14
Bacillus, Penicillium, Clotridium, Streptomyces và một số loại nấm men. Các
enzyme này có thể ở trong tế bào (Protein nội bào) hoặc được tiết vào trong môi
trường nuôi cấy (Protease ngoại bào). Cho đến nay các protease ngoại bào được
nghiên cứu kỹ hơn các protease nội bào. Một số protease ngoại bào đã sản xuất
trong quy mô công nghiệp và được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành kỹ nghệ
khác nhau trong nông nghiệp và trong y học. Có thể thu nhận protease từ nhiều loài
vi khuẩn, xạ khuẩn, nấm mốc. Hiện nay trên thế giới sản xuất khoảng trên 600 tấn
protease tinh khiết từ vi sinh vật, trong đó có 500 tấn từ vi khuẩn và 100 tấn từ nấm
mốc. Nhịp độ sản xuất enzyme vi sinh vật ở quy mô công nghiệp ở các nước phát
triển tăng trung bình hàng năm từ 5 - 15% và doanh thu sản xuất hàng năm ở các
nước này khoảng 1,5 tỉ USD. Những nước có công nghệ sản xuất và ứng dụng
protease tiên tiến nhất trên thế giới hiện nay là: Nhật Bản, Mỹ, Anh, Pháp, Hà Lan,
Trung quốc, Đan Mạch, Đức, Áo,… Các nước này đầu tư thích đáng cho công tác
nghiên cứu, sản xuất và ứng dụng các chế phẩm protease của vi sinh vật. Nguồn
nguyên liệu rất dồi dào để sản xuất enzyme nói chung và protease nói riêng.
Người ta sử dụng protease để sản xuất các dịch đạm thủy phân từ các phế liệu
giàu protein như thịt vụn, đầu cá, da,…. Dùng protease để thủy phân protein thường ít
bị hao hụt acidamin như khi dùng phương pháp hóa học. Thủy phân protein bằng acid
thường mất 10 - 25% các acid amin như tryptophan, tyrosin, cystein, arginin, histidin,
serin, treonin. Vi khuẩn có khả năng sinh ra cả hai loại enzyme endopeptidase và
exopeptidase, do đó protease của vi khuẩn có tính đặc hiệu cơ chất cao. Chúng có khả
năng phân hủy tới 80% các liên kết peptide trong phân tử protein. Các chủng vi
khuẩn có khả năng tổng hợp mạnh protease là
Bacillus subtilis, Bacillus
mesentericus, Bacillus thermorpoteoliticus và một số loài thuộc
Clostridium. Trong
đó,
B. subtilis có khả năng tổng hợp protease mạnh nhất. Các vi khuẩn thường tổng
hợp các protease hoạt động thích hợp ở vùng pH trung tính và kiềm yếu. Các protease
trung tính của vi khuẩn hoạt động ở khoảng pH hẹp (pH 5 - 8) và có khả năng chịu
nhiệt thấp. Các protease trung tính tạo ra dịch thủy phân protein thực phẩm ít đắng
hơn so với protease động vật và tăng giá trị dinh dưỡng. Nhiều loại nấm mốc có khả
15
năng tổng hợp một lượng lớn protease được ứng dụng trong công nghiệp thực phẩm
như các chủng
Aspergillus oryzae, A. terricola, A. fumigatus, A. satoi, Penicillium
chysogenum… Các loại nấm mốc này có khả năng tổng hợp cả ba loại protease acid,
kiềm và trung tính. Nấm mốc có bào tử đen tổng hợp chủ yếu các protease acid, có
khả năng thủy phân protein ở pH 2,5 - 3.
Khi sử dụng enzyme endopeptidase từ vi khuẩn để thủy phân mô thịt cá mập
(
Squalus acanthias) trong 2 giờ thì lượng nitơ thu được 76,2%. Điều kiện để thủy
phân tốt nhất là nhiệt độ 55
0
C, pH = 8 với tỷ lệ enzyme là 40 mg/g cơ chất và hiệu
suất thủy phân 18,6%. (Diniz, 1998). Sử dụng enzyme papain để thủy phân cá mối
dài thì sản phẩm thủy phân chứa 84,7% protein thô, 7,1% tro và 3,5% mỡ. Sản phẩm
thủy phân chứa 20 loại axit amin, trong đó tỷ lệ của 8 loại axit amin thiết yếu chứa
41,5% lượng axit amin. (Dong, 2005). Thủy phân phụ phẩm cá gồm đầu và xương
cá đã được xử lí sơ bộ với nước ở 121
0
C trong 20 phút bằng dung dịch acid được
pha loãng và pH dịch thủy phân được điều chỉnh về 1,0. Bằng cách này, thu được
nguồn đạm dùng cho lên men sản xuất acid lactic với giá thành thấp và làm tăng
hiệu suất sản xuất acid lactic gần 22 % so với việc dùng dịch chiết nấm men. (Min-
Tian Gao, 2005). Sử dụng enzyme Alcalase để thủy phân protein của nội tạng cá
tầm trắng ở điều kiện nhiệt độ 50
0
C trong thời gian 120 phút thì sản phẩm thủy phân
có hàm lượng protein khá cao (66,43%), lipit thấp (1,34%) và hàm lượng
amino axit
cao. (Mahmoudreza và ctv, 2009). Sử dụng enzyme Alcalase và Flavourzyme thủy
phân phụ phẩm cá thì kết quả cho thấy: sử dụng Alcalase tạo ra lượng protein nhiều
hơn (82,66%) so với 73,5% khi dùng Flavourzyme. Bên cạnh đó thì độ tan, độ tạo
bọt của sản phẩm thủy phân khi dùng Alcalase cũng tốt hơn khi dùng Flavourzyme.
(Muzaifa và ctv, 2012). Dùng enzyme Alcalase với hàm lượng 2,5% để thủy phân
da cá hồi trong điều kiện nhiệt độ 55,3
0
C, pH = 8,39 cho hiệu suất thủy phân cao
nhất (77,03%). Sản phẩm thủy phân chứa hàm lượng protein cao (89,53%). (See,
2011).
Chia sẻ với bạn bè của bạn: