16
phụ phẩm đầu xương cá tra đạt hiệu quả cao là 2,5 ÷ 3%, nhiệt độ thủy phân thích
hợp là 50
0
C, pH= 8 và trong thời gian là 10 giờ, hiệu suất thủy phân cao nhất là
25,68%. (Nguyễn Thị Nếp, 2005). Để thủy phân cá phèn, cá ngân dạng cá phế liệu
thu được sau công đoạn fillet bằng phương pháp thủy phân kết hợp, thủy phân bằng
enzyme trước, thủy phân bằng acid sau. Trong đó, sử dụng chế phẩm
enzyme
protease từ vi khuẩn
B. subtilis C10. Kết quả với điều kiện thủy phân bằng enzyme:
tỷ lệ muối 3%, tỷ lệ dịch chiết enzyme 20% (dạng lỏng), tỷ lệ nước 30%, nhiệt độ
50
0
C, điều kiện thủy phân bằng acid: tỷ lệ muối 3%, nhiệt độ thủy phân 90
0
C, thể
tích HCl 7N là 20 %, trung hòa bằng Na
2
CO
3
20% cho hiệu quả thủy phân cao.
Dịch đạm thu được có hàm lượng đạm tổng số 39 g/l, đạm formol 21,6 g/l, đạm
amoniac 3,95 g/l. Sử dụng enzyme papain thô ly trích trực tiếp từ mủ đu đủ để thủy
phân bánh dầu đậu nành tạo sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao ứng dụng
trong
chăn nuôi. Kết quả thí nghiệm cho thấy điều kiện tối ưu cho enzyme papain trên cơ
chất bánh dầu đậu nành là nhiệt độ 55
0
C và pH= 7. Với tỉ lệ enzyme:cơ chất là
0,75:100 (w:w), hoạt tính đặc hiệu của enzim là 91,12 TU/mg, thời gian thủy phân
là 24 giờ cho hiệu suất thủy phân cao nhất 11,8%. (Dương Thị Hương Giang,
2006). Phối trộn phế phẩm cá và mùn cưa theo các tỷ lệ 4 cá : 1 mùn cưa; 3 cá : 1
mùn cưa và 9 cá : 4 mùn cưa sau đó phun chế phẩm PMET vào các mẫu đã phối
trộn với liều lượng 1 lít/m
3
và đem ủ kị khí. Trong quá trình ủ có đảo trộn và phun
PMET định kỳ. Kết quả cho thấy các mẫu phân phối rộng theo tỷ lệ 3 : 1 và 9 : 4
đều đạt tiêu chuẩn quy định trong sản xuất phân bón về hàm lượng chất hữu cơ và
axit humic. Tuy nhiên cũng có một vài chất không đạt như hàm lượng kali vì vậy
các tác giả khuyến cáo cần bổ sung thêm chất này trong quá trình ủ phân. (Lê Công
Toàn, 2007). Võ Thị Hạnh và ctv (2009) đã nghiên cứu chế phẩm sinh học từ trùn
quế để làm thức ăn cho gia súc, gia cầm, làm phân bón cho cây... Một ưu điểm nổi
trội của các chế phẩm này là vẫn giữ nguyên mùi trùn tươi, các chất dinh dưỡng
không bị mất đi hoặc biến chất theo thời gian. Chế phẩm BIO-BL, đã được dùng để
bón cho cây trà ô long và một số cây hoa màu, cây kiểng...Kết quả sau khi sử dụng
cho thấy búp trà tươi, màu sắc đẹp hơn, mùi hương của trà cũng thơm hơn. BIO-BL
18
Bacillus lischenifermic), kết quả cho thấy mẫu thủy phân bằng Alcalase có hàm
lượng protein hòa tan và acid amin cao nhất, kế đến là enzyme dịch dứa, mẫu có
enzyme tủa có hàm lượng protein và acid amin thấp nhất có thể là do hoạt tính
enzyme bị mất đi trong quá trình tủa.
Trần Thanh Nhãn (2009), khi sử dụng alcalase để sản xuất Gelatin từ da cá
basa thì kết quả cho thấy nồng độ enzyme là 0,05%; thời gian thủy phân 25 phút,
nhiệt độ thủy phân 43
0
C và pH môi trường thủy phân tốt nhất là 8.
Theo Trần Thanh Nhãn và Trần Nguyễn Tú Oanh (2009), khi xử lý máu cá
basa bằng enzyme alcalase thì các thông số tối ưu của quy trình là: pH = 7,05; thời
gian thủy phân 2,81 giờ, nồng độ enzyme là 1,5% và cho hiệu suất thủy phân là
5,91%.
Theo Mạc Xuân Hòa và Trần Bích Lam (2012), khi thủy phân phế phẩm từ
quá trình sản xuất fillet cá tra bằng enzyme Alcalase 2.4l nhằm thu nhận
protein
hydrolysate thì kết quả cho thấy điều kiện thủy phân tối ưu là: hàm lượng enzyme
0,3% (v/w), nhiệt độ 67
0
C, và thời gian 130 phút.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: