NHÀ ĐẦu tư thông minh "Cuốn sách hay nhất về đầu tư từng được viết cho đến nay"



tải về 3.49 Mb.
trang39/42
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích3.49 Mb.
#3721
1   ...   34   35   36   37   38   39   40   41   42

[3731. Vào năm 1960 chỉ có hai trong 29 công ty công nghiệp không có mức tài sản có hiện tại gấp đôi tài sản nợ hiện tại, và chỉ có hai công ty là không có mức tài sản ròng hiện tại nhiều hơn mức nợ của chúng. Tới tháng 12/1970, con số ờ mỗi mục này đã tăng từ hai thành mười hai. (Chủ thích của tác giả).

[374]. Nhưng hãy lưu ý rằng hoạt động thị trường kết hợp của chúng từ tháng 12 năm 1970 tới đằu năm 1972 đã kém hơn của chỉ số DJIA. Điều này thể hiện một lằn nữa rằng không có hệ thống hay công thức nào có thể đảm bảo những kết quả thị trường xuất sắc. Những yêu cằu của chúng tôi chỉ "đảm bảo rằng người mua danh mục đầu tư sẽ nhận được đúng gia trị cho tiên CỈI3 minh. (Chú thich của tác giả).

[375]. Một công cụ tìm kiếm chứng khoán dễ dàng sử dụng có thể phân loại chứng khoán trong s & p 500 theo hầu hết các tiêu chí của Graham có thể thấy tại WMW.quicken.com/investments/stocks/search/full.

[376]. Vào lúc Graham viết, chỉ có một quỹ tương hỗ lớn chuyên mồn hóa trong lĩnh vực chứng khoán tiện ích công cộng là có thể săn có rộng rãi, đó là Franklin Utilities. Ngày nay có trên 30 quỹ. Graham đã không thể dự đoan được sự tàn phá tai chính gây nên bởi các nhà máy điện hạt nhân bị hủy bỏ và phá dỡ;ế ông cũng không thấy trước được hậu quả của các điều tiết cầu thả ở California. Các chứng khoán tiện ích công cộng là không ổn định so với thời của Graham, và hầu hết các nhà đầu tư cằn phải mua chúng thông qua một quỹ đắu tư rất đa dạng, chi phí thap kiểu như Quỹ chỉ số Dow Jones ngành tiện ích Mỹ (mã chứng khoán: IDU) hoặc Quỹ SPDR Lĩnh vực lựa chọn ngành tiện ích (XLU). Để có thêm thông tin, xem www.shares.comwww.spdrindex.com/spdr (hãy đảm bảo là nhà môi giới của bạn sẽ không thay đôi tiền hoa hồng để tái đẳu tư cổ tức của bạn). (Chủ thich trong nguyên bàn).

SPDR, còn gọi là Spider (mã chứng khoán: SPY), xuất phát từ tên tắt của một thành viên trong nhóm là Standard & Poor's Depositary Receipt, chỉ nhóm chứng khoán của các quỹ được lập ra nhằm mục đích có dao động giá trị giống như của chỉ số s & p 500. Một đơn vị SPDR được định giá bằng 1/10 giá trị của chỉ số s &ế p 500. [Chú thích của người dịch và Ban biên tập tiếng Việt).

[377]. Hệ quả là chúng tôi phải loại trừ phần lớn các chứng khoán của các công ty ống dẫn ga, vì những công ty này bị trái phiếu hóa rất nặng ne. Lý do cho cơ chế này là cấu trúc cơ sở của của các hợp đồng mua trong đó "đảm bảo" thanh toán trái phiếu; nhưng các chi tiết có lẽ quá phức tạp so với nhu cằu của nhà đầu tư phòng vệ. (Chú thích của tác giả).

[378]. Như một lời khẳng định rõ ràng về quan điểm của Graham, chỉ số tiện ích trông có vẻ ảm đạm của Standard & Poor's đã vượt lên trên chỉ số tống hợp ngạo nghễ của NASDAQ trong 30 năm kết thúc vào ngày 31/12/2002.

[379]. Ngày nay, lĩnh vực dịch vụ tài chính được cấu thành bởi thậm chí còn nhiều thành phần hơn, bao gồm ngân hàng thương mại; công ty tiết kiệm, vay, và cung cấp tài chính có thế chấp; công ty cung cấp tài chính cho khách hàng kiểu như các nhà phát hành thẻ tín dụng; các nhà quản lý tiền tệ và công ty ủy thác; ngân hàng đầu tư và hãng môi giới chứng khoán; công ty bảo hiểm; và các hãng tham gia vào xây dựng hoặc sở hữu bất động sản, trong đó có công ty ủy thác đầu tư bất động sản (real-estate investment trust). Mặc dù lĩnh vực này ngày nay còn đa dạng hơn thế nữa, những sự dè chừng của Graham về sự lành mạnh tài chính cằn được áp dụng hơn bao giờ hết.

f3801 . Chỉ có một vài chứng khoán đường sắt chính ngày nay vẫn còn tồn tại, trong đó có Burlington Northern, CSX, Norfolk Southern và Union Pacific. Lời khuyên trong chương này ít nhất cũng thích hợp với các chứng khoán hàng không ngày nay - với các thua lỗ hiện tại khổng lồ của chung va với nửa thế kỷ có kết quả tồi tệ hầu như liên tục - như nó đã thích hợp với các công ty đường sắt vào thời của Graham.

[381]. Graham tóm lược "giả thuyết thị trường hiệu quả", hay EMH (efficient markets hypothesis), mộtỊỊý thuyết mang tính học thuật cho rằng giá của mỗi chứng khoán bao gồm tất cả các thông tin được công bố về công ty. Với hàng triệu nhà đầu tư lùng sục thị trường mỗi ngày, điều khó có thể xảy ra là các định giá sai nghiêm trọng có thể tồn tại được lâu. Một câu chuyện cười kế về hai vị giáo sư tài chính đang đi bách bộ trên hè phố. Khi một vị phát hiện thấy một tờ 20 đô la và cúi xuống để nhặt lên thì vị kia nắm lấy tay ông ta và nói, "Đừng có quan tâm làm gì. Nếu đó thực sự là một tờ 20 đô la thì chắc chắn là có ai đó đã nhặt nó rồi." Mặc dù thị trường không phải là hiệu quả một cách hoàn hảo, song nó khá sát với tính chất đó trong hầu hết thời gian - do vậy nhà đầu tư thông minh sẽ cúi xuống để nhặt các tờ 20 đô la của thị trường chứng khoán chỉ sau khi đã nghiên cứu chúng một cách kỹ lưỡng và giảm thiểu các chi phí về giao dịch và thue.

2. Đây là một trong các điểm trung tâm trong cuốn sách của Graham. Tat cả các nhà đầu tư đều làm việc dưới sự trớ trêu phũ phàng: chúng ta đầu tư trong hiện tại, song chúng ta đẳu tư cho tương lai. Và, thật không may, tương lai thì hầu như hoàn toàn bất định. Lạm phát và lai suất là không thể tin cậy được; suy thoái kinh tế đến và đi một cách ngẫu nhiên; các biến động địa chính trị như chiến tranh, khan hiếm hàng hóa và khủng bố xuất hiện mà không có bất cứ lời cảnh báo nào; và số phận của các công ty riêng rẽ và các ngành cồng nghiệp của chúng té ra là thường đi ngược lại điều mà hầu hết các nhà đầu tư kỳ vọng. Do đó; đầu tư trên cơ sở phóng chiếu là việc làm của một kẻ ngốc, ngay cả dự báo của người được gọi là chuyên gia còn kém tin cậy hơn việc tung đồng xu. Đối với hầu hết mọi người, đầu tư trên cơ sở phóng chiếu - từ sự trả giá quá mức cho chứng khoán và từ sự tin tưởng thái quá vào chất lượng suy xét của chính bản thân họ - là giải pháp tốt nhất. Graham mở rộng tiếp khái niệm này trong chương 20.

[383]. Vào lúc bạn đọc điều này, nhiều thứ đã thay đổi kể từ cuối năm 2002.

[3841 . David Dreman, "Bong bóng và vai trò dự báo của các nhà phân tích", The Journal of Psychology and Financial Markets (Tạp chí Tâm lý và Thị trường Tài chính) m tập 3, số 1 (2002), trang 4-14.

[385]. Bạn có thể tính tỷ số này bằng tay từ các báo cáo năm của một công ty, hoặc tìm thấy số liệu tại các trang web kiểu như www.morning.star.com hoặc http://finance.yahoo.com.

[3861. Để biết thêm là cằn phải tìm xem cái gì, hãy xem bình luận về chương 11, 12 và 19. Nếu bạn không muốn sử dụng nỗ lực tối thiểu để đọc thông báo ủy nhiệm và đưa ra các so sánh cơ bản về sức khỏe tài chính qua các báo cáo năm trong 5 năm, khi đó bạn sẽ là quá ư phòng vệ để mua bất kỳ chứng khoán riêng rẽ nào. Hãy đưa mình ra khỏi công việc lựa chọn chứng khoán và đi sang quỹ chỉ số, là nơi bạn thuộc về.

[387]. Nghiên cứu của Friend-Blume-Crockett cho giai đoạn từ tháng 1/1960 đến tháng 6/1968 đã_so sánh kết quả hoạt động của hơn 100 quỹ tương hỗ lớn với mức sinh lời của các danh mục đầu tư được xây dựng một cách ngẫu nhiên từ hơn 500 chứng khoán lớn nhất được niêm yết tại sở Giao dịch Chứng khoán New York. Các quỹ trong nghiên cứu của Friend- Blume-Crockett đa có kết quả tốt hơn từ năm 1965 đến năm 1968 so với kết quả của chúng trong nửa đầu giai đoạn đang xét, cũng giống như Graham đã phát hiện trong nghiên cứu của riêng ông (xem ở trên, trang 181 và trang 258-262). Song sự cải thiện đó đã không kéo dài. Và kết luận đột phá này của các nghiên cứu đó - rằng các quỹ tương hỗ, về trung bình, đạt kết quả kém hơn thị trường với mức chênh lệch đại khái bằng chi phí hoạt động và chi phí giao dịch của chúng - đã được khắng định nhiều lần đến nỗi bất cứ ai nghi ngờ nó cũng có thể thành lập một bộ phận về lĩnh vực tài chính trong Hội Trái đất phẳng.

f3881. Mutual Funds and Other Institutional Investors: A New Perspective (Các quỹ tương hỗ và các tổ chức đầu tư khác: một triển vọng mới), I. Friend, M. Blume, và J. Crockett, McGraw-Hill, 1970. Chúng tôi xin nói thêm rằng kết quả các năm 1966-1970 của nhiều quỹ mà chúng tôi đa nghiên cứu có phần tốt hơn kết qua của chỉ so tổng hợp 500 chứng khoán của Standard & Poor's và tốt hơn nhiều so với kết quả của chỉ số DJIA (Chù thich của tác giã).

[389]. Như chúng tôi đã thảo luận trong bình luận về chương 9, có _một loạt các nguyên nhân khác làm các quỹ tương hỗ không thể nào vượt qua được mức trung bình của thị trường, trong đó co mức sinh lời thấp trên các cân đối tiền của quỹ, và chi phí cao về nghiên cứu và giao dịch chứng khoán. Thêm nữa, một quỹ nắm giữ tới 120 công ty (một con số tiêu biểu) có the theo sát gót chỉ số s & p 500 nếu bất kỳ công ty nào trong số 380 công ty còn lại trong chỉ số đó lại trở thành một kẻ thể hiện xuất sắc. Một quỹ sở hữu càng ít chứng khoán thì nó càng có khả năng để lọt mất một "Microsoft tiếp theo".

f3901. Trong phần này, cũng như ông đã làm ở trang 404-407, Graham tóm tắt giả thuyết thị trường hiệu quả (EMH). Với những biếu hiện gần đây thì ngược lại, vấn đè của thị trường chứng khoán ngày nay không phải là việc quá nhiều nhà phân tích tài chính ngu dốt, mà là việc quá nhiều người trong số họ quá thông minh. Khi mà ngày càng có nhiều người thông minh tham gia tìm kiếm các món hời, thì chính hành động tìm kiếm đó làm cho các món hời ngày càng hiếm hoi, và theo một nghịch lý nghiệt ngã, làm cho các nhà phân tích trông giống như thể họ không có đủ trí tuệ để biện hộ cho sự tìm kiếm đó. Sự định giá của thị trường về một chứng khoán nào đó là kết quả của một hoạt động trí tuệ tập thể rộng lớn, liên tục và theo thời gian thực. Trong hầu hết mọi thời điếm, đối với hầu hết các chứng khoán, trí tuệ tập thể đó có được sự định giá tương đối đúng. Chỉ rất ít khi "Ngài Thị trường" của Graham (xem chương 8) mới nống giá lên một cách điên cuồng.

f3911 . Graham khởi đằu công ty Graham-Newman vào tháng 1/1936 và giải thể nó khi ông ngừng công việc quản lý tiền tệ vao năm 1956, công ty này là ke thừa của một doanh nghiệp hợp danh tên là Benjamin Graham Joint Account (Tài khoản chung của Benjamin Graham), mà ông đã điều hành từ tháng 1/ 1926 đến tháng 12/1935.

[392]. Phòng vệ "không liên quan" bao gồm việc mua vào một cổ phiếu hoặc trái phiếu được một công ty phát hành và bán khống (hay đánh cược vào sự xuống giá) một chứng khoán được một công ty khác phát hành. Phòng vệ "có liên quan" bao gồm việc mua vào và bán ra các cổ phiếu hoặc trái phiếu khác nhau được phát hành bởi cùng một công ty. "Nhóm mới" các quỹ phòng vệ được Graham mô tả đã xuất hiện rộng rãi vào khoảng năm 1968, nhưng sau đó quy định của ủy ban chứng khoán và Giao dịch Mỹ đã hạn chế công chúng rộng rãi tiếp cận với các quỹ phòng vệ.

[393]. Trong năm 2003, một nhà đầu tư thông minh đi theo dòng tư tưởng của Graham có lẽ sẽ tìm kiếm cơ hội trong các ngành công nghệ, viễn thông và dịch vụ tiện ích điện lực. Lịch sử đã cho thấy là những người thất bại hôm qua thường là những người chiến thắng ngày mai.

[394]. Ghi chú cá nhân: Nhiêu năm trước những trò pháo hoa chứng khoán của công ty đó, tác giả cuốn sách này từng là "phó giám đốc tai chính" với mức lương hoành tráng 3.000 đô la một năm. Nó khi đó thực sự tham gia vào kinh doanh pháo hoa (Chú thích của tác giả). Vào đầu năm 1929, Graham trở thành phó giám đốc tài chính của công ty Unexcelled Manufacturing Co., nhà sản xuất pháo hoa lớn nhất nước Mỹ. Unexcelled sau này trở thành một công ty hóa chất đa dạng và không còn tồn tại dưới dạng độc lập nữa.

[395]. Công ty kế thừa Ngân hàng Công nghiệp Quốc gia bang Rhode Island là công ty tài chính FleetBoston. Một trong những tổ tiên của nó là Ngân hàng Providence, được thành lập năm 1791.

[396]. Cuốn Hưởng dẫn không liệt kê những hệ số nhân lớn hơn 99. Hầu hết trường hợp này là những sự kỳ cục về mặt toán học, được tạo ra bởi mức lợi tức chỉ cao hơn mức không điếm một ít. (Chú thich của tác giả).

[397]. Đối với nhà đầu tư ngày nay, giới hạn thường được thấy hơn cả là khoảng 1 đô la trên một cổ phiếu - một mức mà dưới đó nhiều chứng khoán sẽ là "thôi niêm yết", hay được công bố là không phù hợp để giao dịch tại các sàn lớn. Chỉ riêng việc theo dõi giá chứng khoán của các công ty này cũng đã cằn một nỗ lực đang kể, làm chúng trở nên phi thực tế đối với nhà đầu tư phòng vệ. Chi phí của việc giao dịch các chứng khoán giá thấp có the sẽ rất lớn. Cuối cùng, các công ty với giá chứng khoán rất thấp có một xu hướng đáng buồn la ngừng kinh doanh. Tuy nhiên, một danh mục đầu tư đa dạng gồm vài tá các công ty khốn quẫn như vậy có lẽ vẫn la điều hấp dẫn đối với một số nhà đầu tư mạnh bạo ngày nay.

[398]. Theo thuật ngữ của Graham, một lượng lớn đặc quyền kế nghiệp (goodwill) có thể được tạo ra từ hai nguyên nhân: một công ty có thể tiếp quản các công ty khác với mức giá cao hơn nhiều so với giá trị tài sản có của các cong ty đó; hoặc chứng khoán của chính công ty này có thể giao dịch ờ mức cao hơn nhiều so với giá trì sổ sách.

[399]. v‘ê mặt chuyên môn, giá trị vốn lưu động của một chứng khoán là tài sản có hiện tại trên một cổ phiếu, trừ đi tài sản nợ hiện tại trên một cố phiếu, chia cho số cổ phiếu đang lưu hành. Tuy nhiên, ở đây Graham muốn nói đến "giá trị vốn lưu động ròng', hay là giá trị tài sản có hiện tại trên một cố phiếu trừ đi tổng tài sản nợ trên một cổ phiếu.

[400]. Le coeur a ses raisons que la raison ne connaît point. Câu nói như thơ này là một trong những lý lẽ kết luận trong cuộc tranh luận của nhà thân học vĩ đại người Pháp về cái mà sau này được biết đến như là "sự đánh cuộc Pascal" (xem bình luận về chương 20).

[401]. Như đã được thảo luận trong phần bình luận về chương lm việc kinh doanh chênh lệch giá của các vụ sáp nhập công ty là hoàn toàn không thích hợp đối với hầu hết các nhà đầu tư cá nhân.

Í4021. Patricia Dreyfus, "Phân tích đău tư bằng hai bài học dễ" (phỏng van Graham), Money, tháng 7/1976, trang 36.

Í4031. Xem bình luận về chương 11.

Í4041. Còn có rất nhiều bân tin khác cũng có mục đích phân tích các danh mục đầu tư chuyên nghiệp, song hắu hẽt trong số đó chỉ là sự lãng phi thời gian và tiền bạc thậm chi ngay cà đối với một nhà đau tư mạnh bạo. Một ngoại lệ sáng ngời cho những ai có thể dành dụm được tiền là Outstanđing Investor Digest (Tập san Nhà đầu tư xuất chúng) (www.oid.com).

[405],Hạng trên ở đây hiếu theo nghĩa được ưu tiên chi trả trước vốn cố đông (tức cố phiếu thường, được xếp vào hạng dưới) trong trường hợp phát mại công ty (chú thích của ngưởi dịch vá Ban bièn tập tiểng Việt).

Í4061. Ngụ ý chỉ các công ty điện thoại, viễn thông, vốn bắt nguồn từ tên gọi công ty American Bell Téléphoné Company (tức Bell System hay AT&T), với logo có hình vẽ quả chuông (Bell lấy từ tên họ nhà phát minh Alexander Graham Bell, nhưng đông thời có nghĩa là C|uả chuông). (Chú thích của người địch và Ban bièn tập tiếng Việt).

Í4071. Graham ghét cay ghét đắng các chứng chỉ quyền mua cổ phiếu dài hạn, như ông đã nêu rõ điêu đó tại các trang 462-466.

Í4081. Điếm này được minh họa rất hay thông qua việc chào bán hai vụ phát hành trái phiếu của công ty Ford Motor Finance Co. được thực hiện cùng một lúc vào tháng 11/1971. Một vụ là trái phiếu không chuyên đối 20 nam, với tỷ suất lợi tức (lai suất) là 7,5% một năm. Còn vụ kia là trái phiếu 25 năm, có cấp thẩp hơn trái phiếu trên xét theo thứ tự được chi trả và chỉ có tỷ suất lợi tức là 4,5% một năm; song nó lại có thể chuyên đối sang cố phiếu của Ford Motor, với giá vào lúc đó là 68,5 đo la. Đê’ có được đặc quyền chuyến đối này, người mua đã phải từ bồ 40% lợi nhuận và chẩp nhận Vị thế người cho vay thẩp hơn. (Chứ thich của tác giả).

Í4091. Graham chỉ ra là, bất chấp những lời lẽ khoa trương quảng cáo mà các nhà đầu tư thường nghe thẩy, các trái phiếu chuyên đối không tự động cho ta "cái tốt nhẩt của hai phía". Mức lợi tức cao va rủi ro thẩp thường là không ỡ¡ sóng đôi nhau. Cái gì mà Phố Wall cho bạn bằng tay này thì thường nó lại lẩy đi bằng tay kia. Một đau tư co thể cho bạn cái tốt nhất của phía này, hoặc cái tồi tệ nhẩt của phía kia, song cái tốt nhất của cả hai phía thì hiếm khi mà có được trong cùng một gói.

[410]. Theo Goldman Sachs và Ibbotson Associates, từ năm 1998 đến năm 2002, các chứng khoán chuyển đối đã tạo ra một tỷ suất lợi nhuận năm trung bình là 4,8%. Mức này tốt hơn đáng kể so với tỷ suất thua lỗ 0,6% của các cổ phiếu Mỹ; song tồi tệ hơn nhiều so với mức sinh lời của các trái phiếu công ty trung hạn (lãi hằng năm 7,5%) và các trai phiếu cong ty dài hạn (lãi hằng năm 8,3%). Vào giữa những năm 1990, theo Merrill Lynch thì khoảng 15 tỷ đô la chứng khoán chuyển đổi được phát hành hằng năm; đen năm 1999, lượng phát hành đã tăng hơn gấp đôi, đạt tới 39 tỷ đô la. Trong năm 2000, 58 tỷ đô la chứng khoán chuyển đối được phát hành, và trong năm 2001, thêm 105 tỷ đô la nữa xuất hiện. NhưGraham đã cảnh báo, các chứng khoán chuyển đổi luôn luôn xuất hiện từ các tiều xảo vào lúc gần cuối của thị trường lên giá - chủ yếu là vì ngay cả các công ty chất lượng kém khi đó cung có mức sinh lợi của chứng khoán kha cao, đủ đề làm cho tính chất chuyển đổi có vẻ hấp dẫn.

[4ỊỤ Những thay đổi về mặt cơ cấu gằn đây trên thị trường chứng khoán chuyển đối đã phủ nhận một vài phê phán trong số các phê phán này. cổ phiếu ưu đãi chuyển đổi chiem khoảng một nửa toàn bộ thị trường chứng khoán chuyển đối vào thời Graham, song ngày nay nó chỉ chiếm khoảng một phần tám thị trường. Kỳ hạn thanh toán ngắn hơn lam cho các trái phiếu chuyển đối ít bị biến động hơn, và ngày nay nhiều trái phiếu có đặc tính "phòng vệ đối với biện pháp thu hồi", tức là các đảm bảo nhằm chống lại sự thu hồi sớm. Và trên một nửa các chứng khoán chuyển đổi ngày nay là loại có cấp đầu tư, một sự cải thiện đáng kế về chất lượng tín dụng so với thời của Graham. Như vậy, trong năm 2002, chỉ số chứng khoán chuyển đối toàn nước Mỹ của Merrill Lynch đã mất 8,6%, so với mức giảm 22,1% của chỉ số chứng khoán s & p 500 và mức giảm 31,3% của chỉ số chứng khoán tổng hợp NASDAQ.

[412]. Một trái phiếu bị "thu hồi" khi công ty phát hành nó cố tình thanh toán trước khi nó đến kỳ hạn thanh toán đã được công bố, hay trước thời hạn cuối cùng phải trả lãi. Để xem một tóm tắt ngắn gọn về việc các trái phiếu chuyên đối hoạt động thế nào, xin xem chú thích đầu tiên trong bình luận về chương này (trang 468).

[413]. Trong những năm gần đây, các chứng khoán chuyển đối dường như là cho kết quả tốt hơn so với chỉ số chứng khoan s & p 500 trong giai đoạn các thị trường chứng khoán đi xuống, song chúng thường cho kết quả kém hơn so với các trái phiếu khác. Điều này làm suy yếu, song không bác bo hoàn toàn, phê phán mà Graham nêu ờ đây.

[4141. Câu này có thể được dùng như một tấm văn bia cho thị trường lên giá của những năm 1990. Trong "một vài nguyen tắc khôn ngoan" mà nhà đầu tư quên mất có những câu quen đến nhàm của thị trường như "Cây không mọc cao đến tận trời" và "bò (thị trường giá lên) làm ra tiền, gấu (thị trường giá xuống) làm ra tiền, còn lợn thì bị làm thịt".

[4151. Quyền của cổ đông được giữ tỷ lệ vốn của mình trong công ty không đối mỗi khi công ty tăng vốn, bằng cách được đãng ký mua thêm cổ phieu. Con gọi là quyền ưu tiên mua trước (preemptive right). Quyen này có thể tách khỏi cổ phiếu ban đằu và được mua bán độc lập. (Chủ thich cùa người dịch vã Ban biên tập tiếng Việt).

[4161. Công ty AT&T không còn là một nhà phát hành lớn các trái phiếu chuyên đổi. Trong số các nhà phát hành trái phiếu chuyên đổi lớn nhất ngày nay có General Motors, Merrill Lynch, Tyco International và Roche.

[417]. Để có được phân tích sâu hơn về kết quả tài chính "dự toán theo lệ", xin hãy xem bình luận về chương 12.

[418]. Trong những năm gằn đây, các trái phiếu chuyển đối được phát hành rất nhiều bởi các công ty trong ngành tài chính, y tế và công nghệ.

[4191. Lưu ý rằng vào cuối năm 1971, cổ phiếu thường của Studebaker-Worthington được bán ở mức giá thấp là 38 đô la trong khi cổ phiếu ưu đãi 5 đô la được bán ở mức giá khoảng 77 đô la. Khoản chênh lệch như vậy dã tăng từ 2 lên 20 điếm trong năm đó; một lằn nữa lại minh họa thêm cho sự đáng ước ao của những hoán đổi như vậy cũng như là xu hướng của thị trường chứng khoán phớt lờ tính toán số học (một cách ngẫu nhiên, mức trên giá ít ỏi của cổ phiếu ưu đãi so với cò phiếu thường trong tháng 12/1970 đã được tạo nên từ mức cổ tức cao hơn của nó). (Chúthich của tác giã).

[4201. Chứng chỉ quyền mua là một kỹ thuật cực kỳ phổ biến trong tài chính doanh nghiệp vào thế kỷ 19 và tương đối phổ biến thậm chívao thời Graham. Từ đó trở đi; chúng đã bị giảm bớt tầm quantrọng và sự ưa chuộng, đó là một trong số ít các diễn biến mới đây mà có lẽ sẽ mang lại cho Graham một sự hài lòng hoàn toàn. Tại thời điếm cuối năm 2002, chỉ còn lại có bảy phát hành chứng chỉ quyền mua tại sở Giao dịch Chứng khoán New York, đó chỉ là vết tích bóng ma của một thị trường xưa kia. Do các chứng chỉ quyền mua không còn được các công ty lớn sử dụng một cách rộng rãi nữa, các nhà đầu tư ngày nay nên đọc hết phần còn lại trong chương này của Graham chỉ nhằm để hiểu được tư duy logic của ông đã hoạt động thế nào.

[4211. Ngày nay, tàn dư cuối cùng của hoạt động về chứng chỉ quyền mua nằm ở thùng tự hoại của "bảng yết thị" NASDAQ, tức là thị trường phi tập trung cho các công ty tí hon, nơi mà cổ phiếu thường hay được kèm với các chứng chỉ quyền mua để tạo thành một "đơn vị" (tương đương với cái mà Graham gọi là một "gói"). Nếu một nhà môi giới một khi nào đó chào mời để bán cho bạn các "đơn vị" của một công ty nào đó; bạn có thể tin chắc đến 95% là trong gói đó sẽ có các chứng chỉ quyền mua kèm theo, và tin chắc ít nhất là 90% rằng người môi giới đó hoặc là một tên ăn trộm, hoặc là một thằng ngốc. Bởi các nhà môi giới và các công ty môi giới đích thực không có việc gì để làm trong ỉính vực này.

[4221. Đồng " a-xi-nha Pháp khét tiếng" được phát hành trong cuộc Cách mạng 1789. Ban đằu, chúng là các món nợ của Chính quyền Cách mạng, được đảm bảo một cách công khai bằng giá trị của bất động sản mà những người cấp tiến đã chiếm được từ Giáo hội Công giáo và giới quý tộc. Song những người Cách mạng là các nha quan lý tài chính tồi. Vào năm 1790, lãi suất đối với a-xi-nha bị cắt giảm; chẳng bao lâu sau đó; người ta đã ngừng hoàn toàn việc trả lãi và a- xi-nha được định loại lại thành tiền giấy. Song Chính quyền Cách mạng đã từ chối đổi lại chúng bằng vàng hoặc bạc và lại phát hành thêm một số lượng lớn tiền giấy a-xi-nha mới. Chúng được tuyên bố chính thức là vô giá trị vào năm 1797.

[423]. Graham, một bạn đọc hăng hái của văn học Tây Ban Nha, đã lấy ý một câu trong vở kịch Cuộc đời là một giấc mơ của Pedro Calderon de la Barca (1600- 1681): 'Tội lỗi lớn nhất của con người là đã được sinh ra".

[424]. Như một ví dụ ngắn về việc các trái phiếu chuyển đối đã hoạt động như thế nào trong thực tế, hãy xem xét các kỳ phiếu chuyển đối hạng thấp (convertible subordinated note) 4,75% được công ty Doubleclick Inc. phát hành năm 1999. Các kỳ phiếu chuyển đổi này trả 47,50 đô la tiền lai một nam và mỗi kỳ phiếu được chuyển đổi thành 24,24 cổ phần loại co phiếu thường của công ty, tức là "tỷ số chuyển đổi" bằng 24,24. Tại thời điểm cuối năm 2002, cổ phiếu của Doubleclick_có giá là 5,66 đô la trên một cổ phiếu, mang lại cho mỗi trái phiếu một "giá trị chuyển đổi" là 137,20 đô la (5,66 đo la X 2424). Nhưng trái phiếu lại được giao dịch cao gấp khoảng 6 lằn mức nói trên, ở mức 881,30 đô la, tạo ra một mức "trên giá chuyển đối", tức là phần cao hơn giá trị chuyển đối, là 542%. Nếu bạn mua vào tại mức giá đó; "thời gian hòa vốn", tức là "giai đoạn hoàn vốn đằu tu" của bạn là rất dài (bạn đã trả nhiều hơn giá trị chuyển đổi của trái phiếu khoảng 750 đô Ịa; do vậy phải mất gần 16 năm trả lãi 47,50 đô la mỗi năm thì bạn mới có thể "thu lại" được khoản tiền trên giá chuyển đổi đó). Do mỗi một trái phiếu Doubleclick chỉ chuyển đổi được hơn 24 cổ phiếu thường một chút, cố phiếu này sẽ phải tăng giá từ 5,66 đô la lên hơn 36 đô la nếu muốn quyền chuyển đổi trở thành một hợp đồng quyền mua thực sự trước khi các trái phiếu đo đáo hạn vào năm 2006. Mức sinh lợi cổ phiếu như vậy không thể có được, mà nó nằm trên biên giới của phép màu. Mức lợi tức tiền mặt đối với trái phiếu cụ thể này rất hiếm khi có vẻ phù hợp, nếu xét đến việc xác suất xảy ra chuyển đổi rat thấp.

[425]. Cũng giống như nhiều sổ sách theo dõi khác được trích dẫn tại Phố Wall, trích dẫn này có tính giả thuyết. Nó cho thấy mức sinh lợi mà bạn có thể kiếm được tại một quỹ chỉ số ảo sở hữu tất cả các trái phiếu chuyên đối quan trọng. Nó không bao gồm bất kỳ phí quan lý hoặc chi phí giao dịch nào (là khá lớn đối với các chứng khoán chuyên đổi). Trong thế giới thực, mức sinh lợi của bạn sẽ phải thấp hơn vào khoảng 2 điẽm phần trăm.


Каталог: file -> downloadfile6 -> 161
downloadfile6 -> Họ và tên sinh viên: Trần Thị Mỹ Hằng Mã sinh viên: 0851015561
downloadfile6 -> Thế giới an ninh- thiết lập hệ thống camera quan sát với card ghi hình Hệ thống Demo bao gồm
downloadfile6 -> 1 Giới thiệu adc 0809
161 -> BÀi giảng quản trị ngân hàng 2
downloadfile6 -> HUỲnh duy khánh các công thức tính thể TÍCH
downloadfile6 -> Dạng 1: Tính các đại lượng cơ bản (công thoát A, v0max, P, ibh, Uh, H…)
downloadfile6 -> Ách đỌc tên latinh đỗ Xuân Cẩm Giảng viên Đh huế
downloadfile6 -> I. TỔng quan về vqg tràm chim vị trí địa lý
161 -> ĐẠi họC ĐÀ NẴng trưỜng đẠi học kinh tế khoa tài chính ngân hàng  bt nhóm môn thanh toán quốc tế

tải về 3.49 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   34   35   36   37   38   39   40   41   42




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương