Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX
40
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
1. Cuộc đời và sự nghiệp
Trong
tiến trình vận động của văn học Việt Nam giai đọan cuối thế kỷ
XIX, Nguyễn Đình Chiểu giữ một vị trí rất quan trọng. Ông là nhà văn có
ảnh hưởng sâu rộng đối với sự phát triển của văn học dân tộc nói chung, văn
học Nam bộ nói riêng.
Nguyễn Đình Chiểu sinh ngày 1 tháng 7 năm 1822 (Nhâm Ngọ) tại
Gia Định. Tên chữ của ông là Mạnh Trạch, hiệu là Trọng Phủ và Hối Trai.
Thân
phụ của Nguyễn Đình Chiểu là Nguyễn Đình Huy, nguyên quán
ở huyện Hương Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nguyễn Đình Huy từng phục vụ
dưới trướng Tả quân Lê Văn Duyệt trong nhiều năm; từ lúc tướng quân họ
Lê còn làm quan ở kinh đô cũng như khi được điều vào làm Tổng trấn Gia
Định. Sau khi Lê Văn Duyệt chết, vào thời điểm nổ ra cuộc bạo động chống
lại triều đình do Lê Văn Khôi (vị con nuôi của quan Tổng trấn) cầm đầu vào
năm 1833, Nguyễn Đình Huy sợ bị liên lụy phải bỏ cả gia đình chạy về kinh.
Một thời gian sau đó, ông trở về Nam tìm cách đưa Nguyễn Đình Chiểu ra
Huế và gửi nhờ gia đình một người quen.
Sau
một thời gian khá dài nương náu ở Huế, năm 1840, Nguyễn Đình
Chiểu quay về Gia Định sống với mẹ (bà Trương Thị Thiệt, vợ lẽ của
Nguyễn Đình Huy) và dùi mài kinh sử chờ ngày thi. Khoa Kỷ Mão (1843),
Nguyễn Đình Chiểu đậu Tú tài ở trường thi Gia Định. Năm đó ông mới
ngoài hai mươi tuổi. Ba năm sau, ông ra Huế chờ dự kì thi Kỷ Dậu (1849),
nhưng chưa kịp dự thi thì nhận được tin mẹ mất, phải trở về Nam để cư tang.
Trên đường hồi Nam, ông ốm nặng, sau đó bị mù.
Trong
khoảng thời gian từ 1853 - 1854, ông sống tại Gia Định cùng
với vợ (bà Lê Thị Điền); mãi cho đến khi thành này thất thủ vào tay người
Pháp thì ông về trú ngụ tại làng
Thanh Ba, Cần Giuộc (nay thuộc tỉnh Long
An). Kể từ 1862 trở đi, khi triều Nguyễn ký Hiệp ước cắt 3 tỉnh miền Đông