Nghiên cứu sinh nguyễn khánh tưỜNG



tải về 5.13 Mb.
trang23/30
Chuyển đổi dữ liệu13.05.2018
Kích5.13 Mb.
#38255
1   ...   19   20   21   22   23   24   25   26   ...   30

Bảng 3.8 Kết quả dự báo số lượng giảng viên ngoài công lập đến năm 2020

Năm

TEANP

(giảng viên)



Năm

TEANP

(giảng viên)



2013

12363

2017

13805

2014

12808

2018

14050

2015

13191

2019

14260

2016

13521

2020

14441

Việc quản lý giảng viên các trường tư thục theo tính toán với quy mô như trên, cần đòi hỏi sự công bằng như ở các trường công và dựa trên thỏa thuận theo hợp đồng lao động thuần túy, có chế độ thu hút giảng viên đối với loại hình trường này do số lượng quá ít theo dự báo so với số sinh viên ngoài công lập. Kết quả dự báo cho thấy đến năm 2012 số lượng sinh viên sẽ tăng không đáng kể so với quy mô sinh viên. Điều đó cho thấy cần phải thay đổi chính sách thu hút giảng viên, thay đổi nội dung và phương thức quản lý giảng viên là vấn đề cấp thiết. Sự thay đổi cần tập trung vào các mặt: i) quản lý đội ngũ giảng viên dựa tiêu chuẩn chuyên môn, khoa học, việc làm và đạo đức nghề nghiệp; ii) thực hiện chính sách thu hút giảng viên trên cơ sở bình đẳng, iii) tăng cường chế độ hợp đồng; iv) tiêu chuẩn hóa xét và công nhận chức danh khoa học; v) đảm bảo tự chủ học thuật; và vi) bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cán bộ trường đại học

Trước hết, quản lý giảng viên đại học cần dựa trên bốn nguyên tắc: năng lực chuyên môn, thành tích khoa học, việc làm và đạo đức nghề nghiệp. Thực ra nguyên tắc việc làm cũng bao hàm cả hai nguyên tắc là năng lực chuyên môn và thành tích khoa học. Nguyên tắc về năng lực chuyên môn đòi hỏi chính sách tuyển chọn, sử dụng hay đào tạo bồi dưỡng giảng viên phải dựa trên tiêu chuẩn năng lực chuyên môn thống nhất. Nguyên tắc thành tích khoa học đòi hỏi việc đánh giá giảng viên phải dựa trên kết quả nghiên cứu khoa học. Nguyên tắc việc làm đòi hỏi thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, tạo cơ hội bình đẳng và cạnh tranh trong giảng dạy và nghiên cứu. Nguyên tắc đạo đức đòi hỏi có sự khuyến khích giảng viên giữ gìn đạo đức nghề nghiệp. Nhà nước cần đảm bảo các nguyên tắc này được tôn trọng trong mọi chính sách quản lý và phát triển đội ngũ giảng viên. Nhất là sớm xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chuyên môn và nghề nghiệp giảng viên đại học để làm cơ sở pháp lý cho QLNN.

Về chính sách thu hút giảng viên trường tư thục, Nhà nước cần thực hiện chính sách thống nhất về đầu tư và phát triển giảng viên, không có sự phân biệt giữa các loại hình trường đại học công hay tư, tạo điều kiện thuận lợi để giảng viên các trường tư thục yên tân công tác. Điều đó là minh chứng thêm rằng cần phải xây dựng luật giảng viên trong thời gian tới.

Về quản lý lao động, cần khuyến khích việc thực hiện hợp đồng lao động dựa trên sự thỏa thuận mức lương và cam kết trách nhiệm rõ ràng đối với mọi loại hình trường đại học. Đồng thời, có chính sách khuyến khích lao động sáng tạo của giảng viên. HĐQT cần trao quyền cho các hiệu trưởng trường tư thục thực hiện vai trò của người sử dụng lao động, được điều động, sa thải giảng viên vi phạm hợp đồng lao động. Song song đó, cần tăng cường biện pháp thanh tra, kiểm tra quản lý và sử dụng lao động.

Về quyết định chức danh khoa học, Nhà nước cần cho phép các trường được quyết định chức danh khoa học và sư phạm theo tiêu chuẩn của trường và quy định chung của Nhà nước. Để tránh việc quyết định chức danh tràn làn, làm tăng chi trả lương, cần khống chế tỷ lệ người được bổ nhiệm các chức danh khoa học (dựa trên quy mô sinh viên và giảng viên cơ hữu).

Để bảo đảm quyền tự chủ học thuật của các giảng viên (cho cả các nhà nghiên cứu và sinh viên), Nhà nước cần thực hiện đồng bộ các chính sách khuyến khích và bảo vệ như: quyền tự do ngôn luận, quyền về thông tin, quyền theo đuổi nghiên cứu khoa học v.v… không chỉ trên lý thuyết mà còn phải trên thực tế. Nhà nước cần có quy định khuyến khích các giảng viên được trình bày các môn học theo ý kiến của mình, lựa chọn và thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học theo phương pháp của mình. Các sinh viên được chủ động hơn trong việc tiếp thu kiến thức theo cách nghĩ và nhu cầu của mình. Việc truyền bá tri thức cần phải được khẳng định là thực hiện một nhiệm vụ (được giao) chứ không phải quyền cá nhân thuần túy, vì vậy không thể “lơi lỏng” nhiệm vụ mà mình gánh vác. Cần phân định rõ phạm vi tự chủ học thuật mang tính thảo luận khoa học và tự chủ học thuật trong truyền bá tri thức mà giảng dạy là đơn cử. Thực tế cũng cho thấy tự chủ học thuật là cần thiết nhưng nó cũng không mang tính tuyệt đối. Cũng như quyền tự chủ, nó phải thể hiện tính xã hội tích cực phù hợp với từng khung cảnh nhất định.

Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của giảng viên trường đại học cao đẳng tư thục thì Nhà nước cần tăng cường và phát huy vai trò của tổ chức công đoàn giáo dục, khuyến khích thực hiện thỏa ước lao động tập thể, thông qua sức mạnh tập thể giảng viên thương lượng đạt lợi ích cao hơn quy định của pháp luật. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan QLNN về lao động trong việc bảo vệ pháp chế lao động, thông qua các công tác giám sát và xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật lao động. Đảm bảo việc tuân thủ nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong dịch vụ giáo dục thông qua thúc đẩy và giám sát việc tổ chức hội nghị dân chủ trong nhà trường một cách thực chất.

3.2.4.3. Hoàn thiện công tác quản lý tài chính đối với khu vực giáo dục đại học cao đẳng tư thục

Trong công tác quản lý tài chính Bộ GD&ĐT cần định hướng các trường đại học tư thục hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự quyết và tự chịu trách nhiệm một cách rõ ràng cụ thể hơn, các trường toàn quyền chủ động trong khâu thu chi nhằm duy trì các hoạt động và phát triển nhà trường. Được quyền vay vốn của các tổ chức tín dụng và các tổ chức cá nhân khác trong và ngoài nước để đầu tư mở rộng cơ sở vất chất, nâng cao chất lượng đào tạo.

Về nguồn thu của trường đại học cao đẳng tư thục Bộ GD&ĐT cần hướng các trường tăng cường nguồn thu từ các hoạt động liên kết đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, khuyến khích các trường thu từ các nguồn tài trợ, viện trợ, ủng hộ quà tặng của các tổ chức cá nhân, với các trường đại học tư nhân ở nước ngoài đặc biệt là ở Hoa Kỳ thì nguồn thu này chiếm tỷ trọng rất lớn.

Giải pháp thứ nhất là trong tình hình hiện nay các trường đại học cao đẳng tư thục vẫn hoạt động theo cơ chế lợi nhuận là chủ yếu, điều đó có thể khẳng định rằng các trường sẽ hoạt động làm sao để bù đắp chi phí và hoạt động kinh doanh có lãi giống như các doanh nghiệp, đây là điểm khác biệt cơ bản giữa các trường tư nhân ở nước ngoài với trường tư thục ở Việt Nam. Để giúp cho các trường tư thục hoạt động không vì lợi nhuận thì các trường phải quan tâm đến nguồn thu như đã phân tích ở trên, các trường phải tìm cách tăng cường thu nhập bằng việc liên kết chặt chẽ với các tổng công ty, các doanh nghiệp để những đơn vị này tài trợ cho trường, có như vậy thì trường đại học cao đẳng tư thục mới thoát khỏi cơ chế hoạt động vì lợi nhuận mà từ đó nâng cao được chất lượng đào tạo.

Giải pháp thứ hai là để tăng nguồn thu, các trường tư thục phải xây dựng mức khung học phí cho phù hợp với từng thời điểm, phù hợp với từng ngành nghề đào tạo, có cơ chế thu linh hoạt như thu theo tín chỉ, thu theo học kỳ để giảm bớt gánh nặng cho những người có thu nhập thấp.

Giải pháp thứ ba là cần tranh thủ các nguồn vốn vay ưu đãi, vì đây là nguồn có thể huy động được nhiều đề thực hiện tái đầu tư nhằm nâng cao chất lượng đào tạo trong trường.

Trong sử dụng nguồn thu cần triệt để giành cho chi phí có liên quan trực tiếp đến công tác đào tạo, đi sâu vào chi phí thực hiện tái đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả của nguồn kinh phí. Không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản nhằm tránh hiện tượng hao mòn vô hình của các tài sản sử dụng.

Đối với tài sản, nếu đây là tài sản thuộc phần vốn góp của các nhà đầu tư và tài sản tăng thêm trong quá trình hoạt động thì phải được chia lãi theo một tỷ lệ hợp lý nhằm khuyến khích các nhà đầu tư. Nếu tài sản của trường đại học tư thục là phần vốn góp của các tổ chức xã hội từ thiện thì khuyến khích các tổ chức này không sử dụng lợi nhận có được. Do vậy trong bản thân mỗi trường tư thục cũng cần làm rõ cơ chế lợi nhuận và phi lợi nhuận cho các tổ chức, cá nhân góp vốn đầu tư.

Tình hình hiện nay tài sản đầu tư của các trường tư thục thường rất khiên tốn, để đảm bảo điều kiện cơ sở vật chất trong đào tạo, Nhà nước cần quy định cụ thể về mức vốn điều lệ cho một trường đại học cao hơn nữa, có tính đến ngành nghề đào tạo và hệ số lạm phát của nền kinh tế để có sự thay đổi cho phù hợp. Hiện tại với mức vốn là 50 tỷ VND cho một trường đại học là tương đối khiêm tốn, vì nến các trường có mở những ngành như công nghệ vật liệu mới, ngành y khoa, ngành kỹ thuật nói chung thì khoản vốn này sẽ không đủ đầu tư để phục vụ cho quá trình đào tạo, do vậy cần quy định lại mức vốn điều lệ ban đầu khi thành lập trường.

Việc tạo điều kiện về quỹ đất, về nghĩa vụ nộp ngân sách cũng là vấn đề cần quan tâm và nhà nước cần tạo điều kiện hơn nữa để các trường có đủ quỹ đất trong đầu tư, nên giao quỹ đất sạch cho trường tránh tình trạng giao đất sau đó để nhà trường tự tiến hành thương thảo đền bù giải tỏa dẫn đến công tác đền bù giải phóng mặt bằng của một số trường gặp rất nhiều khó khăn. Nhà nước cần có cơ chế ưu đãi cho những trường tư thục hoạt động phi lơi nhuận, đảm bảo cho các loại hình trường này hoạt động có hiệu quả. Để lành mạnh hóa hoạt động của các trường cần thực hiện ba công khai theo Thônh tư số 09/2009/TT-BGDĐT.

Một vấn đề hiện nay được các trường đại học cao đẳng tư thục đang rất quan tâm, đó là việc định giá tài sản khi chuyển đổi mô hình từ dân lập sang tư thục. Bộ GD&ĐT cần có văn bản hướng dẫn định giá tài sản trước, trong và sau quá trình chuyển đổi, trong đó đặc biệt chú ý đến việc định giá tài sản vô hình. Theo chúng tôi vấn đề này cần có cơ quan chuyên trách để việc thẩm định minh bạch và chính xác các giá trị tài sản và quyền sở hữu tài sản trước khi chuyển đổi mô hình.

Hoàn thiện chính sách tài chính là biện pháp bao quát và quan trọng. Về tổng thể, cần hướng tới việc huy động được tối đa các nguồn lực, nâng cao hiệu quả đầu tư và thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh. Đây là biện pháp tất yếu và khách quan để giải quyết bài toán đại chúng hóa GDĐH-CĐ trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Nó không chỉ nhằm bảo đảm tự chủ tài chính cho trường ngoài công lập mà còn cho cả các trường công lập. Đổi mới chính sách tài chính cần tập trung vào các mặt dưới đây:

Thứ nhất, đa dạng hóa thu nhập từ các nguồn thu, các chương trình chia sẻ chi phí khác như thu học phí, cho sinh viên vay, quyên góp và tặng cho của doanh nghiệp hay cực sinh viên v.v.... Áp dụng chính sách tích cực này giúp giải quyết bài toán kép, một là, giảm sự lệ thuộc của trường đại học cao đẳng tư thục vào một nhà tài trợ (nếu có); hai là, có đủ kinh phí hoạt động cho nhà trường.

Nhà nước cũng cần có chính sách khuyến khích sự đóng góp, tặng cho của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất hay tổ chức từ thiện cho trường đại học cao đẳng tư thục. Sự khuyến khích có thể được thực hiện qua các quy định về miễn giảm hay khấu trừ thuế v.v...

Kết quả khảo sát các nhà quản lý giáo dục Việt Nam qua Bảng 3.5, Mục 4, cho thấy tầm nhìn về việc mở rộng các nguồn thu ngoài NSNN với hơn 90% ý kiến (M=3,02) nhất trí (tăng và tăng đáng kể) mặc dù có ít ý kiến (9%) do dự về khả năng chia sẻ tài chính.

Thứ hai, khuyến khích sự tham gia của các nhà cung cấp dịch vụ giáo dục ngoài nhà nước. Điều này không chỉ để thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục mà còn giúp đa dạng nguồn lực. Sự tham gia của nhiều nhà cung cấp dịch vụ GDĐH-CĐ sẽ thúc đẩy sự cạnh tranh, làm giảm chi phí đơn vị và nâng cao chất lượng giáo dục.

Thứ ba, cần phân biệt rõ giữa loại trường vì lợi nhuận và không vì lợi nhuận trong ban hành và thực thi chính sách liên quan đến tài chính thay vì chỉ phân biệt theo hình thức sở hữu như hiện nay. Đồng thời, phải hạn chế sự phân tầng chất lượng đào tạo khi thực thi việc trao quyền tự chủ tài chính và người nghèo khó có thể tiếp cận tầng có chất lượng cao hơn.

Thứ tư, tạo thuận lợi để các trường, nhất là các trường tư thục, quyết định linh hoạt các vấn đề tài chính. Việc không làm chủ nguồn lực và quá trình làm cho các trường đại học khó thực hiện việc cải thiện chất lượng và hiệu quả. Các trường cần được trao quyền sử dụng ngân sách linh hoạt đối với hầu hết các tiêu chí chi tiêu. Nhất là tự đa dạng nguồn thu nhập và sử dụng có hiệu quả nguồn lực. Nhà nước để các trường thực hiện quyền tái phân bổ nguồn lực bên trong, cân đối các nguồn tài chính. Được thỏa thuận về lương, tiền công, thưởng, các khoản chi cho giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học. Được quyết định các khoản chi cho thông tin, quan hệ công chúng, hợp tác quốc tế, cả việc chi mua sắm, sửa chữa thường xuyên v.v… Nhất là phát triển nguồn thu nhập phù hợp.

Thứ năm, với tư cách là chủ thể QLNN, Nhà nước cần thực hiện hỗ trợ tài chính (ngoài các khoản chi thường xuyên và không thường xuyên) thống nhất và bình đẳng đối với mọi loại hình trường đại học cao đẳng. Các hỗ trợ tối thiểu cần có là cho sinh viên vay, cấp học bổng cho sinh viên và cho cán bộ đi tu nghiệp, tài trợ khuyến khích đối với các hoạt động góp phần cải thiện chất lượng đào tạo và nghiên cứu, tài trợ nghiên cứu cơ bản, miễn giảm thuế, ưu tiên trong quy hoạch đất xây trường v.v...

Việc giảm bớt quản lý tài chính tập trung, trao quyền tự chủ tài sản đầy đủ hơn sẽ giúp các trường có thể tìm ra cách thức tài trợ và thu nhập mới, mở ra các khả năng sử dụng các nguồn tài trợ cả công và tư. Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi là việc tạo thu nhập không ảnh hưởng xấu đến sự tự chủ học thuật và phải đảm bảo những lợi ích tích cực.

3.2.5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, đánh giá hoạt động của khu vực giáo dục đại học cao đẳng tư thục

3.2.5.1. Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo

Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm trước Chính phủ về quản lý nhà nước về giáo dục. Tuy nhiên cần phải phân cấp rõ ràng từng lĩnh vực quản lý các trường tư thục cụ thể:

Bộ cần phải quản lý cái gì, những vần đề gì. Theo quyết định 61/2009/QĐ-TTg thì quy chế có quy định nhưng chỉ mang tính chung nhất, chưa có quy định về quản lý vấn đề gì. Bộ GD&ĐT nên có văn bản hướng dẫn cụ thể trong khâu quản lý nhà nước, phân chia theo ngành nghề đào tạo, theo vùng lãnh thổ để dễ kiểm tra giám sát. Nhà nước cần giao quyền mạnh hơn nữa cho các địa phương trong quản lý hoạt động của các trường đại học cao đẳng tư thục.

Xây dựng và hệ thống hóa trong khâu quản lý các trường đại học cao đẳng tư thục, cùng với hiệp hội các trường đại học cao đẳng ngoài công lập, cần xây dựng mô hình quản lý trong toàn hệ thống, nhằm đảm bảo cho hệ thống vận hành một cách có hiệu quả. Giúp cho cơ quan nhà nước kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các trường đồng thời các trường cũng được chủ động hơn nữa trong hoạt động.

Để công việc quản lý ở các trường thường xuyên và có hiệu quả, Bộ GD&ĐT cần phối hợp với chính quyền địa phương, phân quyền cho các địa phương mà cụ thể là sở giáo dục và đào tạo các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương kiểm tra giám sát hoạt động của các trường tư thục như: Kiểm tra thực hiện chỉ tiêu tuyển sinh, đối tượng tuyển sinh, các báo cáo tài chính, nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước, tình hình các trường xây dựng và thực hiện quy chế tổ chức và hoạt động, quy chế chi tiêu nội bộ; Tình hình thực hiện chất lượng đào tạo theo quy định của Bộ.

Cần khuyến khích trong thời gian tới phát triển mạnh các trường cao đẳng nghề tư thục, trường trung cấp chuyên nghiệp, đẩy mạnh phát triển các trường đại học công nghệ tư thục, để quản lý tốt các loại hình trường này thì cần phải có sự phối hợp thống nhất giữa Bộ GD&ĐT, Bộ LĐTB&XH với UBND các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương. Đồng thời trong quá trình quản lý cần phải thống nhất và phân định rõ trách nhiệm trong việc quản lý, giám sát, kiểm tra các trường đại học cao đẳng tư thục. Bộ cần chủ trì, phối hợp với các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Nội vụ và các cơ quan liên quan tổ chức thẩm định dự án đầu tư thành lập trường và quy chế hoạt động, đồng thời Bộ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về thẩm định giúp Chính phủ ra Quyết định thành lập trường. Hoàn thiện hành lang pháp lý cần thiết để một trường đại học khi được thành lập phải đảm bảo các điều kiện cần thiết khác mới được cấp phép hoạt động giáo dục. Bộ GD&ĐT cần kiểm tra giám sát quy trình điền kiện thủ tục thành lập các trường đại học cao đẳng, đặc biệt là những trường tư thục. Đây là vấn đề cần trú trọng đầu tư đổi mới ở lĩnh vực này, bởi vì để hệ thống các trường tư thục phát triển lành mạnh và đúng hướng, thì cần phải có giải pháp thay đổi sâu sắc và toàn diện cụ thể:

- Trường đại học tư thục chịu sự kiểm tra thanh tra của các cơ quan nhà nước như Bộ giáo dục và đào tạo, Ủy ban nhân dân các tỉnh thành phố nơi trường trú đóng về các vấn đề tuyển sinh, đào tạo, tài chính và các vấn đề có liên quan đến hoạt động của nhà trường tuy nhiên nếu chỉ có hai cơ quan này thưc hiện công tác thanh tra kiểm tra giám sát tất cả các hoạt động của các trường thì sẽ không thể hết được, cần phân và giao quyền cho các Bộ phận trực thuộc cụ thể như Bộ GD&ĐT có thể phân quyền giao cho Sở giáo dục và đào tạo các tỉnh thành phố, các tổ chức trung gian kiểm tra đánh giá một phần trong lĩnh vực đào tạo, chỉ tiêu tuyển sinh, nghiên cứu khoa học….

- Thực hiện công việc kiểm tra chéo giữa các trường với nhau, đây cũng là một hình thực hiện vừa kiểm tra giám sát vừa học hỏi lẫn nhau của các trường, giúp các trường ngày càng hoàn thiện hơn trong các khâu từ tổ chức, đào tạo, tài chính….

- Thực hiện quá trình kiểm tra giám sát của xã hội, của người dân điều này biểu hiện là các trường đại học cao đẳng tư thục khi đào tạo ra những sản phẩm có được xã hội chấp nhận hay không.

- Cuối cùng là sự kiểm tra giám sát của người học, đây cũng là một trong những khâu quan trọng bởi vì nếu cơ sở đào tạo thực hiện không đạt chuẩn, cắt xén giờ giấc, không thực hiện đúng theo chương trình đào tạo đã công khai thì người học có quyền khiếu nại thậm trí là kiện các cơ sở đào tạo không đạt chuẩn.

Hoạt động kiểm tra, giám sát cần được thực hiện trong tiến trình QLNN. Bên cạnh việc đánh giá công tác tổ chức thực hiện các quy định, phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những sai phạm và thiếu sót, các cơ quan kiểm soát cần quan tâm đến khía cạnh tư vấn, hướng dẫn cho các trường đại học cao đẳng. Việc vận dụng các phương thức đánh giá tiên tiến vào quá trình xem xét kết quả và hiệu quả hoạt động của trường đại học là rất cần thiết vì nó làm tăng tính khách quan và sự chuẩn xác khi đưa ra các kết luận hay khuyến nghị. Trong hệ thống tự chủ, việc xử lý các vi phạm đúng mức và nghiêm minh là cần thiết vì nó giúp ngăn chặn sự “lây lan” sai phạm. Nhà nước cũng cần đảm bảo là một trường có thể dự đoán được trách nhiệm pháp lý của mình chứ không phải chỉ trông chờ vào “may rủi” trách nhiệm trong sai phạm.

Cơ quan quản lý cần vận dụng và sử dụng các tiêu chí chủ yếu để đánh giá:

Các tiêu chí cơ bản như: cơ cấu tổ chức hoạt động, kế hoạch tuyển sinh đào tạo, quản lý kiểm định chất lượng, quản lý tài chính tài sản… phần nào đã được phản ánh tại quyết định 61/2009/QĐ-TTg. Các tiêu chí này đã đặt nền móng ban đầu cho việc hình thành phương thức, cơ chế kiểm tra giám sát của nhà nước nhằm định hướng phát triển các trường đại học tư thục. Cần chú trọng đến các lĩnh vực cụ thể:

- Chức năng của nhà nước trong việc thực hiện giám sát và điều chỉnh là giúp cho trường tự quản lý về mặt chuyên môn, về công tác nhân sự của HĐQT, chủ tịch HĐQT. Hiệu trưởng các trường tư thục đều mong muốn có ít đi sự kiểm soát nhưng nhiều hơn về sự hướng dẫn. Hiện nay Chính phủ chỉ đạo Bộ GD&ĐT thực hiện công tác kiểm định chất lượng các trường đại học cao đẳng nhưng có những điểm chưa rõ ràng, nhiều chỉ tiêu còn chung chung. Hiện tại nhà nước chưa có sự giúp đỡ nhằm hỗ trợ cho việc nâng cao năng lực quản lý của các trường đại học cao đẳng tư thục như: Các cơ quan quản lý ít khuyến khích các trường triển khai các giải pháp riêng biệt và đa dạng trong giáo dục đại học, ngược lại thường áp dụng các biện pháp sơ cứng như đối với khu vực công. Thiếu một hệ thống thông tin quản lý cấp hệ thống; các chương trình đào tạo để giúp đỡ các cán bộ quản lý cấp trường có các kỹ năng quản lý cần thiết chưa được triển khai đến khu vực tư thục; ít tạo cơ hội cho các trường đại học cao đẳng tư thục tiếp cận thông tin và học tập kinh nghiệm về cách quản lý tốt nhất ở các trường đại học trong và ngoài nước. Vấn đề này có thể giao cho một đơn vị độc lập triển khai để đảm bảo việc chuyên môn hóa.

- Ở cấp độ quốc gia nhà nước nên đưa ra giải pháp cụ thể hóa trong chương trình hành động đối với sự phát triển của đại học cao đẳng tư thục, ngoài ra cũng cần có cơ chế giám sát rõ ràng để tạo ra được sự phối hợp hoạt động của các cơ sở đào tạo với sự giám sát của các bộ ngành, địa phương. Mâu thuẫn giữa nhu cầu nguồn nhân lực của đất nước với nhu cầu xã hội về học vấn đại học hiện tại chỉ dựa vào tín hiệu của thị trường lao động mang tính ngắn hạn, đã ảnh hưởng nhiều đến việc mở ngành nghề đào tạo ở các trường đại học tư thục. Về lâu dài tác động của mâu thuẫn này có thể gây ra sự mất cấn đối về cơ cấu nguồn nhân lực và có thể dẫn đến sự thiếu ổn định cho một số ngành đào tạo. Điều này đang đòi hỏi ở các cơ quan nhà nước phải có những thông tin kinh tế xã hội về thị trường lao động để dự báo và đưa ra các khuyến nghị về yêu cầu số lượng và cơ cấu nguồn nhân lực để cho khu vực đại học cao đẳng tư thục đáp ứng. Các thông tin của nhà nước về nhu cầu nhân lực sẽ định hướng và giúp cho việc xác định các mục tiêu, giải pháp mang tính chiến lược.

Luật giáo dục, các văn bản dưới luật mới chỉ tạo ra khung pháp lý cho khu vực dân lập và tư thục hoạt động, chưa tạo thành những tiêu chuẩn cơ bản và cụ thể để giám sát vì các quy định còn chung chung, thiếu sự thống nhật trong việc kiểm tra giám sát, các văn bản dưới luật cũng chỉ ban hành chung chung, chưa ban hành cụ thể cơ chế kiểm tra giám sát các trường tư thục.

- Hệ thống ĐH-CĐTT hiện nay ở nước ta bị buông lỏng quản lý vĩ mô, cho nên đã có những hạn chế, cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước thì thiếu thông tin của khu vực tư thục, không thể giám sát hoặc điều phối ở khu vực này. Khả năng duy trì sự tăng trưởng và phát triển của khu vực GDĐHCĐTT tùy thuộc vào phần lớn nhà nước có phát triển được những chính sách khuyến khích, cơ chế giám sát cụ thể đi kèm để khu vực này đóng góp ngày càng nhiều vào công cuộc đổi mới quản lý giáo dục hay không, việc kiểm tra cần thực hiện với các nội dung cơ bản sau:



Một là: Việc thẩm định các điều kiện để mở ngành, tuyển sinh phải tiến hành tại cơ sở giáo dục, không thẩm định chỉ dựa vào hồ sơ.

Hai là: Tất cả các trường bắt đầu tuyển sinh thì 3 năm liên tục sau đó phải được kiểm tra và xử lý sai phạm nếu có.

Ba là: Cơ quan kiểm tra các trường chủ yếu không phải là Bộ GDĐT mà là UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ, các Sở GDĐT. Chính phủ giao cho UBND cấp tỉnh, thành phố tham gia kiểm tra, quản lý các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn.

Bốn là: Các trường phải thực hiện “3 công khai” từ đó hàng ngàn, hàng vạn sinh viên và gia đình, hàng trăm thầy cô giáo sẽ tự giám sát trường của mình. Trường nào có các ngành chưa đảm bảo các điều kiện yêu cầu để được phép mở ngành thì không được phép đào tạo ngành đó.

Năm là: Thực hiện quy chế đánh giá và kiểm định chất lượng bắt buộc đối với các trường đại học, cao đẳng thực hiện việc sinh viên tham gia đánh giá giảng viên qua môn học, triển khai việc giảng viên, cán bộ, công chức trong trường đánh giá định kỳ lãnh đạo các khoa và nhà trường.

Sáu là: Hoàn thiện và xây dựng bổ sung các văn bản pháp quy, trong đó quy định rõ các hình thức chế tài theo nguyên tắc tăng dần như sau: giảm chi tiêu đào tạo của chuyên ngành, dừng đào tạo đối với chuyên ngành, tạm dừng tuyển sinh đối với trường và cuối cùng là chấm dứt hoạt động, giải thể trường.

3.2.5.2. Đối các UBND các tỉnh, thành phố, các bộ ngành có liên quan

Trường đại học tư thục còn chịu sự kiểm tra thanh tra của các cơ quan nhà nước như Ủy ban nhân dân các tỉnh thành phố nơi trường trú đóng về tất cả các vấn đề có liên quan đến hoạt động của nhà trường, tuy nhiên nếu chỉ có hai cơ quan này thưc hiện công tác thanh tra kiểm tra giám sát thì sẽ không thể hết được, hai cơ quan này cần phân và giao quyền cho các bộ phận trực thuộc cụ thể như Bộ GD&ĐT giao cho Sở giáo dục và đào tạo các tỉnh thành phố kiểm tra một phần theo sự chỉ đạo của Bộ.

- Có chế tài bắt buộc các trường đại học cao đẳng tư thục phải: Thứ nhất là thực hiện thường xuyên tự thanh tra kiểm tra nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo theo quy định, coi đây là vấn đề sống còn của nhà trường, thực hiện kiểm tra giám sát ngay cả trước, trong và sau quá trình đào tạo. Thứ hai thực hiện công tác kiểm tra giám sát của nhiều ban ngành với chức trách nhiệm vụ được phân công theo đúng công việc được phân công.

- Có cơ chế phân quyền rõ ràng cho hai cơ quan:

Bộ GD&ĐT kiểm tra từ công tác chuẩn bị cơ sở vật chất, thi tuyển, xét tuyển đầu vào, đến mục tiêu chương trình đào tạo, công tác thi và kiểm tra có đúng quy chế hay không, cấp phát phôi bằng chứng chỉ…

Ủy ban nhân dân các tỉnh thành phố mà thực hiện công tác thanh kiểm tra chỉ tiên tuyển sinh, quá trình thực hiện đào tạo có đảm bảo quỹ thời gian theo mục tiêu chương trình hay không, số lượng và trình độ đội ngũ giảng viên có theo quy định hay không. Nhà nước cần phân quyền mạnh hơn nữa trong thanh tra, kiểm tra các Trường đại học cho địa phương nhằm giảm bớt gánh nặng cho cơ quan quản lý nhà nước.

- Hiện nay vai trò quản lý nhà nước của các Bộ khác có liên quan trong quản lý khu vực GDĐHCĐTT rất mờ nhạt, chủ yếu chỉ thực hiện trong khâu thẩm định thành lập trường. Trong quá trình hoạt động của các trường, những cơ quan này hầu như không có vai trò gì về quản lý nhà nước. Do vậy các trường đại học, cao đẳng tư thục không cần phải chịu sự quản lý nhà nước của các bộ ngành này. Nhà nước cần phân rõ trách nhiệm QLNN giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố. UBND các tỉnh nên giao cho các cơ quan chuyên môn quản lý về từng lĩnh vực. Ví dụ Sở GD&ĐT quản lý về lĩnh vực đào tạo, Sở Tài chính quản lý về lĩnh vực nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước của các trường tư thục, sở nội vụ quản lý về lĩnh vực tổ chức ….



3.2.5.3. Vai trò của Hiệp hội các trường đại học cao đẳng ngoài công lập

Sự đóng góp của các tổ chức trung gian này trong quản lý chỉ đạo HTGDĐH-CĐTT còn nhiều hạn chế, xuất phát từ tôn chỉ mục đích của những tổ chức này được thành lập là nhằm bảo vệ quyền lợi của hệ thống giáo dục đại học trong đó có các trường đại học cao đẳng tư thục. Tuy nhiên để cho hệ thống phát triển lành mạnh và có hiệu quả hơn, các tổ chức này cũng cần đóng góp vai trò nhất định trong quản lý, tư vấn, định hướng đối với các trường. Trong thời gian vừa qua, một vài trường NCL có những bất ổn trong tổ chức, có những khiếm khuyết trong quản lý đào tạo, để lại một số ấn tượng không tốt trong xã hội nên cần phải chấn chỉnh kịp thời. Hiệp hội cần bảo vệ quyền lợi cho các trường dân lập, tư thục nhằm giảm bới khó khăn trong tuyển sinh, giúp các trường xây dựng hành lang pháp lý đủ mạnh có sự trang tranh bình đẳng với các trường công lập.

Hiệp hội NCL trong thới gian tới cấn phải có ý kiến mạnh mẽ nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các trường dân lập, tư thục như:

- Kiến nghị với Chính phủ các vấn đề về tuyển sinh, tạo điều kiện cải thiện cơ sở vật chất, có biện pháp thiết thực để thu hút các nhà đầu tư... nhằm phát huy ưu thế cơ bản của trường tư thục như: độc lập về tài chính, độc lập về lao động, trong đó có lao động quản lý, lao động giảng dạy và các lao động khác.

- Phải làm cho cộng đồng xóa bỏ định kiến của xã hội luôn cho rằng vào trường tư thục là kém chất lượng, không có cơ hội tìm việc làm. Điều này được trả lời minh chứng cụ thể bằng việc rất nhiều trường tư thục, sinh viên tốt nghiệp ra làm được việc, không qua đào tạo như Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, Đại học Thăng Long, Đại học Dân lập Hải Phòng, Đại học Duy Tân, Đại học Quốc tế miền Đông...

- Có tiếng nói quyết liệt trong việc mở ồ ạt các trường ĐH-CĐ hiện nay chủ yếu là các trường công lập, đặc biệt là cho nâng cấp các trường cao đẳng lên đại học khi chưa đủ điều kiện, thể hiện là việc sinh viên vào các trường dân lập, tư thục luôn giảm xuống, theo số liệu mới tỉ lệ này chỉ đạt khoảng 12,7%. Bên cạnh đó, tốc độ phát triển của các trường cũng chỉ bằng 1/3 các trường công lập. Và chừng ấy năm các trường phát triển lay lắt, ai chịu trách nhiệm, nếu không có gì thay đổi thì tỉ lệ 12,7% đó có thể thấp hơn ở những năm tiếp theo. Qua số liệu thống kê chính thức cho thấy: Trong 10 năm các trường ĐH-CĐNCL tăng thêm 59 trường, vẫn trong ngần ấy thời gian số lượng các trường ĐH-CĐ công lập đã là 158 trường. Như vậy mỗi 1 trường ngoài công lập được mở ra thì có khoảng 2,68 trường công lập ra đời. "Thực tế, hệ thống trường công lập tăng gấp gần 3 lần so với các trường NCL mà không ai đề cập tới. Trong khi mỗi một trường công lập ra đời phải có tiền từ ngân sách vào, các trường NCL không những không được hưởng ngân sách nhà nước mà còn phải đóng thuế, thuế đó góp vào ngân sách nhà nước và rót ngược lại cho các trường công lập. Điều đó cho thấy bức tranh hiện nay các trường công lập tồn tại được là trong đó có một phần tiền thuế từ các trường ngoài công lập”.

- Hiệp hội cần có tiếng nói nhằm bảo đảm sự bình đẳng, công bằng vì một học sinh có trình độ như nhau có quyền lựa chọn các trường công hay trường tư để học. Khi người học học ở trường tư cũng phải được sự hỗ trợ tối thiểu như trường công, còn khi nào học chất lượng cao lúc đó nhà nước phải lo. Hiện nay chưa có sự công bằng đó, cho nên người học lại đổ xô vào học công lập.

- Hiệp hội cần tiếp tục phối hợp với các cơ quan và các trường thành viên để đẩy mạnh công tác nghiên cứu, tìm kiếm mô hình hoạt động phù hợp với sự phát triển của Việt Nam, phù hợp với đặc thù vùng miền và quan trọng nhất là phải bắt kịp với xu hướng phát triển giáo dục thế giới.

- Có ý kiến với các trường tư thục về những bất cập trong các trường tư thục, thúc đẩy các trường hoạt động có chất lượng và đó sẽ là một động lực để thúc đẩy quá trình cạnh tranh giữa các trường với nhau. Người học dần dần sẽ lựa chọn những trường có uy tín để theo học vì khi ra trường chắc chắn sẽ xin việc làm dễ hơn. Vì hiện nay người học đang có quyền lựa chọn cho mình những trường để theo học với chất lượng cung ứng dịch vụ tốt nhất.

3.2.5.4. Vai trò của doanh nghiệp

Các nhà quản lý giáo dục đào tạo cần coi trọng mối quan hệ giữa đào tạo và sản xuất là không thể tách rời: Nền kinh tế phát triển, chính trị xã hội ổn định, sự nghiệp giáo dục - đào tạo đã có những tiến bộ đáng kể, đã hình thành thị trường sức lao động, thị trường việc làm với quy mô ngày càng lớn. Thực hiện nguyên lý đào tạo với sản xuất, quá trình đào tạo phải gắn với cơ sở sản xuất để tận dụng trang thiết bị, công nghệ sẵn có. Gắn đào tạo với việc làm, từ thị trường việc làm hình thành thị trường sức lao động và qua đó mới xác định thị trường đào tạo nhân lực. Mối liên hệ giữa doanh nghiệp với giáo dục đào tạo là:

- Đào tạo cung cấp nguồn nhân lực phục vụ sản xuất, ngược lại yêu cầu sản xuất cũng phải có nghĩa vụ với đào tạo. Đào tạo gắn với doanh nghiệp đã trở thành một nguyên tắc để thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành.

- Mối quan hệ giữa đào tạo và sản xuất là mối quan hệ mật thiết, chịu tác động lẫn nhau không thể tách rời.

- Đào tạo phải luôn tiếp cận với sản xuất, cơ sở đào tạo và doanh nghiệp cũng phải tham gia vào quá trình đào tạo. Xu hướng hiện nay là các doanh nghiệp lớn nên thành lập các trường đại học tư thục, hoặc các trường nghề để cung ứng lao động cho doanh nghiệp và cho ngoài xã hội là hết sức phù hợp.

- Việc tiếp cận với sản xuất còn giúp các nhà quản lý giáo dục đào tạo điều chỉnh việc xây dựng mục tiêu, nội dung chương trình cho phù hợp với yêu cầu đổi mới của công nghệ sản xuất, tạo sự cân đối giữa nhu cầu lao động của xã hội và đào tạo, tránh lãng phí một lượng lao động đã qua đào tạo mà không được sử dụng hoặc không sử dụng phù hợp như hiện nay.



3.2.5.5. Vai trò của xã hội, của người học

Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước với hệ thống các trường đại học cao đẳng tư thục, vai trò của xã hội, của người dân, người học cũng góp phần không nhỏ, được thể hiện qua các mặt:

Mỗi trường đại học cao đẳng có hàng trăm giảng viên, hàng nghìn sinh viên nhưng lực lượng đông đảo này chưa tham gia vào việc kiểm tra các trường đại học tuân thủ các quy định về đào tạo, quản lý trường đại học đặc biệt là những trường đại học tư thục. Việc sinh viên tham gia quản lý nhà trường là điều tất yếu vì nó liên quan đến quyền lợi thiết thực của mỗi sinh viên. Họ có thể tham gia giám sát chất lượng chính tại trường họ học, bởi Bộ đã có quy chế “3 công khai”: trường cam kết chất lượng giảng dạy, tên tuổi giáo viên, cở sở vật chất, giáo trình, thu chi tài chính…

Vì lợi ích của mình và xã hội trước hết đươc sinh viên phản ánh ngay ở trường những yếu kém, không đạt chuẩn của quá trình đào tạo, trong điều lệ trường đại học nhà trường phải trả lời những chuyện đó. Cần phải xác định là không nên đặt vấn đề chỉ có nhà nước quản lý trường đại học mà tự mỗi trường phải quản lý lấy, chính giáo viên trong trường phải tham gia quản lý nhà trường, chính sinh viên trong trường là chủ thể. Một xã hội phát triển tốt thì mọi người phải tham gia làm chủ chính công việc hàng ngày ở nơi mình làm việc. Do vậy để giúp hệ thống các trường ĐH-CĐTT vận hành theo đúng quy luật của nó thì cần phải có sự tham gia của toàn xã hội trong vai trò quản lý nhà nước đối với các trường tư thục

Trong bối cảnh giáo dục đại học Việt Nam sau khi gia nhập WTO, với việc hình thành và phát triển chuẩn thị trường giáo dục đại học, chúng ta cần đặc biệt coi trọng và phát huy sự tham dự của xã hội trong một loạt vấn đề phức tap. Trước hết, đối với một lĩnh vực mới và nhạy cảm là chuẩn thị trường giáo dục đại học, vai trò tư vấn, phản biện xã hội và giám sát của xã hội là yêu cầu bắt buộc để khắc phục tính quan liêu của chính quyền và sự thiển cận của thị trường. Việc phát triển giáo dục đại học tư thục, bên cạnh môi trường pháp lý minh bạch do nhà nước đem lại, cồng đồng xã hội có thể góp phần tạo dựng môi trường văn hóa - xã hội thuận lợi. Trên cơ sở đó đề cao truyền thống dân tộc và bản sắc văn hóa để người dân có thái độ và hành vi tích cực trong việc lựa chọn trường đại học tư thục. cần chú ý rằng, việc tự do hóa thương mại dịch vụ giáo dục sẽ kéo vào Việt Nam có nhiều loại văn bằng khác nhau; sự nhạy bén và giám sát khắp nơi của xã hội sẽ giúp sớm phát hiện sự gian lận thương mại và gian trá chất lượng, góp phần bảo vệ quyền lợi người học, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh và công bằng.

3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM THỰC HIỆN THÀNH CÔNG CÁC GIẢI PHÁP

3.3.1. Kiến nghị đối với Quốc hội và Chính phủ

Để quản lý khu vực GDĐHCĐTT ngày càng tốt hơn, chặt chẽ và có hiệu quả hơn nhà nước mà cụ thể là Chính phủ cần quan tâm nhiều hơn nữa đối với khu vực này coi GDĐH-CĐ khu vực tư thục là một thực thể không thể thiếu trong tiến trình hội nhập quốc tế ở nước ta. Để đạt các mục tiêu này, luận án khuyến nghị các nguyên tắc cơ bản sau đây cần được tôn trọng và củng cố trong việc hoàn thiện công tác QLNN đối với khu vực GDĐHCĐTT như sau:

+ Vai trò của Nhà nước phải rõ ràng về mặt đường lối chính sách và cần được cụ thể hóa bằng các tiêu chuẩn giám sát, điều chỉnh và công nhận cũng như khuyến khích các trường tư thục hoạt động, phải xây dựng văn bản pháp lý đầy đủ và hoàn chỉnh nhằm tạo điều kiện cho các trường tư thục cũng bình đẳng như các trường công lập.

+ Nhà nước cần cung cấp một môi trường thuận lợi (luật pháp và các điều kiện khác) để cho phép các nhà đầu tư, đầu tư vào khu vực tư trong GDĐH-CĐ.

+ Nhà nước cung cấp sự chỉ đạo để tăng cường năng lực cho nhà trường thực thi quyền tự chủ, tự quyết và trách nhiệm bằng cách tạo ra một tổ chức quốc gia để cung cấp sự tư vấn cho bản thân trường ngoài công lập nói chung và các trường tư thục nói riêng.

+ Đảm bảo tính lâu dài và sự nhất quán giữa việc công bố chính sách với việc thực thi chính sách. Thiết lp s hp tác cht chgia cơ quan duc giao trách nhiệm chuyên tch quản lý nhà nước v GDĐH-CĐ với các b ngành, UBND các tỉnh, thành phố và các cơ quan nhà nước khác trong quá trình t chc th hiện chính sách.



+ Thay vì ch tp trung vào khâu t chc thực hin chính sách như hin nay, cần mở rộng các cuộc vn đng chính sách ngay t khi bt đu ca mt chu trình chính sách mới. Cần triển khai vận đng như thông qua các cuc họp, tập hun, hội tho, hoặc bt du t các nghiên cu, kho sát, đánh giá d án, các bài hc kinh nghim, thông tin t môi trung, tng tin đại chúng . Đồng thời cần mi các nhà hoạch đinh chính sách tham gia c cuộc hội tho chuyên đề, ly ý kiến đóng góp trực tiếp ca c giáo sư, n bging dạy, n b qun lý trung đại học, cao đẳng đặc biệt là các trường tư thục, c nhà chuyên môn trong c hi tho tham vn, đóng góp ý kiến v chính sách thực thi pháp luật.

+ T chc tuyên truyền các chế độ, chính sách về phát triển GDĐHCĐTT và coi đây là công việc hết sức quan trọng trong phát triển sự nghiệp giáo dục nước nhà. Nhằm làm cho tất cả các sinh viên, ging viên, ph huynh, ngui s dụng lao động và nhng ngui có liên quan khác phi hiểu đuc tch nhiệm và quyền lợi ca h khi tham gia vào môi trung GDĐHCĐTT.

+ Hội nhập quốc tế cùng với việc thực thi các cam kết về GATS trong giáo dục đang đặt giáo dục đại học, cao đẳng tư thục Việt Nam là cần sớm xây dựng hệ thống chính sách đồng bộ, mềm dẻo và linh hoạt, tạo điều kiện để giáo dục đại học tận dụng được cơ hội, vượt qua thách thức, tối đa hóa lợi ích và giảm thiểu rủi ro trên con đường phát triển theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa. Hoàn chỉnh môi trường pháp lý hiện nay của giáo dục Việt Nam nói chung, giáo dục đại học cao đẳng tư thục nói riêng, là điều kiện cơ bản để triển khai có hiệu quả và hiệu lực trong quản lý nhà nước.

+ Một trong những đặc trưng cơ bản của tiến trình đổi mới này là sự ra đời của các nhà cung ứng mới trong giáo dục đại học: đó là các tổ chức, cá nhân trong nước đứng ra thành lập các cơ sở giáo dục tư thục; các tổ chức, cá nhân ngoài nước đứng ra thành lập các cơ sở giáo dục có yếu tố nước ngoài. Một mô hình cung ứng giáo dục mới đã hình thành, với ba đặc trưng chính là: Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo nhưng không còn giữ độc quyền trong cung ứng giáo dục; các tổ chức, cá nhân cùng tham gia cung ứng giáo dục; tuy nhiên cơ chế cạnh tranh chưa hình thành. Mô hình này thường được gọi là mô hình gần như độc quyền hay chuẩn độc quyền (quasi-monopoly). Sau khi gia nhập WTO, một mô hình cung ứng giáo dục mới sẽ hình thành. Đó là vì Việt Nam có cam kết khá sâu và rộng về thực thi Hiệp định GATS trong lĩnh vực giáo dục. Theo đó, ta mở cửa cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được tiếp cận thị trường giáo dục đại học trong các lĩnh vực kỹ thuật, khoa học tự nhiên và công nghệ, quản trị kinh doanh và khoa học kinh doanh, kinh tế, kế toán, ngôn ngữ và luật quốc tế. Sự hiện diện thương mại của các cơ sở giáo dục nước ngoài về nguyên tắc là không hạn chế đối với các cơ sở liên kết kể từ ngày Việt Nam gia nhập WTO, và cũng không hạn chế đối với các cơ sở 100% vốn nước ngoài kể từ sau ngày 1/1/2009. Trong khi đó, thị trường giáo dục đại học Việt Nam được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá là một thị trường giàu tiềm năng do hệ thống các trường cao đẳng, đại học Việt Nam hiện nay, cũng như trong trung hạn, hoàn toàn không có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu đại chúng hoá và nâng cao chất lượng theo tỉnh thần Nghị Quyết 14. Vì vậy với việc thực thi các cam kết về GATS trong giáo dục, bức tranh giáo dục đại học Việt Nam sẽ có biến động mạnh mẽ với sự ra đời của khá nhiều cơ sở giáo dục nước ngoài. Cục diện cạnh tranh sẽ hình thành và phát triển do người học được nhiều cơ hội hơn trong việc lựa chọn trường học.

+ Với việc thực thi các cam kết về GATS trong giáo dục, giáo dục đại học cao đẳng tư thục ở nước ta trong thời gian tới sẽ chuyển từ mô hình cung ứng chuẩn độc quyền sang chuẩn thị trường. Bước chuyển của mô hình cung ứng đó đòi hỏi có bước chuyển tương ứng của mô hình quản lý từ kiểu nặng giữa sang kiểu nặng giữa và dưới. Đặc trưng cơ bản của sự phân chia thẩm quyền theo kiểu này là Nhà nước sẽ chỉ tập trung vào quản lý vĩ mô, chuyển vai trò từ kiểm soát sang giám sát; nhà trường tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong công tác tổ chức, nhân sự và tài chính; khoa/bộ môn, mà trực tiếp là đội ngũ giảng viên, có tiếng nói quyết định trong công tác chuyên môn.

+ Trong bức tranh chung của giáo dục đại học thế giới, giáo dục công lập vẫn đóng vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, do xu thế thương mại hoá giáo dục đại học và việc phát triển giáo dục xuyên biên giới trong tiến trình hội nhập, bức tranh giáo dục đại học thế giới đang có những biến động. Trong phần cam kết chung của Việt Nam về GATS, có nói rõ là chưa cam kết thực hiện quy tắc đối xử quốc gia đối với sự hiện diện thương mại của các cơ sở giáo dục nước ngoài. Tuy nhiên, để nâng cao năng lực cạnh tranh của toàn hệ thống giáo dục đại học nước ta trong quá trình hội nhập, rất cần thực hiện ngay “quy tắc đối xử quốc gia trong nước”, nghĩa là giảm thiểu sự phân biệt đối xử giữa trường công lập và trường tư thục trong nước. Luật Giáo dục đại học cần tạo nên một bước tiến mới trong giáo dục đại học Việt Nam nếu có những quy định nhằm hạn chế dần sự phân biệt đối xử giữa công lập và tư thục trong nước. Điều đó cũng là một bước chuẩn bị tích cực để sau này chúng ta tiến tới cam kết thực hiện quy tắc đối xử quốc gia trong việc thực thi GATS.

Chính sách về cơ cấu của hệ thống GDĐH-CĐ có cả khu vực công và tư bước đầu đã có tác dụng. Song khu vực tư chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó chiếm một tỷ trọng thích hợp. Phấn đấu trong thời gian 05 năm tới ít nhất các trường ngoài công lập trong GDĐH-CĐ phải đảm bảo được 40% quy mô tuyển sinh của từng cấp bậc giáo dục đại học và cao đẳng như theo tinh thần Nghị quyết 05 của Bộ chínhh trị.



Các biện pháp:

+ Thể chế hoá chủ trương thành pháp luật, cụ thể hóa các giải pháp theo tinh thần Nghị quyết 05. Việc xây dựng sửa đổi Luật giáo dục tới đây cần phải có chương hoặc các điều khoản về khu vực tư nhân một cách rõ ràng nhằm không ngừng tăng tỷ lệ sinh viêc của khu vực tư nhân. Tiếp đó là cụ thể hóa tất cả các quy chế về ĐH-CĐ tư thục. Chỉ có thể chế hóa bằng luật pháp về bảo đảm các quyền sở hữu, quyền thừa kế hợp pháp, bảo đảm lợi ích của các chủ đầu tư vào trường tư thục thì họ mới yên tâm đầu tư.

+ Bảo đảm sự bình đẳng giữa khu vực công và tư trong GDĐH-CĐ bằng cách nới rộng tính tự chủ cho các trường công lập (nhất là vấn đề học phí) và có chính sách trợ giúp về kỹ thuật và tài chính đối với những trường tư thục nào là thích hợp.

+ Hạn chế sự mở rộng đào tạo ở trường công lập ở những vùng, những ngành nghề đào tạo nào mà bộ phận ngoài công lập đặc biệt là tư thục đủ khả năng thực hiện với số lượng đầy đủ và chất lượng đảm bảo.

+ Có biện pháp khuyến khích các trường tư thục liết kết đào tạo cho các doanh nghiệp đặc biệt là các tổng công ty, các tập đoàn lớn nhằm đảm bảo nhu cầu nguồn nhân lực cho khu vực này.

Khuyến khích các tổ chức tư nhân tham gia làm cho giáo dục có chất lượng cao đặc biệt là giáo dục mà ở khu vực công lập không cung cấp đầy đủ và giáo dục theo mục đích riêng biệt (ví dụ đào tạo cho công nghệ chuyên dụng hoặc mới của các hãng).

+ Khuyến khích các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ về GD-ĐT đối với sự phát triển của nhân viên và chất lượng cuộc sống của họ thông qua chế độ thuế.

+ Xem xét lại các nguyên tắc và quy định để tạo thuận lợi cho tổ chức tư nhân ở trong nước và quốc tế, tham gia tích cực hơn vào việc cung cấp cho giáo dục.

+ Nhà nước có thể thực hiện một số chế độ hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp đối với khu vực các trường đại học cao đẳng tư thục. Ví dụ tiếp tục miễn giảm thuế, tiếp tục cho phép giáo viên trường công tham gia giảng dạy ở trường tư trong một thời gian nữa. Ngoài ra có thể cho phép các trường tư thục thuê các cơ sở giảng dạy của trường công lập dài hạn, cho phép các trường tư được tham gia và hưởng tài trợ NSNN của các chương trình đặc biệt như chương trình khuyến khích nâng cao chất lượng, chương trình về nội dung, giáo trình, chương trình hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo ... và có thể hình thành quĩ cho vay với lãi suất ưu đãi cho khu vực ngoài công lập.

+ Khuyến khích các trường tư thục tham gia vào các trường trình hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo, tài trợ các đề tài các dự án khoa học công nghệ.

Để đảm bảo tính công bằng cho phép học sinh, sinh viên khu vực ngoài công lập được tham gia và hưởng chính sách hỗ trợ tài chính của Nhà nước như học bổng, chương trình cho sinh viên vay tiền (hiện nay nhà nước đã có chế độ cho HS-SV vay vốn phục vụ nhu cầu học tập). Tuy đã hình thành quỹ tín dụng giành cho sinh viên nhưng cần đẩy mạnh hơn nữa ở khu vực tư thục.

Nâng dần mức học phí của khu vực công lập trong GDĐH-CĐ nhằm tăng tỷ lệ thu hồi chi phí trong giáo dục. Việc tăng dần học phí của khu vực công lập cũng là một giải pháp giảm được chi phí công (NSNN) bình quân trên một học sinh, sinh viên và nó có tác dụng tương tự như việc mở rộng khu vực ngoài công lập đặc biệt là tư thục. Đồng thời việc tăng học phí của khu vực công lập sẽ giảm được sự chênh lệch quá xa về mức học phí giữa khu vực công và tư.

Đi đôi với chính sách học phí phải thực thi chế độ trợ giúp cho học sinh, sinh viên nghèo không có khả năng theo học do không có khả năng trả học phí và học sinh, sinh viên là đối tượng của chính sách xã hội khác.

+ Cuối cùng là Bộ GD&ĐT cần thành lập cơ quan chuyên trách để có những quyết sách kịp thời nhằm điều chỉnh hoạt động của khu vực này theo theo đúng mục tiêu của nhà nước.

3.3.2. Kiến nghị đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo

Công tác kiểm định chất lượng đã được Bộ GD-ĐT ban hành theo Quyết định 66/2007/QĐBGDĐT về tiêu chuẩn đánh giá và Quyết định 76/2007/QĐ-BGDĐT về kiểm định chất lượng tuy nhiên cần được cụ thể hóa các vần đề sau:

+ Xây dựng bộ tiêu chuẩn tối thiểu về các chương trình đào tạo đại học và cao đẳng ở cấp quốc gia. Các tiêu chuẩn này liên quan tới sứ mệnh và tầm nhìn, cơ sở vật chất thiết bị, đội ngũ cán bộ giảng dạy, chương trình giảng dạy và học tập, cơ chế tự đảm bảo chất lượng và cơ chế kiểm định công nhận các trường ngoài công lập đặc biệt là các trường tư thục.

+ Việc củng cố và nâng cao chất lượng GDĐH-CĐ trước hết phải là trách nhiệm của các trường tư thục.

+ Cả cơ sở giáo dục công và tư đều được coi là đối tượng để kiểm định bên trong và bên ngoài, nhưng bước một do có khó khăn về thực tiễn các cơ sở tư thục phải được coi là đối tượng ưu tiên trong bước này.

+ Thành lập hai Hội đồng tư vấn về chất lượng giáo dục, một cho đại học và một cho cao đẳng. Các nhiệm vụ sau đây có thể phải có trong phạm vị đánh giá của Hội đồng:

a. Chất lượng giảng dạy và nghiên cứu của các cơ sở giáo dục.

b. Chất lượng của các chương trình đào tạo, các tài liệu, cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và đội ngũ giáo viên.

c. Việc xây dựng mối quan hệ giữa các trường tư thục với người sử dụng nhân lực.

d. Tuyển sinh, tổ chức và quy trình đánh giá phân loại đầu vào và quá trình học tập.

e. Sự thích hợp của hệ thống kiểm tra chất lượng bên trong.

Để hỗ trợ sự nỗ lực đảm bảo chất lượng bên trong của các trường, Bộ GD&ĐT cần tăng cường hướng dẫn và đào tạo cán bộ cho các trường về quy trình tự đánh giá nâng cao chất lượng của nhà trường và cần có một cơ chế công bố các thông tin về đánh giá vừa để phổ biến kinh nghiệp vừa giúp cho người học lựa chọn trường tư để nhập học.

+ Tăng cường trách nhiệm của các trường tư.

Cơ chế trách nhiệm trong GDĐH-CĐ tư thục đang trong quá trình xem xét, xây dựng và hoàn thiện. Cơ chế trách nhiệm cần phải được tăng cường như là một bộ phận hữu cơ của những quyền tự chủ của trường ngoài công lập đã được nhà nước cho phép và phát triển hơn trong tương lai. Trách nhiệm của trường tư thục phải được nhà nước giám sát chặt chẽ ở các điểm sau:



Một là Giám sát chặt chẽ về thực hiện sứ mệnh, mục tiêu. Mục đích của đề án thành lập trường đã được nhà nước xem xét và cấp giấy phép hoạt động. Quản lý chặt chẽ việc cho phép thành lập các trường ĐH-CĐ mới.

Hai là Áp dụng việc thưởng phạt trên cơ sở cụ thể hóa thành các tiêu chuẩn công khai đối với việc thực hiện mục tiêu của trường ngoài công lập nhất là đối với trường tư thục và các trường hợp phải tạm ngừng giảng dạy, ngừng tuyển sinh, tước quyền cấp bằng, thu hồi giấy phép hoạt động.

Ba là Trường ngoài công lập phải có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ những số liệu thống kê và các thông tin khác khi nhà nước yêu cầu đánh giá hoạt động của trường.

Bốn là Áp dụng việc kiểm toán độc lập đối với các trường ngoài công lập trong trường hợp mở rộng việc kiểm toán đối với các doanh nghiệp tư nhân.

3.3.3. Kiến nghị đối với các trường đại học cao đẳng tư thục

Những khuyến nghị trên tập trung chủ yếu đối với việc hoạch định chính sách của nhà nước đối với khu vực ngoài công lập. ở cơ sở đào tạo tư thục việc định chính sách cũng như thực thi chính sách chúng tôi xin khuyến nghị một số vấn đề:

+ Các Trường đại học cao đẳng tư thục nên cố gắng đa dạng các nguồn thu, không chỉ đơn độc có một nguồn thu học phí. Việc mở rộng các nguồn thu có thể thông qua tài trợ, bản quyền sáng chế, chuyển giao công nghệ….

+ Định ra các chính sách thích hợp nhằm tuyển lựa, đào tạo, bồi dưỡng để có đội ngũ cán bộ giảng dạy theo chế độ hợp đồng lao động dài hạn. các cơ sở đào tạo tư thục phải sớm thức tỉnh và tự lo lấy đội ngũ cán bộ giảng dạy của mình trước nguy cơ giáo viên của khu vực công lập đã và đang bị quá tải về khối lượng công việc của trường công.

+ Cơ sở đào tạo tư thục nên tìm mọi biện pháp thích hợp để gắn chặt với khu vực công nghiệp, dịch vụ và các doanh nghiệp nhằm tăng thêm các nguồn lực (kể cả tài chính) và cải tiến chất lượng đào tạo để cung cấp kịp thời những người tốt nghiệp có kiến thức, kỹ năng mà thị trường lao động đòi hỏi.

+ Tất cả các nguồn kinh phí được tạo ra, các cơ sở đào tạo tư thục nên tập trung sử dụng vào các mục đích giáo dục, không nên phân tán vào các hoạt động nằm ngoài giáo dục hoặc phi giáo dục.

Cuối cùng cần phải nhận thấy rằng vấn đề mấu chốt để phát triển khu vực ngoài công lập đặc biệt là tư thục trong GD ĐH-CĐ đòi hỏi sự thống nhất giữa nhà trường với nhà nước về toàn bộ cơ chế chính sách. Do vậy mọi chính sách của nhà nước hoặc của nhà trường nên có thảo luận hoặc tham khảo giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và nhà trường để tạo sự thống nhất cao trong thực hiện.

3.4. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Để công tác quản lý nhà nước của trường đại học cao đẳng tư thục đi vào cuộc sống, nhà nước cần kết hợp nhiều giải pháp đổi mới QLNN: đổi mới nhận thức về vai trò của Nhà nước, vai trò và địa vị pháp lý của trường đại học cao đẳng tư thục, vai trò của thị trường định hướng XHCN; đổi mới cơ cấu tổ chức và thẩm quyền; hoàn thiện thể chế và chính sách bảo đảm tự chủ, tự quyết và tự chịu trách nhiệm; đổi mới quản lý chương trình đào tạo, tuyển sinh và văn bằng; đổi mới quản lý tài chính GDĐH-CĐ và tăng cường kiểm soát nhà nước nhằm bảo đảm trách nhiệm xã hội.

Trong vai trò giám sát, nhà nước điều khiển trường đại học tư thục, thực thể pháp lý tự độc lập, thông qua một cơ cấu tổ chức và thẩm quyền để hỗ trợ nhằm nâng cao sự tự chủ và trách nhiệm xã hội mà không có sự hiện diện của cơ chế chủ quản, tách bạch với thực thi chính sách, tách bạch với vai trò chủ sở hữu; bằng các phương tiện như thể chế, tài trợ, hoạch định và đánh giá; dưới sự phối hợp của KTTT định hướng XHCN cùng với sự hỗ trợ của các tổ chức trung gian và vai trò của các lực lượng xã hội khác.



Các nhóm giải pháp đưa ra thông qua kết quả khảo sát, kết quả phân tích định tính kết hợp với dự báo định lượng nhằm giúp các nhà quản lý giáo dục có những nhận thức đúng đắn hơn về công tác QLNN đối với khu vực GDĐHCĐTT. Phân định rõ giữa nội dung quản lý nhà nước với quản lý nhà trường. Giúp cho hệ thống các trường tư thục phát triển lành mạnh và có hiệu quả trong thời gian tới.

Каталог: data -> file -> 2015 -> Thang02
Thang02 -> Những câu nói hay về tình yêu bằng Tiếng Anh I used to think that dreams do not come true, but this quickly changed the moment I laid my eyes on you
Thang02 -> HỌc viện công nghệ BƯu chính viễn thông đỒ Án tốt nghiệP ĐẠi họC Đồ án
Thang02 -> Những bài thơ hay về ngày quốc tế phụ nữ 8-3
Thang02 -> Những từ tiếng Anh thường hay viết tắt
Thang02 -> VĂn khấN Đi chùa cầu bình an, may mắn và giải hạn năm mớI
Thang02 -> Exercise 1: Mark the letter A, B, c or d to indicate the correct answer to each of the following questions
Thang02 -> Maersk logistics quốc tế và Việt Nam (Đan Mạch)
Thang02 -> Tài Liệu Bồi Dưỡng Học Sinh Giỏi Lớp 7 Period 1 tenses summary (Tóm tắt)
Thang02 -> Vietnam National University, Hanoi College of foreign languages Post graduate Department o0o nguyễn phưƠng ngọc an Action research on the effects of Pre writing

tải về 5.13 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   19   20   21   22   23   24   25   26   ...   30




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương