉ số Dow). Thông tin về "Dow 10" có tại www.djindexes.com/jsp/ dow510Faq.jsp.

f1881 . Một trong những lằn chuyện bé xé ra to nhất: Vào tháng 5/1998, công ty Pfizer Inc. và Cục Thực phẩm và dược phẩm Mỹ đã thông báo rằng sáu người đàn ông sử dụng thuốc tráng dương Viagra của Pfizer đã chết vì đau tim trong lúc đang làm tình. Ngay lập tức, cổ phiếu của Pfizer trở nên suy yếu, mất 3,4% chỉ trong một ngày kinh doanh nhiều. Nhưng các cổ phiếu của Pfizer lại vọt lên khi nghiên cứu cho thấy không có lý do để hoảng loạn; chứng khoán này đã tăng khoảng một phần ba trong hai năm tiếp theo.

Vào cuối năm 1997, các cổ phần của Warner-Lambert Co. giảm 19% trong một ngày khi việc bán thuốc tiểu đường mới của nó bị tạm ngưng ờ Anh; trong vòng sáu tháng, cổ phiếu của công ty lại tăng gần như gấp đôi. Vào cuối 2002, chứng khoán của Carnival Corp., một công ty vận hành tàu thủy du lịch hạng sang, mất khoảng 10% giá trị của nó sau khi các khách du lịch bị tiêu chảy và nôn mửa nghiêm trọng trên tàu của các công ty khác.

[1891. Khi nói 'Vốn lưu động ròng" ("net working capital") Graham có ý là tài sản hiện tại của công ty (chẳng hạn như tiền mặt, các chứng khoán có thể kinh doanh được, và hàng trong kho) trừ đi tổng nợ của nó (bao gồm các cổ phiếu ưu đãi và nợ dài hạn).

[190]. Còn gọi là lợi thế thương mại. (Chú thích của người dịch và Ban biên tập tiếng Việt).

[191]. Biên lợi nhuận: tỷ lệ giữa doanh số (tiền bán hàng thu được) và chi phí của sản phẩm bán ra, thường được tính theo tỷ lệ phần trăm. Nó cho biết trong mỗi đồng doanh số có bao nhiêu đồng lợi nhuận. (Chú thích của người dịch và Ban biên tập tiếng Việt).

Ịị 92Ị . Từ năm 1975 tới năm 1983, các chứng khoán nho ("hạng hai") đã có kết quả vượt qua các chứng khoán lớn với một con số trung bình đáng kinh ngạc là 17,6 điếm phần trăm một năm. Công chúng đầu tư háo hức đón nhận tất cả những chứng khoán nhỏ, các công ty đầu tư tương hỗ đưa ra hàng trăm quỹ mới chuyên về chúng, thế là các chứng khoán nhỏ lại hoạt động kém hơn các chứng khoán lớn tận năm điểm phần trăm mỗi năm trong thập kỷ sau đó. Chu kỳ lại trở lại vào năm 1999, khi mà các chứng khoán nhỏ đã thắng các chứng khoán lớn gần chín điểm phần trăm, khiến các ngân hàng đầu tư lần đầu tiên phải bán hàng trăm chứng khoán công nghệ cao bán chạy cho công chúng. Thay vì có những chữ "electronics" (điện tử), "computers" (máy tính) hay "franchise" (nhượng quyền) trong tên mình, những từ khóa ăn khách mới là ".com", "optical" (quang), "wireless" (không dây), và thậm chí là những tiền tố như "e-" (điện tử) và ắẼl-'! (bảo hộ chống lạm phát). Những từ ăn khách đầu tư luôn trở thành những lưỡi cưa, cưa nát những ai tin vào chúng.

[193]. Các trái phiếu đường sắt mất khả năng thanh toán không còn đem tới những cơ hội đặc biệt vào ngày nay. Tuy nhiên, như đã nêu, các trái phiếu rác khủng hoảng hoặc mất khả năng thanh toán, cũng như các trái phiếu có thể chuyên đổi được phát hành bởi những công ty công nghệ cao, có thể đem tới giá trị thực trong lúc bắt đầu vụ sụp thị trường các năm 2000-2002. Nhưng sự đa dạng hóa trong lĩnh vực này là cốt yếu - và phi thực tế trừ phi bạn có ít nhất 100.000 đô la chỉ để dành cho những chứng khoán bị khủng hoảng. Trừ phi bạn là một triệu phú, kiểu đa đạng hóa này không phải là một lựa chọn.

[194]. Một ví dụ điển hình gần đây là công ty Philip Morris. Chứng khoán của nó mất tới 23% trong hai ngày sau khi một tòa án bang Florida đã ủy quyền cho bồi thẩm đoàn xem xét tiền bồi thường thiệt hại lên tới 200 tỉ đô la mà công ty này phải chịu - cuối cùng, công ty đã thừa nhận rằng thuốc lá có thể gây ra ung thư. Trong một năm, chứng khoán của Philip Morris đã tăng gấp đôi - chỉ sụt giảm lại sau một phán quyết nhiều tỉ đô la ở bang Illinois sau này. Vài chứng khoán khác đã gằn như bị phá tan bởi các vụ kiện về trách nhiệm, trong đó có công ty Johns Manville, w. R. Grace và USG Corp. Do đó; "đừng bao giờ mua chuốc lấy một vụ kiện" vẫn là một quy luật đúng đắn mà hầu hết những các nhà đầu tư, trừ những người gan dạ nhất, nên tuân theo.

|195|. Xem trang 437-440, đề có được ba ví dụ về những tình huống đặc biệt tồn tại vào năm 1971. (Chú thích cùa tác giả).

[1961. "Sự thật về việc xác định thời điểm", tạp chí Barron's, ngày 5/11/2001, trang 20. Tiêu đề của bài báo này là nhắc nhở có ích về một quy tắc lâu dài đối với nhà đầu tư thông minh. Mỗi khi bạn nhìn thế chữ "truth" (sự thật) trong một bài báo về đầu tư, hãy chuần bị tinh thần, nhiều trích dẫn trong số các trích dẫn sau đó có khả năng sẽ là nói dối. (Chẳng hạn, một nhà đầu tư mua cổ phiếu vào năm 1966 và giữ chúng đến cuối 2001 sẽ có ít nhất 40 đô la, chứ không phải 11,71 đô la, nghiên cứu được trích dẫn trong Barron's có vẻ đã bỏ qua sự tái đầu tư cổ tức.) [197]. New York Times, ngày 7/1/1973, mục đặc biệt "Điều nghiên kinh tế", các trang 2,19, 44.

[1981. Thông cáo báo chí, "Đây là thời điểm tốt để tham gia vào thị trường, R.M. Leary & Company nói.", ngày 3 tháng 12 năm 2001.

[199]. Bạn cũng có thể tiết kiệm hàng nghìn đô la chi phí đăng kí mua tờ tin (chi phí này không được khấu trừ khỏi tính toán về tỷ suất lợi nhuận của các tờ tin này). Và chi phí môi giới và thuế lãi vốn ngắn hạn thường cao hơn nhiều đối với những người xác định thời điếm thị trường so với những nhà đầu tư mua và giữ. về nghiên cứu của trường Duke, hãy xem hai tác giả John R. Graham và Campbell R. Harvey, "Xếp hạng về hiệu quả của các tờ tin xác định thời điểm thị trường ,ấắ Tạp chỉ Phân tích tài chính, tháng 11/12, năm 1997, trang 54-56, cũng có thể xem tại www.duke.edu/~charvey/research.htm.

[200]. Để biết thêm về những cảm quan hợp lý thay thế cho việc xác định thời điểm thị trường-tái cân bằng và bình quân chi phí đô la - hãy xem chương 5 và 8.


Каталог: file -> downloadfile6 -> 161
downloadfile6 -> Họ và tên sinh viên: Trần Thị Mỹ Hằng Mã sinh viên: 0851015561
downloadfile6 -> Thế giới an ninh- thiết lập hệ thống camera quan sát với card ghi hình Hệ thống Demo bao gồm
downloadfile6 -> 1 Giới thiệu adc 0809
161 -> BÀi giảng quản trị ngân hàng 2
downloadfile6 -> HUỲnh duy khánh các công thức tính thể TÍCH
downloadfile6 -> Dạng 1: Tính các đại lượng cơ bản (công thoát A, v0max, P, ibh, Uh, H…)
downloadfile6 -> Ách đỌc tên latinh đỗ Xuân Cẩm Giảng viên Đh huế
downloadfile6 -> I. TỔng quan về vqg tràm chim vị trí địa lý
161 -> ĐẠi họC ĐÀ NẴng trưỜng đẠi học kinh tế khoa tài chính ngân hàng  bt nhóm môn thanh toán quốc tế

tải về 3.49 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   31   32   33   34   35   36   37   38   ...   42




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương