Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên Quyển 1 印光 法 師文 鈔 參 編 卷 一


Thư gởi cư sĩ Đinh Phước Bảo



tải về 2.21 Mb.
trang9/29
Chuyển đổi dữ liệu10.03.2018
Kích2.21 Mb.
#36455
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   29

58. Thư gởi cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ mười)

Đã lâu chưa nhận được thư, khôn ngăn mong tưởng. Từ đầu Xuân đến nay, chắc là đứng ngồi đều hưởng phước, các duyên như ý. Xin chúc mừng! Bộ Văn Sao hủ bại của Quang đã được xuất bản. Vào mùa Đông năm ngoái, Quang đã báo cho ông Vân Lôi nhờ Thương Vụ Ấn Thư Quán lúc sách được in ra, hãy gói mười hai bọc, tổng cộng là sáu mươi bộ, báo tin cho người làm của các hạ đến nhận; sáu mươi lăm bộ kia gởi hết về cho Quang. Ông ta đã cùng Quang tính toán: [Mỗi cuốn sách được tính giá] bớt đi ba mươi phần trăm thì với năm mươi đồng sẽ thỉnh được một trăm hai mươi lăm bộ sách. Nhưng thư cục non gan, sợ sách không bán được sẽ cụt vốn, chỉ in ra hai ngàn bộ, đến khi sách được in ra, người thỉnh quá nhiều. Đối với số sách do Quang yêu cầu, dù thúc giục họ cũng không giao. Vân Lôi nhiều lần thúc giục, họ vẫn không giao. Chắc là họ giữ lại để bán ra theo giá thật sự trên thị trường, đợi đến khi tái bản mới giao sách. Chắc là sáu mươi bộ của các hạ, e rằng họ cũng chưa giao.

Tiếp đó, nhận được thư, khôn ngăn cảm kích, hổ thẹn, vì trong cuốn Phật Học Tiệp Kính (Đường tắt trong Phật học) đã đem những lời lẽ hủ bại của Quang xếp chung với ngôn luận của các vị đại tổ sư, các vị đại cư sĩ, càng thêm xấu hổ không chỗ dung thân. Quang là một kẻ vô tri vô thức, đối với Phật học trọn chẳng hiểu biết gì. Tuy đối với một pháp Tịnh Độ tin tưởng sâu xa, nhưng nghiệp sâu huệ cạn, làm sao nêu tỏ cho được? Dẫu có một hai kẻ thấy Phật kính Tăng hỏi đến thì cũng chỉ là lấy những thứ cơm thừa canh cặn để chính mình tự nương cậy, tự giữ mạng sống, hay là những pháp gom cỏ nhóm lá [để đáp lời] hòng khỏi bị quở trách; nào đáng được xếp chung với các ngôn luận của những vị đại tổ sư, các vị đại cư sĩ! Trong bài Kiệt Thành Phương Hoạch Thật Ích Luận (bài luận về cạn hết lòng thành mới đạt được lợi ích thật sự), tôi vốn muốn sưu tập rộng rãi những câu chuyện chứng minh cho vấn đề phước hay tội vì kính trọng hay khinh nhờn để làm khuôn phép răn nhắc lớn lao cho con người hiện thời, nhưng vì mục lực không đủ nên chỉ sao chép được một hai câu chuyện mà thôi!

Sách An Sĩ Toàn Thư trong Thế Đế bao gồm Phật pháp. Do vậy, tiên sinh Nhân Sơn cũng đưa [tên sách ấy] vào trong cuốn Đại Tạng Tập Yếu117. Các hạ soạn mục nói về sách ấy trong bộ [Phật Học] Đại Từ Điển sẽ có lợi ích lớn lao. Năm ngoái, [An Sĩ Toàn Thư] đã được khắc in lại ở Vân Nam, ước chừng đến cuối năm sẽ xong, vẫn còn chưa gởi đến. Những văn từ hủ bại của Quang cũng được ghép vào trong ấy. Tuy văn tự hèn vụng, nhưng cũng có thể dùng làm hướng dẫn vụng về cho kẻ sơ cơ.

Huệ Mạng Kinh118 chính là sách của bọn ngoại đạo chuyên dùng Phật pháp để chứng minh cách luyện đan, lại ngược ngạo lắm phen hủy báng Phật pháp. Các hạ là bậc cao minh, lại còn cực lực hoằng dương [Phật pháp], sao lại đem sách ấy xếp vào Phật điển (những kinh sách nhà Phật)? Chẳng những gây hiểu lầm cho độc giả, lại còn ảnh hưởng lớn lao đến tiếng tăm nghiên cứu Phật học của các hạ! Người sáng mắt đọc đến ắt sẽ cho rằng các hạ tà - chánh không phân, vẫn theo đuổi chuyện luyện đan!

Hơn nữa, nếu chỉ nói đến chuyện luyện đan thì cũng không gây hại lớn lao chi lắm, nhưng sách ấy dẫn toàn kinh Phật, lời Tổ để làm chứng cho phép luyện đan, biến chánh thành tà, khiến cho con người không phân biệt được. Nếu có chỗ nào không thích hợp, ngoại đạo liền sửa đổi câu chữ. Như câu “Duy hữu nhất thừa pháp, dư nhị tắc phi chân” (Chỉ có pháp Nhất Thừa, hai pháp kia chẳng thật) trong kinh Pháp Hoa, chúng liền giảng là “huệ mạng song tu!” Lại còn vẽ hình thận tạng, viết hai bên, một bên thuộc Huệ, một bên thuộc Mạng, cho rằng “huệ mạng song tu thì mới có thể thành đạo!” Dẫn đoạn văn ấy từ kinh Pháp Hoa để làm chứng, nhưng sửa chữ Dư thành chữ Trừ (thành ra “duy hữu nhất thừa pháp, trừ nhị tắc phi chân”) bảo rằng: “Ngoại trừ huệ mạng song tu ra thì không có gì là thật hết!” Phàm những tông Thiền, Giáo, Luật, Tịnh, Mật và lục độ vạn hạnh v.v… được nói trong kinh Phật không gì chẳng bị chúng đả phá, bài xích.

Cuốn sách ấy đều do những kẻ hèn kém vô tri tự ấn tống, lưu hành riêng tư, tự truyền thọ riêng tư, bậc chánh nhân quân tử trông thấy đem đốt đi còn không kịp! Nào ngờ các hạ lại đưa sách ấy vào trong từ điển, tai hại không thể kể xiết! Mong rằng với những bản đã in ra hiện nay, hoặc dùng mực bôi đen đi, hoặc dùng dao rạch bỏ [trang giấy đã in từ ngữ ấy] để người đọc chẳng bị lầm lạc, cũng như bảo toàn được kiến địa của chính mình. Trong lần in sau này, hãy đẽo bỏ [mục nói về sách ấy] khỏi ván in thì một nồi canh thơm ngon chẳng bị phân chuột làm ô uế! Lúc Quang mới xuất gia từng thấy sách ấy. Tới Bắc Kinh cũng nghe nói có hạng người như vậy. Xuống phương Nam tuy chưa thấy, nhưng tại Hàng Châu Kinh Phường hiện đang lưu thông. Những người lưu thông kinh Phật ấy chính là những kẻ được đức Phật gọi là “hạng người đáng thương xót”, nhưng hạng người có thế lực chẳng [ra sức] ngăn cấm thì người sẵn có tín tâm sẽ nhập tà pháp, rồi từ đấy chỗ nào cũng đều có. Thẹn mang tiếng tri tâm, nên nói thẳng không giấu diếm, mong hãy rủ lòng tha thứ (Ngày Hai Mươi Lăm tháng Giêng năm Dân Quốc thứ bảy - 1918).

Pháp sư Ngọc Phong tuy hành trì tốt đẹp, nhưng kiến giải về mặt lý nhiều chỗ thiên vị. Tu theo những điều được nói trong các trước thuật của Sư thì cũng được vãng sanh, nhưng những lời thiên chấp chưa khỏi gây trở ngại lớn lao. Ngay như cuốn Niệm Phật Tứ Đại Yếu Quyết của Sư, về ý thì cũng không có chỗ nào chẳng tốt đẹp, nhưng dùng từ ngữ, lập luận thật mâu thuẫn với những bậc cổ đức. “Chẳng trừ vọng tưởng, chẳng cầu nhất tâm” là đã trái nghịch, lầm lạc với toàn thể. Kinh dạy người ta nhất tâm, Sư lại dạy người ta chẳng cầu. Chẳng trừ vọng tưởng mà có thể đạt được nhất tâm hay sao? Chọn lấy pháp bậc thượng, chỉ đạt được bậc trung. Há có nên vì chẳng thể đạt được mà chẳng giữ lấy pháp ấy hay sao? Nếu do chẳng đạt được mà dạy người khác chẳng giữ lấy pháp ấy thì chính là dạy người khác học theo pháp bậc hạ vậy!

Đại Thế Chí Bồ Tát nói: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”. Sư cực lực dạy người khác tán tâm niệm, chẳng tán dương nhiếp tâm niệm. Niệm Phật tuy hết thảy vô ngại, nhưng muốn đích thân chứng được tam-muội thì cố nhiên giữ tâm cho tịnh vẫn tốt hơn. Nếu chẳng thể tịnh thì cũng không trở ngại gì, đấy chính là “ngay trong nơi động mà tịnh!” Sư một mực coi tịnh là tà, cho rằng [cố giữ cho tâm tịnh] là trái nghịch rất lớn ý chỉ “chấp trì danh hiệu, nhớ Phật, niệm Phật”, lỗi ấy không thể nào diễn tả được!

Hơn nữa, một pháp Niệm Phật bao gồm trọn vẹn hết thảy pháp môn trong một đời [giáo hóa của đức Phật], mà một chữ Tịnh vẫn bị đặt ra bên ngoài thì há có đáng gọi là vị chân thiện tri thức trong Tịnh Tông hay chăng? Mong lần sau tái bản hãy gạt bỏ [mục viết về sách] Tứ Đại Yếu Quyết ngõ hầu kẻ sơ cơ chẳng đến nỗi mắc bệnh, mà người thông suốt cũng không do đâu mà chê cười được! Hoằng pháp lợi sanh thật chẳng phải là chuyện dễ dàng! Hễ hơi thiên chấp, bao mối tệ chen chúc nẩy sanh, chẳng thể không cẩn thận!


59. Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ mười một)
Cuốn Phật Học Chỉ Nam do ông đã rộng lòng ban cho trước đây rất có ích cho kẻ học Phật và những kẻ chẳng tin nhân quả, chẳng tin Phật pháp. Những lời nói của các bậc danh nhân được dẫn trong ấy cũng có những câu chẳng thật đúng pháp lắm, nhưng vì mục lực không đủ nên chẳng thể chỉ ra được. Tiếp đó, nghĩ các hạ dùng cuốn sách làm kim chỉ nam để dẫn dắt [người khác] vào biển pháp; nếu cây kim ấy bị cong vẹo đôi chút vẫn chưa chắc không khỏi đi sai hướng. Vì thế, nay nêu lên những điều tôi từng thấy được (Quang mục lực không đủ, chưa thể đọc trọn khắp. Ở đây chỉ nêu lên những gì mình thấy được mà thôi). Đối với những điều chưa thấy được, cũng có thể dựa vào đây để suy ra, để rồi các hạ sẽ sửa đổi đại lược lời văn, hoặc bình luận ngay sau câu ấy khiến cho người thấy nghe không bị nghi ngờ, lầm lạc thì mới thỏa thích được cái tâm hoằng pháp độ sanh của các hạ.

Hàng thứ sáu ở mặt sau trang thứ mười bảy cuốn Thượng Biên, nay trong đoạn văn ấy chỉ viết là “ngày đó, tháng đó là trai kỳ Quán Âm”, ấy chính là chẳng biết duyên do đức Phật rủ lòng tạo phương tiện khiến cho con người từ tạm thời mà đạt đến thường hằng, do giảm dần mà đoạn dứt. Ở dưới đoạn đó, hãy nên luận cặn kẽ rằng: Đức Phật chế ra cách ăn chay theo trai kỳ (ăn chay theo ngày) vốn là pháp phương tiện để vĩnh viễn đoạn dứt sát nghiệp và thói ăn thịt. Đọc những thiên sách do ông Kỷ (Kỷ Hiểu Lam) ghi chép, biết ông ta tin nhân quả nhưng chưa biết Phật pháp. Phật pháp khó được nghe như thế đấy! Những người được nghe là do đời trước vun bồi quả thật chẳng nông cạn đâu! (Nếu chẳng thêm lời bàn thì chỉ nên ngừng ở chữ Tín nơi hàng thứ năm, những phần dưới đều lược bỏ đi).

Thêm nữa, hàng thứ tám nơi trang ba mươi, [dẫn lời Viên Tử Tài khen ngợi ông Hồ Bảo Tuyền]:“Ông một đời chẳng chịu vào miếu, thần Phật trông thấy đều đứng dậy”. Viên Tử Tài thông hiểu rộng rãi mà vẫn lẫn lộn thần với Phật, gọi thần là “thần Phật” do đây cũng biết rằng ông Viên chẳng biết gì về Phật pháp! (Hàng thứ mười một ghi) “những vị khác như Như Lai, Tiên Tử, Quan Công, Tưởng Hầu119 đều chưa trông thấy”. Tưởng Hầu mà còn chưa trông thấy thì những vị đứng dậy chính là những ông thần như Thành Hoàng, Thổ Địa, hoặc các thần trong năm đường, đều gọi lẫn lộn là “thần Phật”, cũng chẳng phải là gây lầm lẫn cho người khác quá đáng ư? (Hàng thứ mười ba) “Chỉ thần Phật là chánh trực thông minh”, (hàng thứ tám) hãy nên ghi thành “thần trông thấy đều đứng dậy”, (hàng thứ mười ba) nên ghi là “chỉ có thần là chánh trực thông minh” thì kẻ vô tri vô thức chẳng đến nỗi cho là Phật kính trọng ông Hồ [Bảo Tuyền]!

Trong cuốn Thượng Biên, từ hàng cuối trang thứ ba mươi ba cho đến hàng thứ sáu trang thứ ba mươi bốn, hãy nên lược bỏ đi. Đoạn này nói về cách tu luyện của Đạo gia, chứ không phải là Phật pháp. Đem dẫn vào bộ Chỉ Nam, chỉ sợ gây nghi ngờ, lầm lạc cho người ta. Phật pháp chẳng để sót điều thiện nhỏ nhặt nào, nhưng chẳng chấp nhận học chuyện ấy. Điều này khẩn yếu đến cùng cực vậy!

Chương thứ nhất cuốn Hạ Biên, nơi hàng thứ bảy trang ba mươi lăm, nên ghi là: “Phu nhân120 đến vườn Tỳ Lam, thấy một cái cây to tên là Vô Ưu”. Viết như thế câu văn sẽ trong sáng. Nơi chương thứ nhất, từ hàng mười ba của trang ba mươi lăm cho đến hàng thứ tư nơi trang sau, phần này thuộc về chuyện oán gia đời trước đòi mạng mà hiện ra hình tướng lạ lùng ấy. Do Văn Hiến Công oán ghét sự hiển đạt rạng rỡ của Quân Ngọc mà chẳng biết nguyên do, cho đấy là Bồ Tát thị hiện, thoạt đầu đặt tên là Phật Nô; tiếp đó, nó thiêu đốt ngôi tháp đã xây, trọn chẳng biết là oán gia đời trước đòi mạng vợ chồng đứa con nuôi. “Phật pháp khó thể biết, tà - chánh khó thể rõ” là như vậy đó.

Thêm nữa, dòng thứ mười bốn của mặt sau trang ba mươi lăm, “Quỷ Phương” chính là Tây Vực. Kinh Dịch ghi: “Cao Tông phạt Quỷ Phương, tam niên phất khắc” (Cao Tông đánh Quỷ Phương121, ba năm chẳng thắng) đủ để chứng minh điều này. Đời Thương gọi là Quỷ Phương, đời Châu gọi là Hiểm Duẫn, đời Hán gọi là Hung Nô.

Cuốn Hạ Biên, nơi dòng thứ tám thuộc mặt sau trang ba mươi tám, dưới câu “nhập Tam Ma Địa” nên ghi là: “Do ta cúng dường Quán Âm Như Lai khiến cho thân ta thành được ba mươi hai thân ứng hóa, tùy cơ thuyết pháp khiến cho các chúng sanh đạt được mười bốn thứ công đức vô úy và bốn thứ vô tác diệu lực chẳng thể nghĩ bàn nơi thân tâm ta”. Như thế mới chẳng trái nghịch ý nghĩa của kinh mà ngữ ý cũng được thông suốt. Nếu chỉ ghi “ta cúng dường Quán Âm, khiến cho mười phương chúng sanh xem thấy âm thanh” thì thành ra có đầu không đuôi, ngữ ý không trọn vẹn.

Trong dòng kế tiếp viết: “Kính xét: Phẩm vị của Bồ Tát vốn thông với chư Phật”, nên viết là: “Phật thuộc quả vị, Bồ Tát thuộc nhân vị. Dù quá khứ đã thành Phật đạo, nhưng lại hiện làm [thân] Bồ Tát thì cũng chẳng nên gọi lẫn lộn là Phật”. Bồ Tát hiện hình trong sáu đường, không thân nào chẳng hiện. Há nên chỉ dựa vào những thân đã hiện để biện định phẩm vị ư? Các hạ chưa suy nghĩ sâu xa ý nghĩa của đoạn kinh văn vừa dẫn nên mới phạm khuyết điểm này (Câu “lúc ta làm Bồ Tát” chính là chỉ lúc trong quá khứ, ngài còn chưa thành Phật).

Mặt sau trang bảy mươi chín, dòng thứ sáu: “Mổ con trai được La Hán, được Quán Âm”, từ dòng thứ tám là “từ trong con trai thấy được tượng Phật, hay tượng Bồ Tát”, những ghi chép thường được lược bớt giống như thế. Hơn nữa, xưa kia có kẻ chẻ đầu lợn tìm được nhục thân Phật nơi răng hàm. Giết dê nấu chân giò mãi không chín, chẻ ra thấy có tượng Phật bằng đồng. Giết trâu cắt lấy thận, mổ ra tìm được tượng Phật bằng thịt. Bắt được con trai to, cạy ra không được, ý muốn bỏ mặc đó cho nó tự há miệng, thấy trong con trai có một vị Phật bằng ngọc trai. Đấy đều là vì Phật, Bồ Tát đại từ bi hiện thân trong dị loại, rốt cuộc hiện Bổn, khiến cho các chúng sanh kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, biết rõ “hết thảy chúng sanh do mê trái bổn tánh nên đọa lạc trong ác đạo, nhưng cội nguồn tâm tánh trọn chẳng khác gì Phật!” Nếu ta chẳng sớm giác ngộ, tương lai cũng đọa vào trong những loài ấy; đâu dám chẳng tự thương mình, xót người, lớn tiếng đau đớn kêu gào cùng làm cho mọi người mau lên bờ giác ư?

Còn như vỏ con trai ở Phổ Đà có hình Phật là do kẻ gian ngụy tạo, được bán quanh năm ở các tiệm đã mấy chục năm rồi! Họ cắt đôi vỏ trai ra, bỏ tượng Phật bằng đồng vào trong ấy rồi ghép lại. Có người nói [kẻ làm giả] bắt con trai còn sống, mổ ra nhét [tượng đồng vào] rồi nuôi trai trong nước, đợi khi chúng lành vết thương bèn bắt ra đem bán. Cách chế biến sống hay chết như thế nào, rốt cuộc không hiểu rõ, nhưng ngụy tạo là chuyện hết sức đích xác! Ôi! Kẻ gian mang tâm cầu lợi, cũng có thể nói là trí trá đến cùng cực, nhưng họ đã che mắt người ta được thì sẽ thường do đấy mà bán được, chẳng đáng buồn sao? ối với chuyện vỏ trai ở Phổ Đà hãy lược bỏ một đoạn, bỏ đoạn ngụy tạo giữ lại đoạn nói về sự thật. Nếu chẳng lược đi thì người ta ắt sẽ đua nhau mua, chắc sẽ đến nỗi do thứ ngụy tạo mà nghi ngờ thứ thật, không thể không cẩn thận).

Dòng mười trang tám mươi ba, “xét ra chú Đại Bi phát xuất từ kinh Đại Bi Đà La Ni thuộc Mật Bộ. Quán Thế Âm Bồ Tát nói chú này xong, mặt đất chấn động sáu cách, trời mưa xuống bốn loại hoa, chư Phật hoan hỷ, chúng hội đều được lợi ích. Đại Phạm thiên vương thưa hỏi tướng mạo của chú này”, Bồ Tát nói “tâm đại từ bi là [tướng mạo của chú này]” cho đến câu thứ mười “vô thượng Bồ Đề tâm là [tướng mạo của chú này]”. Hãy nên viết như thế thì văn tuy đại lược nhưng lai lịch rõ ràng. Ông Lương (Lương Khải Siêu122) chẳng nêu bày lai lịch khiến cho cả mười câu đều hỏng.

Dòng thứ bốn thuộc mặt sau trang tám mươi ba, gồm hơn hai mươi điều. Dòng thứ bảy, dùng vị Hộ Pháp Kim Cang để giải thích chữ Kim Cang trong [tựa đề kinh Kim Cang] Bát Nhã123. Ông nói là tìm chữ tương đồng để gạt bỏ chỗ sai khác, chẳng đoái hoài về lý là đúng hay sai, sao mà cũng chẳng hiểu nghĩa kinh đến mức cùng cực như thế? Ông Đàm Khê biên soạn nhiều năm mà cũng nói như vậy, Lương Cung Thần124 thuận theo cách hiểu của cha nên ghi như vậy. Đủ thấy Đàm Khê và cha con họ Lương đều là hạng tin Phật nhưng chẳng biết Phật pháp! Nói chung là vì đời trước thiện căn chẳng chân thật, cho nên đời này suốt đời thọ trì đại pháp của Như Lai mà rốt cuộc vẫn là kẻ đứng ngoài cửa! Hãy nên ghi: “Tiên sinh thường nói kinh Kim Cang nghĩa lý sâu xa, uyên áo, tam thế chư Phật đều do kinh này mà ra. Nếu có thể chí thành biên chép, đọc tụng thì không phước nào chẳng đưa đến, không họa nào chẳng diệt. Vì thế, kinh dạy: “Kinh này nghĩa chẳng thể nghĩ bàn, quả báo cũng chẳng thể nghĩ bàn”.

Dòng thứ mười một nơi mặt sau trang tám mươi ba, từ trang chín mươi trở đi cho đến câu “Phật chẳng đáp [lễ] ta”, hãy nên lược bỏ đi. Ông Viên Tử Tài học rộng, thông đạt, mà trong phần truyện ông Hồ Bảo Tuyền125 ở cuốn Thượng Biên đã gọi lẫn lộn thần là “thần Phật”, bảo “thần Phật” thấy ông Hồ đều đứng dậy. Trong ấy lại ghi là “các vị khác như Như Lai, Tiên Tử, Quan Công, Tưởng Hầu đều chưa thấy”, phần cuối lại ghi: “Chỉ thần Phật là chánh trực thông minh”, cho nên biết rằng vì [ông Hồ Bảo Tuyền] là quý nhân, chánh nhân (con người chánh trực) mà [thần thánh] kính trọng. Tài tử vẫn là tài tử, đối với chuyện soạn văn ghi chép sự việc, sao lại hồ đồ cùng cực như thế?

Còn trong chương này thuật chuyện ông Dương lạy Phật, tượng Phật liền đứng dậy lạy trả. Đấy chính là do sức ác nghiệp đời trước mà oán gia trái chủ huyễn hiện cảnh ấy, cốt sao ông ta sanh lòng hoan hỷ lớn lao, tưởng mình đắc đạo liền bị ma dựa phát cuồng, phá hoại công phu từ trước để báo oán. May là ông ta có sức công đức sâu nên chưa bị tổn hoại, rốt cuộc được chánh niệm vãng sanh. Ông Tử Tài và bà nội ông ta tưởng đó là chuyện thật, chẳng đáng buồn sao? Phật là tam giới đại sư, Đẳng Giác Bồ Tát lễ bái mà Phật còn chẳng ngăn trở, huống là đáp lễ họ Dương ư? Chánh nhãn chưa mở, chẳng biết cảnh ma. Tử Tài mà còn như thế huống gì những kẻ khác! (Ngày Hai Mươi Tám tháng Giêng năm Dân Quốc thứ bảy - 1918).


60. Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ mười hai)
Vừa nhận được thư khôn ngăn hổ thẹn. Quang mặc sức nói càn, nào đáng coi như khuôn phép? Nhưng một niệm ngu thành, các hạ đã thương xót sâu xa mà chấp nhận. Đối với sách Phật Học Chỉ Nam, Quang chỉ mới đọc kỹ phần bàn luận thêm của Thượng Biên và Hạ Biên, những phần khác chưa thể đọc trọn hết. Do tiện đâu thấy đấy nên chẳng theo thứ tự nào, nêu lên lôi thôi một hai điều. Gần đây mục lực càng thêm suy kém, nếu đọc hết cả bộ sách chắc là rất phí sức, thật khó thể vâng mạng được (chuyện viết lời tựa thì Quang học thức ở ngoài da, nông cạn, bút mực nhạt nhẽo. Mấy chục năm qua, hết thảy những người tri giao chưa có một ai bày ra chuyện này, xin hãy rộng lòng tha thứ).

Tòa báo Thời Sự cũng bảo đem những phần bàn luận thêm của Thượng Biên và Hạ Biên cho đăng báo từng kỳ một, còn phần chánh văn của Hạ Biên họ chỉ nói đã đăng trong Phật Học Tùng Báo, có lẽ phần sao lục chi tiết từ sách Tam Quốc Phật Giáo Lược Sử không cần phải đăng (Quang lại bảo ông Vân Lôi: Tác phẩm Thiếu Niên Tấn Đức Lục của ông Đinh chính là khuôn mẫu cho bọn thiếu niên, hữu ích lớn lao cho thế đạo nhân tâm, ngoài chuyên mục Phật học, hãy nên đăng tải đầy đủ tác phẩm này để giúp cho công cuộc vãn hồi thế đạo nhân tâm).

Vì sao biết bài Đại Tạng Đại Lược là thủ bút của ông Đoan Phủ? Khi tờ Phật Học Tùng Báo đăng bài văn này, ông Đoan Phủ đang chịu trách nhiệm biên tập [cho tờ Tùng Báo]; hơn nữa, ông ta đã chấp thuận lời mời của Tần Già Hoa Viên hơn nửa năm rồi! Đoan Phủ học thức cao minh, bút mực siêu diệu, Tăng - tục thời gần đây hiếm ai sánh bằng!

Trích lục những câu danh ngôn để phụ trợ giáo lý, dẫu chẳng ghi tên [người nói những câu ấy] cũng chẳng phải là cướp đoạt cái hay của [người khác]. Nếu mạo nhận đề tên chính mình thì mới nói như vậy được, chứ chưa đề tên mình thì cần gì phải quá khiêm tốn? Nhân quả báo ứng là phương tiện đầu tiên để nhập đạo của Nho giáo lẫn Phật giáo, mà cũng là cương tông để chứng đạo của Nho giáo lẫn Phật giáo. Người đời thường coi nhân quả báo ứng là chuyện thiển cận, đến nỗi bao nhiêu kẻ chẳng thể vượt khỏi Thường Kiến và Đoạn Kiến. Nếu chẳng theo gót bọn Xiển Đề thì cũng là phường “kể chuyện ăn, đếm của báu”! Sách [Pháp Hoa Kinh Lực] của ông Lưu [Diễn Tông] đã sớm bỏ đi rồi, công đức vô lượng! Cái hại của sách ấy chẳng thể nào nói tường tận được! Tuy khen ngợi Pháp Hoa nhưng chẳng khen ngợi được đạo của Pháp Hoa. Cái tội trái nghịch Pháp Hoa đã đáng thiêu hủy rồi! Huống chi phá hoại pháp môn Tịnh Độ “rốt ráo thích hợp khắp ba căn khiến cho ai nấy được liễu thoát ngay trong đời này” của tam thế chư Phật ư? Bạn bè đau lòng buốt óc, nuốt lệ bảo với Quang, cho nên Quang mới hai lượt giãi bày lẽ lợi - hại. Nếu chẳng tin, xin hãy tới Phổ Đà, sẽ đưa những lá thư gốc và thư họ trả lời Quang cho ông đọc, ắt sẽ tự biết Quang chẳng nói dối. Quang vô học, vô đức, vì bất đắc dĩ, chỉ đành bắt chước dấu tích “gom chữ, quét lá” để đáp ứng, chỉ mong tắc trách cho xong chuyện, nào đáng khen ngợi quá mức? Hổ thẹn, sợ hãi khôn ngằn!

Cư sĩ hiện đang là người cực lực hoằng dương Phật pháp bậc nhất, để dạy người thì chính mình phải hành, cố nhiên nên ăn chay trường. Ngay cả vợ con, bạn bè, cũng nên bảo họ ăn chay trường. Dẫu nhập đạo chưa sâu, chẳng thể hoàn toàn dứt [ăn mặn được], cũng nên dạy họ do giảm dần mà đoạn được, đấy chính là nghĩa trọng yếu. Người đời chẳng biết loài vật đều do nghiệp lực mà có, tưởng “trời sanh ra những loài ấy vốn để nuôi con người!” Nếu biết được lý sâu “hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ trong quá khứ, là chư Phật trong vị lai”, ắt sẽ có chuyện ăn vào chẳng thể nuốt xuống được! Cố nhiên cư sĩ hãy nên đem thân làm gương cho người khác, hãy nên vĩnh viễn dứt bỏ chuyện ăn thịt. Dẫu cho ăn rau bên cạnh thịt126 cũng chẳng cần phải bắt chước hình tích của bậc Đại Sĩ thuở trước, bởi lẽ, người hoằng pháp cần phải hiểu thời cơ. Thời bây giờ chẳng giống như thời cổ, nhằm buổi giọt nước đã đông thành băng thì trọn chẳng thể dạy người khác ăn mặc như trong tiết Hè để đến nỗi làm hại tánh mạng của người ta.

Ông thành lập Bần Dân Giáo Dục Xã (Hội giáo dục dân nghèo) đủ chứng tỏ tấm lòng đau đáu chân thật, thiết tha, tiếc rằng Quang nghèo trơ nghèo trất, chẳng thể tùy hỷ được, thiếu sót vô cùng. Tuy chưa xem Phật Học Tiểu Từ Điển, nhưng đọc qua lời tựa, biết có khảo chứng, tra cứu, có ích lớn lao cho đồng luân. Nhưng sách được in trên giấy có độ bóng, nếu [mực in] bỏ ít chất nước thuốc, sách chỉ giữ được mười mấy năm, hiếm sách nào giữ được hơn hai mươi năm. Nếu [mực in] bỏ nhiều chất thuốc thì mấy năm liền phai nét. Quang đã từng thử nhiều lần rồi. Trước đây, Quang từng đặc biệt vì chuyện này mà gởi thư cho Phật Học Tùng Báo và nhân tiện, thưa trình chín điều. Năm trước, tôi đã vì ông Châu Mạnh Do, giao cho chú tiểu ở Pháp Vũ sao lục [lá thư ấy]; chú ta vì làm biếng viết chữ nên đã lược đi ba điều trước đó và ba điều sau trong bức thư. Tôi cũng đem ý này thưa với ông Đoan Phủ, được đăng tải trong báo Thời Sự. [Xin đọc bài ấy] sẽ biết được nỗi lo canh cánh hèn tệ của Quang.

Cố nhiên, đối với bọn thương nhân chỉ cầu lợi, chẳng thể nào nói với họ về chuyện này được. Các hạ chỉ muốn hoằng pháp lợi sanh, ắt cần [những sách vở in ra giữ được] rất lâu chẳng bị phai nét chữ thì mới có lợi ích thật sự và đạt được lợi ích rộng lớn. Nếu [mau] phai nét thì chỉ phí tiền của, đến nỗi đánh mất lợi ích thật sự. Dám thỉnh các hạ phát lòng từ bi lớn lao, hết thảy những sách hữu ích cho thế đạo nhân tâm đều đừng dùng loại giấy ấy. Chỉ những loại đọc xong liền bỏ đi thì dùng [loại giấy ấy để in] cũng không sao. Quang không có sức làm công đức, tính dùng lời nói này coi như là thí kinh sách cho hàng Phật tử tín tâm khắp thiên hạ trong đời sau. Không chừng nhờ đây mà tiêu nghiệp lụy, được vãng sanh.

Tòa báo Thời Sự cũng đăng tải một trang nêu ra những thiếu sót, giống như thư gởi cho các hạ, nên không cần phải sao chép lại để gởi đi. Cuốn Giáo Dục Sô Nghĩa (những ý nghĩa quê mùa về giáo dục), văn lẫn lý đều hay, nhưng trong đoạn cuối cùng, dường như mắc khuyết điểm khơi gợi con người khinh miệt tam giáo. Phàm là người trong giáo hội, ai có thể cư xử vượt ra ngoài tam giáo, ai có thể tự lập một giáo ở ngoài tam giáo để đối kháng [tam giáo]? Dẫu nhiệt tâm đến tột bực, cũng chỉ tuân theo ý thánh nhân tam giáo để cực lực phụng hành mà thôi. Dẫu cho các tôn giáo ở ngoại quốc và Hồi giáo chẳng tin tưởng tam giáo, nhưng quả vị trong các giáo ấy có vượt ra ngoài quả vị của tam giáo được hay chăng? Những tôn giáo ấy chẳng bao gồm những đạo lý như trời che đất chở trong tam giáo hay chăng? Bất quá, thánh nhân tùy mỗi nơi mà thể hiện hình tích lập giáo, hơi có chút khác biệt.

Dùng ngu kiến để xét, có lẽ nên nói: “Thánh giáo nước ta, gồm ba tông lớn là Nho, Phật và Đạo. Nho mang hoài bão tự lập, lập người, Phật chuyên theo đuổi tự giác, giác tha; Đạo tuy điềm tĩnh, ẩn dật, nhưng xét về đại thể thì giống như Nho. Nhưng người tu luyện phải lấy chuyện tích đức chứa công, giúp đời, cứu dân làm nhiệm vụ trọng yếu. Nay những người trong giáo hội thấu hiểu tấm lòng ‘đối đãi bình đẳng với mọi người, thiên hạ là của chung’, phát khởi tấm lòng giúp già, an trẻ, không chỉ thương yêu riêng người thân của chính mình, không chỉ lo chăm chút con cái của chính mình. Lòng son nhiệt tâm thật sự lấp trời đất, lòa nhật nguyệt. Nếu người trong cả nước đều cùng phát cái tâm này, cùng làm chuyện này thì không một ai chẳng được yên vui, cõi đời đại đồng sẽ lại được thấy trong ngày nay. Lợi ích ấy lớn lao thay! Tôi nguyện ai nấy đều suy xét” (tiếp đó, ghi đúng như nguyên văn).

Những trước thuật của con người gần đây thường đề cao quá đáng [những pháp đang được mình đề xướng] với dụng ý muốn cho người khác tin chắc vào pháp của mình, thói tệ miệt thị cổ nhân phá pháp cũng bắt nguồn từ đây. Khổng Tử đã nói: “Nhất ngôn nhi hưng bang, nhất ngôn nhi táng bang” (Một lời hưng thịnh nước nhà, một lời vùi lấp nước nhà). Một đằng gây nên ích lợi về sau, một đằng gây nên họa hoạn về sau. Viết những sách thông thường chẳng có quan hệ khẩn yếu còn không nên như thế, huống là viết những sách hoằng pháp lợi sanh ư? Cổ đức nói: “Chuyện ấy như cái nạo bằng kim cang để gọt mộng mắt, hơi có chút gì không đúng liền lập tức hư mắt”, há chẳng cẩn thận ư? Ông Kỷ Văn Đạt nói: “Đọc khắp các sách được cất giữ bí mật, biết trước thuật của người đời sau kém xa tiền nhân”. Dẫu có vẻ tinh vi hơn, nhưng vẫn là thoát thai từ màu lam gốc127 của tiền nhân, mà dám tự phụ là bậc nhất xưa nay không ai sánh bằng, cũng như nói tiền nhân đều sai lầm hay sao? Do các hạ lòng dạ rỗng rang vì pháp, nên tôi mới dám hiến lời bàn luận thẳng thừng này!

Đối với chuyện giáo dục, nhà trường, Ấn Quang vốn là kẻ đứng ngoài, chỉ vì cảm tấm lòng công bình chánh trực “muốn cho thiên hạ đều dùng thiện pháp để lập pháp”, nên nhân đây dâng lên ý kiến ngu muội để ngài xét rõ. Giáo dục trẻ em nghèo thì có lẽ chỉ đối với những đứa có thiên tư cao mai sau ắt sẽ trở thành quan chức, thân sĩ, giúp nước giúp dân [là có thể] chuyên dùng cách giáo dục trong nhà trường bình thường để dạy dỗ. Chứ những đứa chỉ có thể làm thợ, làm con buôn để tự kiếm ăn bằng sức lực của chúng thì có lẽ nên dạy chữ lẫn dạy nghề giống như chương trình của các Cô Nhi Viện gần đây, chắc sẽ giảm được chi phí cho nhà trường mà trẻ nghèo cũng được lợi ích thật sâu. Quang thấy phương pháp của Cô Nhi Viện thuộc hội Phật giáo Ninh Ba như sau: Hễ cô nhi đã có thể tự mặc áo, ăn cơm, không cần có người khác săn sóc thì mới cho vào viện. Cách dạy là đọc sách, viết chữ, học làm toán, học vẽ, bện giày cỏ, bện những thứ chiếu, gối, mũ dùng cho mùa hè, in đá, kiểm sách, may vá v.v… đều nhất loạt học hết. Đợi đến năm mười lăm tuổi khi rời khỏi viện liền có thể tự lực kiếm sống. Dẫu có đi học nghề hay học buôn bán cũng dễ dàng.

Trường học bình thường thì bảy ngày nghỉ một ngày và nghỉ lễ, nghỉ cuối năm, nghỉ hè. Trong một năm, trừ những kỳ nghỉ ra, chỉ còn được hơn sáu tháng. Huống chi trong một ngày, tám giờ [sáng] vào học, bốn giờ [chiều] tan học, thời gian ấy chỉ gồm bảy tiếng đồng hồ, lại có thời gian rảnh rỗi. Nếu chẳng phải là đứa thiên tư vẹn mười thì học được cái gì đâu, chỉ là uổng phí thời gian, uổng phí một phen khổ tâm của những người lo liệu. Nhưng trường học trong thiên hạ đều theo lệ đó, chỉ lợi cho giáo viên, nhưng bất lợi cho học sinh trong nhà trường, thật đáng than thở, cảm khái! Trong Cô Nhi Viện, chẳng lập kỳ nghỉ, thời khắc học hành hằng ngày cũng kéo dài hơn vì đã kèm thêm thời gian học nghề; nếu thời gian học ngắn ngủi sẽ chẳng thể thực hiện được điều nào! Đối với những sản phẩm chế tạo được, ngoài những món để tự sử dụng, đều đem bán ra ngoài. Tiền lời kiếm được cũng có thể giúp đỡ đôi chút cho chi phí nhà trường. Trẻ nghèo và trẻ mồ côi đâu khác nhau cho lắm!

Thật sự muốn cho trẻ dù thượng trung hạ căn đều có thể tự lập thì có lẽ phương pháp này thích hợp nhất. Nhưng người đứng trông coi phải là người thật sự lo liệu; nếu không, chỉ có hư danh, chẳng thành được chuyện gì. Đấy là thói tệ chung của những kẻ làm việc công từ trước đến nay ở nước ta. Nếu dốc toàn bộ cái tâm độ người của Phật, Bồ Tát, tâm kinh bang tế thế của thánh hiền vào việc này thì nước ta được hưng thịnh sẽ trông cậy vào đây, chứ nào phải chỉ dân nghèo được lợi ích!


Каталог: Luan -> aqvstambien
Luan -> Phần mở đầu Tính cấp thiết của đề tài
Luan -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Luan -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
Luan -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
Luan -> MỞ ĐẦu tính cấp thiết của đề tài
Luan -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
Luan -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
Luan -> Tính cấp thiết của đề tài
aqvstambien -> Ấn Quang Pháp Sư

tải về 2.21 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   29




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương