Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên Quyển 1 印光 法 師文 鈔 參 編 卷 一


Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo



tải về 2.21 Mb.
trang7/29
Chuyển đổi dữ liệu10.03.2018
Kích2.21 Mb.
#36455
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   29

52. Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ tư)
Hôm Mười Tám Quang đã kính gởi cho các hạ một lá thư hủ bại và bộ Văn Sao vụng về, không biết đã nhận được hay chưa? Không ngờ các hạ cũng lại gởi thư phúc đáp ngay trong ngày hôm ấy, đồng tâm tương cảm đấy chăng, hay là ngẫu nhiên phù hợp mà thôi?

Nghi thức niệm Phật như đã nói phải chia thành hai loại: Niệm Phật cùng đại chúng và niệm một mình. Nếu niệm cùng đại chúng, hãy nên dựa theo Niệm Phật Khởi Chỉ Nghi (nghi thức niệm Phật) trong kinh nhật tụng để khỏi gây trở ngại [cho những người đã quen hành trì] theo lối thông thường, đây - kia đều hợp lẽ. Còn tu niệm Phật một mình tuy có thể [hành] theo [chương trình do] mỗi người tự lập, nhưng thứ tự niệm tụng chớ nên tán loạn. Tức là nói buông xuống thân tâm, nhắm mắt, lặng thần, niệm Tịnh Pháp Giới Hộ Thân Chú74 và thầm tưởng bài kệ Tán Phật, lễ Phật và ba vị Bồ Tát xong. Nếu tụng kinh thì tụng kinh Di Đà một biến, Vãng Sanh Chú ba biến xong rồi mới niệm rõ ràng bài kệ Tán Phật xong, liền niệm tiếp “Nam-mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật” rồi chỉ niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Hãy nên vừa đi nhiễu vừa niệm, hoặc niệm mấy trăm tiếng, hoặc niệm một ngàn tiếng. Cuối cùng niệm ba danh hiệu Bồ Tát “Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng”, rồi mới niệm bài Phát Nguyện Văn, niệm xong sẽ đọc Tam Tự Quy. Đấy là nghi thức của một kỳ niệm Phật vậy. Nếu muốn tụng kinh nhiều hơn, hoặc tụng nhiều chú, hãy nên lập một thời tụng kinh khác. Nếu cùng làm trong một lúc thì phải tụng kinh trước, kế đó tụng chú, rồi đến tán Phật, niệm Phật, tiếp theo là phát nguyện, tam quy. Đấy chính là thứ tự quyết định chẳng thay đổi vậy.

Pháp Thập Niệm do ngài Từ Vân Sám Chủ vì hàng quốc vương, đại thần việc nước đa đoan, không rảnh rỗi để chuyên tu mà lập ra. Lại muốn khiến cho họ được tịnh tâm, nhất tâm, nên lập ra cách lấy hết một hơi thở làm một niệm để tâm họ nương theo hơi thở mà thâu nhiếp, không bị tán loạn. Sự mầu nhiệm của pháp ấy nếu không phải là người trí sẽ không thể biết được! Nhưng chỉ có thể dùng một lần vào buổi sáng, hoặc dùng ba lần: buổi sáng, buổi tối và giữa trưa, chớ nên dùng nhiều! Dùng nhiều sẽ bị tổn khí thành bệnh. Chớ nên nói pháp này dễ nhiếp tâm nhất bèn sử dụng thường xuyên thì bị hại chẳng nhỏ đâu!

Niệm Phật niệm ra tiếng hay niệm thầm thì phải xét nơi chốn, quang cảnh như thế nào. Nếu niệm ra tiếng rõ ràng không gây trở ngại gì thì nên niệm rõ tiếng như khi thực hiện nghi thức niệm Phật, nhưng chỉ nên sao cho nghe tự nhiên, đừng niệm quá lớn tiếng. Quá lớn tiếng có thể bị tổn khí mắc bệnh. Nếu tình hình nơi chỗ ta đang ở chẳng tiện niệm ra tiếng thì chỉ niệm nhỏ tiếng và niệm Kim Cang Trì, công đức chỉ ở chỗ chuyên tâm dốc chí, còn âm thanh vẫn là chuyện nhỏ. Trừ lúc riêng thực hành [công khóa] niệm Phật ra, nếu suốt ngày thường niệm thì cố nhiên nên niệm nhỏ tiếng, niệm Kim Cang, hoặc niệm thầm, vì nếu cứ thường niệm ra tiếng rõ ràng, ắt sẽ đến nỗi bị tổn khí. Chưa chứng Pháp Thân, cần phải điều hòa sao cho thích đáng thì mới chỉ có ích, chẳng bị tổn hại. Niệm rõ tiếng tốn sức, niệm thầm dễ hôn trầm. Tuy tán trì có công đức khó nghĩ tưởng, nhưng so với nhiếp tâm tịnh niệm khác nào một trời một vực!

Đối với mấy điều này, Quang từng khá tốn công nghiên cứu, năm ngoái đã tìm ra một cách hay khéo thuận tiện, viết thư trình bày với những người tri kỷ, ai nấy đều khen ngợi. Nếu đã [niệm Phật] thành phiến, cố nhiên không cần dùng tới cách này. Nếu chưa thành phiến và hết thảy những kẻ sơ cơ sử dụng cách này thì không ai chẳng thích hợp, chỉ có ích chứ không bị tổn hại. Tuy các hạ không cần đến cách này, nhưng cũng nên vì những kẻ tu Tịnh Tông chưa nhận được cửa mà thực hành thử để bảo khắp với những người thông sáng mai sau. Cách ấy được ghi nơi hàng thứ tám trong trang bốn mươi lăm bộ Ấn Quang Văn Sao75, xin hãy kiểm xem.

Trước đây, đọc tác phẩm lớn lao của ông, thấy chữ “tướng hảo quang minh” trong bài Kệ Tán Phật đã bị đổi thành “tướng sắc quang minh”, tôi đoán là do thợ sắp chữ ngẫu nhiên sắp lộn. Trong thư này, lại thấy các hạ viết là “tướng sắc”, mới biết các hạ cố ý sửa đổi. Tám câu kệ này do Anh pháp sư ở Đồng Giang đời Tống76 tóm lược những ý nghĩa chánh từ ba kinh Tịnh Độ mà soạn ra, không một chữ nào không có lai lịch, há nên sửa đổi bừa bãi? Quán Kinh dạy: “A Di Đà Phật có tám vạn bốn ngàn tướng, trong mỗi một tướng có tám vạn bốn ngàn tùy hình hảo77, trong mỗi một hảo có tám vạn bốn ngàn quang minh”. Các hạ thông hiểu Phật pháp sâu xa, sao không thấy được chỗ này? Trong hai cuốn Tiên Chú78 những chữ giống như thế này rất nhiều, Quang tính muốn nói cặn kẽ, nhưng sợ người ta chẳng vừa lòng, nên nói: “Tôi chưa minh tâm, người ta có cái nhìn khác”. Ở đây, do ông đã trống lòng hỏi đến, chẳng ngại gì thừa dịp phô bày [sự hiểu biết] tầm thường. Nếu các hạ thật sự lo tính cho Phật pháp, cho chúng sanh, chắc sẽ chẳng vì xung đột ý kiến mà quở trách. Nếu chỉ muốn khen ngợi thì hãy nên hướng về bọn xu phụ thời thế mà bàn luận; Ấn Quang tuy kém cỏi vẫn chẳng muốn đi theo ngõ rẽ ấy!

Trong sách Di Đà Trung Luận của Vương Canh Tâm, do chẳng biết pháp môn Quyền - Thật của Như Lai, chẳng biết căn cơ chúng sanh sai biệt nên phàm có điều gì chẳng hợp với ý kiến của chính mình đều bảo là sai lầm, mạt sát các vị thiện tri thức trong cả một ngàn năm trăm năm, chỉ đề cao một mình đại sư Nhất Tỉnh nhằm phô rõ chính mình được thánh sư truyền cho chân tông nhà Phật! Tuy nói là hoằng pháp, nhưng quả thật đã chèn ép, hoại loạn Phật pháp, tạo ra mối tệ sâu xa khiến chúng sanh lầm lạc, nghi ngờ, quyết chớ nên lưu thông sách ấy!

Ông Châu Mạnh Do từng thống thiết khen ngợi họ Vương trước mặt Quang, Quang nói đại lược những điểm tệ hại, nhưng ông ta vẫn chưa cam lòng, vẫn gởi sách ấy đến. Xưa kia Quang đã tạo nên cái nghiệp mù mắt, nay chẳng dám đi vào vết xe ấy, bèn hết sức trình bày những điều tệ, nhưng ông ta vẫn chưa tin trọn vẹn, đem thư của Quang gởi cho Từ Úy Như. Úy Như nói Quang phê phán như vậy vốn có hiểu biết riêng; do vậy, bèn đem lời tiên sinh Dương Nhân Sơn chê trách [sách ấy] gởi cho [ông Châu]. Châu Mạnh Do đem lời nói của đôi bên so sánh, mới biết rằng: Ấn Quang thật chẳng phải là nói mò, nhưng lời chê trách của tiên sinh Nhân Sơn đa phần chú trọng tại lời văn, còn lời chê trách của Quang chủ yếu dựa trên đại thể và tâm bệnh. Lưu thông Phật pháp quả thật chẳng phải là chuyện dễ! Phải mong sao khế lý, khế cơ, trọn chớ nên vâng theo cái tâm [thiên kiến riêng tư] rồi tự lập [những ý kiến ức đoán] để khoe lạ phô kỳ, hòng thỏa thích tri kiến một thời của bọn tân học mà thôi! Đã là tri kỷ, chẳng ngại gì dâng lời nói thẳng (Ngày Hai Mươi Ba tháng Sáu năm Dân Quốc thứ sáu - 1917)


53. Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ năm)
Ngày Hai Mươi Tám tháng trước đã kính nhận được thư và các sách về Nho - Phật do ngài biên soạn, kính cẩn mở ra đọc, cảm kích, hổ thẹn khôn ngằn! Ấn Quang là một ông Tăng tầm thường chỉ biết cơm cháo mà thôi, nếu không có việc gì sẽ chẳng đụng đến bút mực, gặp chuyện ép buộc bất đắc dĩ thì bút cùn, lời quê, quấy quá cho xong trách nhiệm! Há nên khen ngợi, tán dương quá đáng, đến nỗi đánh mất lợi ích thật sự do được rèn giũa, gọt mài, lệ trạch79, giúp cho điều nhân vậy? Các hạ học rộng nghe nhiều, là bậc quân tử tận tụy tu dưỡng trong đạo Nho, biên soạn những cuốn Độc Thư Lục và Thiếu Niên Tấn Đức Lục v.v… thảy đều tinh vi, thuần túy, tôi không chen vào đâu được, đúng là kim thang80 cho thánh giáo, là khuôn mẫu cho bọn hậu sanh. Tuy vậy, những bộ Tiên Chú cho kinh Phật dù đại thể sâu xa, hay đẹp, bóng bẩy, trong ấy vẫn có khá nhiều chỗ không thích hợp cho lắm. Câu “chẳng che giấu tỳ vết” chính là nói về điều này vậy, vì với học vấn, kiến địa của các hạ mà sao cũng chẳng thấy được chỗ này?

Ấy là vì Phật pháp là pháp siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Trong ấy, dù văn hay nghĩa, dù sự hay lý, có những điều giống với thế gian, có thể dùng thường tình để suy lường. Có những điều chẳng giống với thế gian, chẳng thể dùng thường tình để suy lường được! Cố nhiên Ấn Quang ngu si khôn ví, xuất gia hơn ba mươi năm mà chẳng dám sớ giải kinh điển một chữ, một câu nào, vì chính mình chưa minh tâm, đâu thể nào khế hợp Phật ý! Cổ nhân chú giải kinh, có vị mười năm hay tám năm chú giải một bộ, có vị suốt đời chỉ chú giải một bộ. Còn như các vị Thiên Thai, Hiền Thủ, Vĩnh Minh, Ngẫu Ích v.v… thật sự là những vị đã chứng Pháp Thân từ lâu, nương theo thệ nguyện hoằng pháp [mà thị hiện giáng sanh], chớ nên đem bọn phàm tục thường nhân sánh với các ngài!

Các hạ nghiên cứu kinh Phật, chưa đầy vài ba năm liền có thể thấu đạt tận cùng chỗ sâu xa, huyền áo như thế. Nếu dùng công phu mười mấy năm thì đối với mỗi một chữ trong bản chú giải ấy Ấn Quang sẽ lạy một lạy để báo ân hoằng kinh, mong cho [bản chú giải ấy] được vĩnh viễn lưu truyền. Nay ông đã lầm lẫn coi Quang là người cùng chí hướng và là bạn tri kỷ, lại bảo Quang chỉ ra mỗi chỗ chưa thấy đến, nhưng Quang mắt gần như đã mù khi vừa sanh ra, chẳng thể đọc tường tận mỗi một điều được, chỉ đành nêu đại lược một hai chỗ đã thấy. Nhưng lòng ngu trung chẳng giúp được gì, lời cuồng nhàm tai, chỉ có thể giúp đỡ vặt vãnh cho việc nghiên cứu, bàn bạc, chưa thể coi là lời bàn luận đích xác quyết định bắt buộc phải noi theo. Xin hãy rủ lòng rộng lượng chỉ bảo cho những chỗ sai thì may mắn lắm thay!

Đức Như Lai giáng sanh vào thời nào có nhiều thuyết khác nhau. Tuy mỗi thuyết đều hợp lý, nhưng xét đến cùng, chẳng [thuyết nào] thích đáng bằng thuyết nói đức Phật giáng sanh vào năm hai mươi bốn đời Châu Chiêu Vương (971 trước Công Nguyên). Bởi lẽ, khi [hoàng đế] triều Hán nằm mộng [thấy người vàng, đem chuyện ấy hỏi ý quần thần], Thông Nhân Phó Nghị, Bác Sĩ81 Vương Tôn đã dùng thuyết này để tâu trình, lại còn dẫn sách Châu Thư Dị Ký để làm chứng82. Nay Châu Thư Dị Ký không còn thấy nữa, nhưng cuộc vấn đáp nơi sân chầu nhà Hán quyết chẳng phải là bịa đặt! Huống chi trước thuật Thiền - Giáo các đời phần nhiều đều lấy thuyết này làm chuẩn, quyết chẳng nên bỏ qua ý kiến đã được mọi người tuân theo để tự lập nghĩa mới, gây thêm nghi ngờ cho người thiếu học thức đời sau. Dẫu có một hai bộ sách nói theo kiểu này, nhưng đấy là vì tác giả sẵn chí bảo vệ đạo pháp nhưng chưa đọc rộng rãi các sách vở, cho rằng năm Trang Công thứ bảy83, hằng tinh84 chẳng hiện, ban đêm mà trời sáng như ban ngày, nếu không phải đức Phật xuất thế thì ứng với chuyện nào nữa đây? Chẳng biết bậc phi thường đản sanh và pháp phi thường được lưu truyền, đều có những tướng lành phi thường, há phải chỉ mình đức Như Lai mới có, còn các vị Pháp Thân đại sĩ thị hiện thì hoàn toàn không có [những tướng lành ấy] ư?

Sách Thiền chép khi ngài Nam Nhạc [Hoài] Nhượng85 sanh ra, khí trắng ngút trời, quan Thái Sử tâu lên vua rằng đấy chính là điềm lành, còn những chuyện chẳng được lưu truyền trong sách vở chẳng biết là bao nhiêu? Nếu cứ định là năm thứ chín đời Trang Vương thì những người đời sau các hạ đọc kỹ những sách vở trong nhà Phật sẽ thấy niên đại trước sau đều chẳng thể luận cho xuông được. Vì sao vậy? Do Phật sanh sau mà đệ tử Phật và các di tích, sự thật về Phật đã có trước. Đã chẳng chịu nói là Phật sanh vào thời trước đó mà lại chẳng thể đẩy các sự ấy ra sau; nếu lặng thinh không bàn đến thì thôi, hễ bàn đến sẽ trở thành tự mâu thuẫn! Huống chi trong lời tựa dùng năm thứ hai mươi sáu đời Châu Chiêu Vương để chú thích! (Có người nói năm Giáp Dần là năm thứ hai mươi sáu đời Châu Chiêu Vương, nhưng đa số cho là năm thứ hai mươi bốn), trong kinh lại dùng năm thứ chín đời Trang Vương86 để chú thích! Cùng là trước tác của một người, sao lại lập luận ngoắt ngoéo như thế, thật tạo trở ngại lớn cho kẻ sơ cơ! Cố nhiên, do các hạ vô ngã, sẵn chí lợi người nên tôi không thể không tận hết một chút ngu thành! Tiếc rằng Quang không có tánh đa văn nên chẳng thể viện dẫn sách vở để chứng minh, thật quá thiếu sót!

Đối với câu “[Để ra vẻ ta đây] là một vị cư sĩ thông hiểu kinh điển, người chú giải ưa dùng mánh khóe viết sao cho câu văn phức tạp, bóng bẩy” và hai câu kế tiếp đó trong lời tựa của pháp sư Đế Nhàn dành cho bản Di Đà Kinh Tiên Chú, những điều được nói [trong phần chú thích của các hạ] không được ổn thỏa, sát sao cho lắm! Trong lời chú thích, [các hạ] đã dẫn lời Kỷ Đại Khuê:

Kinh Hoa Nghiêm danh nghĩa hết sức phức tạp, nhưng quả thật đầu mối rành mạch, chỉ nên căn cứ theo danh sắc của nguyên bản mà lãnh hội. Ngài Thanh Lương thêm vào những danh sắc “hàng bố, viên dung87, tứ pháp giới88, thập huyền89” v.v… để bày vẽ, chồng đệm, dựng nhà v.v… thật khiến cho người ta kinh hãi khôn ngằn!” Chẳng ngờ kiến địa như Hoàng cư sĩ90 và các hạ mà lại dẫn những câu ấy để chú thích lời tựa của pháp sư Đế Nhàn, khiến cho người thông hiểu đều kinh hãi, lạ lùng, [lại còn] khơi gợi cho người đời sau đua nhau chê trách cổ nhân91. Mối tệ ấy thật chẳng nông cạn đâu! Vì thế, chẳng thể không nói, chẳng nỡ không nói!

Trộm nghĩ: Đối với các pháp do đức Phật đã nói, nhằm thích hợp cho chín pháp giới, những nhà chú giải đời sau ai nấy tùy theo căn cơ của từng loại mà lập ngôn nhằm làm lợi cho kẻ sơ cơ. Nếu không chú thích cặn kẽ, giải thích ý nghĩa từ ngữ, ý nghĩa lời văn thì sẽ không thể được! Muốn làm lợi cho hạng căn cơ lớn lao mà chẳng giảng giải ý nghĩa lớn lao để họ thấu hiểu ý Phật thì không thể được! Hai vị đại sư (Thiên Thai Trí Giả và Thanh Lương Trừng Quán) mỗi vị đều có chủ ý, chứ không phải là hai vị đều có chỗ đúng, chỗ sai! Vì thế, ngài Thiên Thai giải thích kinh, dùng nhân, duyên để phán giáo, [phân biệt] Bổn, Tích, quán tâm sai khác; đấy là vì ý nghĩa kinh sâu thăm thẳm, chẳng thể dùng một văn một nghĩa để nói trọn hết được! Nếu chỉ chấp nhận dựa theo ý nghĩa của từ ngữ, ý nghĩa của kinh văn để giải thích kinh thì những văn nhân biết chữ đọc sách trong cả thế gian đều đạo cao như ngài Thanh Lương, tâm khế hợp Phật tâm; mà ngược lại, ngài Thanh Lương là tội nhân phá hoại Hoa Nghiêm bậc nhất! Có lẽ ấy hay chăng? Quân tử do một lời mà được coi là trí, do một lời mà bị coi là bất trí, há chẳng nên cẩn thận ư?

Nếu chỉ y theo ý nghĩa kinh văn [để giải thích kinh điển] thì câu nói “đức Như Lai vì ta diễn nói pháp môn Phổ Nhãn. Giả sử dùng mực có số lượng bằng biển cả, dùng bút chất đống [cao to] như núi Tu Di để viết một môn trong một phẩm, một pháp trong một môn, một nghĩa trong một pháp, một câu trong một nghĩa của pháp môn này vẫn chẳng viết được chút phần, huống là có thể tận hết!” của tỳ-kheo Hải Vân trong phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm sẽ trở thành lời nói dối, tự phá hoại kinh Hoa Nghiêm; các vị tôn túc thuộc tông Thiên Thai và Hiền Thủ đều là tội nhân trong Phật môn hết! Làm sao có thể dẫn lời ông Kỷ Đại Khuê để làm chứng cho được? Xét tới bổn tâm thì [ông Kỷ Đại Khuê] cũng không phải là cố ý bài xích, nhưng [ông ta phạm lỗi] dùng tri kiến văn tự thế gian để luận định đại pháp xuất thế gian chẳng thể nghĩ bàn! Nguyên do là vì chưa thân cận bậc tri thức sáng mắt đến nỗi hoằng pháp lại trở thành báng pháp vậy!

Tiếp đến, bàn về A Di Đà Kinh Tiên Chú, mới đọc [đoạn đầu], “Tinh (星) chính là tam thiên đại thiên thế giới”, khôn ngăn kinh dị! Lại đọc tiếp phần chú giải câu “quá thập vạn ức Phật độ” và lời chú giải câu “tam thiên đại thiên thế giới” lại khôn ngăn kinh dị! Sao các hạ đã biết thật sự, thật lý, mà lại nêu ra những thuyết không tra cứu từ đâu được ấy? Mong rằng trong lần xuất bản kế tiếp của cuốn [A Di Đà Kinh] Tiên Chú, hãy gạt bỏ hoàn toàn [câu ấy] ra khỏi đoạn thứ nhất của phần Tạp Ký. Nếu không, hãy sửa đổi đoạn văn “Tinh (các ngôi sao) chính là tam thiên đại thiên thế giới” sao cho phù hợp với phần chú giải ở phần sau thì sẽ có ích, không bị tổn hại. Tướng lưỡi của đức Như Lai che mặt đến tận mí tóc chính là tướng lưỡi thông thường của đức Phật vốn được nói đến trong Tam Tạng. Nếu nhằm đoạn nghi cho chúng sanh căn cơ nhỏ nhoi trong tam giới, [đức Như Lai] bèn hiện tướng lưỡi này để biểu thị đức Phật chẳng hề nói dối. “Che khắp tam thiên đại thiên thế giới” cũng có thể [hiểu] là nói ví dụ; nhưng nếu bảo hoàn toàn chẳng có chuyện ấy thì những nhà chú giải từ trước đến nay đều là hiểu biết ngốc nghếch hết cả hay sao?

Do kiến giải phàm tục, ông Diệp Tích Phụng đọc sách này khen ngợi khôn cùng, nhưng những vị thông đạt xem đến ắt sẽ đau tiếc than thở, nói các hạ do tấm lòng cực lực hoằng dương kinh điển, rốt cuộc trở thành những lời báng Phật, báng Pháp, báng Tăng. Diệp Tích Phụng là một gã Nho sinh đối với huyết mạch ngữ ý của kinh văn vẫn chưa hiểu rõ nên buông tuồng không kiêng sợ, cho là “những nhà chú giải kinh này thời cổ đều bịa đặt chẳng tuân theo lẽ thường, vô lý đến cùng cực, thật đáng khiến cho người ta phải cười ồ!” Ông ta nói lời ấy cũng là lấy tri kiến phàm phu để suy lường cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, do hoàn toàn chưa hiểu rõ kinh văn mà ra!

Nay tôi chẳng nề hà phiền toái để giải thích đại lược: Tam thiên đại thiên thế giới là cõi nước ngự trị của một đức Phật. Đang trong khi đức Thích Ca Như Lai giảng về những chuyện “y báo, chánh báo trang nghiêm của Tây Phương Cực Lạc thế giới, quang minh thọ lượng của Phật Di Đà, chúng sanh trì danh liền được tiếp dẫn” v.v… ở phương Đông có hằng hà sa tam thiên đại thiên thế giới. Trong một thế giới có vị Phật tên là A Súc Bệ, một vị Phật trong thế giới khác tên là Tu Di Tướng, cho đến một thế giới [khác nữa] có Phật hiệu là Diệu Âm. Trong số những vị Phật ở hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới nơi phương Đông, chỉ nêu đại lược năm vị. Tiếp đó [dùng từ ngữ] “như thị đẳng” (giống như vậy) để nêu toàn thể [hồng danh những vị Phật ấy] một cách giản lược. Hằng hà sa số các đức Phật, mỗi vị đều tự ở trong tam thiên đại thiên thế giới do chính mình làm chủ, nghe đức Thích Ca nói bài kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm (khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn được hết thảy chư Phật hộ niệm) này, muốn cho đại chúng trong pháp hội sanh lòng tin, phát nguyện tu trì, nên mỗi vị đều ở tại cõi mình hiện đại thần thông, hiện tướng lưỡi rộng dài che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật: “Chúng sanh các ngươi hãy nên tin tưởng bản kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm do đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói này”. Năm phương kế tiếp đó đều giống như thế, còn bản dịch đời Đường thì ghi là mười phương, bất quá nói rộng điều [được thuật] đại lược trong bản kinh này; chứ thật ra bản dịch đời Tần chẳng giảm, bản dịch đời Đường không tăng.

Họ Diệp chẳng biết mỗi vị Phật có cõi nước riêng nên cho rằng “những phương Đông, Tây… của thế giới này ở mỗi phương đều có hằng hà sa số Phật”, rồi lo các Ngài va chạm nhau, nhiễu loạn sông núi khiến nhân dân không có chỗ để dung thân, và lo lưỡi của chư Phật va đụng nhau không có chỗ để đặt lưỡi, thật đáng khiến cho người khác cười rụng răng! Nhưng ông ta vẫn dương dương tự đắc nói: “Ta bù đắp chỗ thiếu sót của kinh, sửa đổi cho đúng chỗ sai ngoa của tăng chúng. Ba kinh Tịnh Độ từ nay mới có thể không còn chỗ nào đáng tiếc nuối!”

Ba ngàn đức Phật ba đời92 trong thế giới Sa Bà mỗi vị đều có thời gian xuất hiện riêng biệt, trước sau chẳng loạn. Một đức Phật ra đời, hết thảy chư Phật nếu muốn giúp vị ấy hoằng tuyên pháp hóa, đều chẳng được hiện thân Phật. Vì thế, Quán Âm, Văn Thù v.v… đều ẩn đức Thập Lực93, hiện thân Bồ Tát, giống hệt như một bầu trời không có hai mặt trời, dân không có hai vua, đầu mối pháp đạo được quy về một mối. Họ Diệp chẳng biết nghĩa này mà các hạ vẫn bị ông ta mê hoặc thì những người bị ông ta mê hoặc sẽ nhiều lắm, nhiều đến hằng hà sa số. Tiếc thay!

Phần Tạp Ký, nơi hàng thứ nhất trong trang thứ hai, hai chữ “tinh cầu” nên bỏ đi. Trang mười lăm, câu “phi thị toán số chi sở năng tri” (chẳng thể tính toán mà biết được số) (lời chú giải ghi: nhiều đến nỗi không kể xiết), ý nghĩa tuy rõ ràng nhưng chưa giảng rõ ý nghĩa của chữ [“toán số”]. Toán số (算數) là “toán kế chi số” (con số do tính toán mà có), tức là những con số một, mười, trăm, ngàn, vạn, ức, triệu, kinh, tỷ, cai, nhưỡng, cấu, giản, chánh, tải94 ở phương này. Trong kinh Phật thì như trong phẩm A Tăng Kỳ của kinh Hoa Nghiêm đã nói tới một trăm bốn mươi con số, “vô lượng, vô biên” cũng nằm trong số ấy. Vì thế, ngài Ngẫu Ích nói: “A Tăng Kỳ, Vô Lượng, Vô Biên đều là danh xưng của các con số, quả thật là vô lượng của hữu lượng. Do đã là tên gọi của các con số nên là hữu lượng (có hạn lượng), nhưng trong kinh quả thật nêu chung chung số lượng nhiều không thể kể xiết nên đấy chính là vô lượng của vô lượng95”.

Trong cuốn Quán Thế Âm Kinh Tiên Chú, dưới câu “nhĩ thời Vô Tận Ý Bồ Tát” (lúc ấy, Vô Tận Ý Bồ Tát) nên thêm lời chú giải rằng: “Nhĩ (爾) là lúc này, lúc ấy. ‘Nhĩ thời’ là lúc đã nói xong phẩm Diệu Âm Bồ Tát”. Hàng thứ mười tám nơi trang mười sáu (hàng thứ hai chữ nhỏ), chữ Xúc (觸) bị viết sai thành Thương (觴).

Phần Tạp Ký trong Tâm Kinh Tiên Chú, nơi trang thứ hai, các hàng mười một, mười hai, mười ba, mười bốn, “bản Tâm Kinh được khắc trên đá thời [Thanh] Cao Tông (Càn Long), câu chú không giống”. Câu chú khác nhau là do năm đầu đời Cao Tông, lạt-ma Chương Gia96 đem các bài chú trong Đại Tạng Kinh dịch ra theo cách tụng niệm thông dụng của các lạt-ma Mông Cổ, đặt tên là Mãn Mông Phiên Hán Hợp Bích Đại Tạng Toàn Chú. Chữ Mãn, chữ Mông Cổ, chữ Phiên97 [chúng ta] đều chẳng biết đọc, ngay cả chữ Hán tuy biết, nhưng có khi phải dùng hai chữ, ba chữ, bốn chữ để viết vào một chỗ98. Nếu chẳng hướng đến người Mông Cổ và người Tây Tạng để học [cách đọc] sẽ chẳng thể đọc được, dẫu đọc cũng không đúng cách. Nhưng từ đời Hán đến đời Tống hơn một ngàn năm, người dịch kinh nếu chẳng phải là bậc Pháp Thân thị hiện thì cũng là bậc trượng phu anh liệt siêu quần bạt tụy, há đều chẳng thông hiểu chú ngữ ư? Bất tất phải sanh tâm tôn sùng, coi trọng bản dịch của ngài Chương Gia, nghĩ là kỳ lạ, đặc biệt; đấy chính là bỏ điều được mọi vị thánh cùng cho là đúng để giữ lấy điều chỉ được một vị hiền nhân cho là đúng, há có nên chăng?

Kim Cang Kinh Tiên Chú, nơi trang thứ mười ba, trong hai dòng chín và mười: “Bốn câu kệ xưa nay nói không giống nhau”. Di Lặc là đấng Bổ Xứ, dùng những câu như “không có ngã tướng” v.v… để đáp chính là đối bệnh cho thuốc, như trong nhà Thiền bất luận hỏi đến nghĩa nào đều chỉ về lẽ hướng thượng! Nếu nói ngài Di Lặc đã đáp trọn hết nghĩa lý của bốn câu kệ thì đấy chính là tri kiến của kẻ đứng ngoài cửa! Trung Phong quốc sư nói: “Đối với câu “thọ trì nãi chí tứ cú kệ đẳng” trong kinh này, trước từ ngữ “tứ cú kệ” phải có hai chữ “nãi chí” (cho đến), phía sau phải có một chữ “đẳng” (vân vân). [Câu này] ý nói chưa thể thọ trì trọn vẹn bài kinh, hoặc [chỉ thọ trì được] hơn nửa quyển, hoặc gần được nửa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu hoặc một câu”. Câu nói này của ngài Trung Phong là cách giải thích kinh văn hết sức thông suốt, nhưng các vị chú giải từ trước đến nay thường hiểu hạn hẹp chữ “Kệ” không phải là văn xuôi. Họ chẳng biết ở Tây Vực, kinh tiếng Phạn được viết theo hàng ngang, thường sắp xếp bằng cách lấy ba mươi hai chữ làm chuẩn. Vì thế, [cổ thư] ghi nhận số chữ trong kinh Hoa Nghiêm là “có mười vạn bài kệ”, chứ không phải cả bộ kinh đều là kệ! Lại còn bất luận văn tự nhiều hay ít, hễ cứ giảng trọn hết một nghĩa thì được coi là một Kệ, chứ không phải là ngoài kinh văn ra, chỉ nói đến bốn câu [kệ] mà thôi! Nếu hiểu chữ “kệ” là kệ tụng thì [thọ trì] trọn bài kinh chẳng có công đức, chỉ có bài kệ này99 mới có công đức! Há chẳng phải là báng Phật, báng Pháp, báng Tăng ư? Chỉ nội sáu chữ đơn giản “nãi chí tứ cú kệ đẳng” này đã chứa trọn bao nhiêu [ý nghĩa của] muôn quyển kinh luận rồi! Những kẻ văn chương lừng lẫy một thuở mà vẫn chẳng biết làm như thế nào! Kinh Phật há thể nói dễ dàng ư?

Tứ Thập Nhị Chương Kinh Tiên Chú trang thứ chín, hai dòng mười và mười một, đối với câu“tam thế chư Phật cập vô niệm vô trụ” (chữ Trụ 住 bị viết sai thành chữ Nhậm 任), vô tu, vô chứng chi giả” hãy nên y theo cách giải thích của ngài Ngẫu Ích: “Tam thế chư Phật” là y theo quả vị trong Tạng Giáo. “Vô niệm trụ tu chứng” là nói về những bậc từ Sơ Trụ trở lên trong Viên Giáo. Nếu không, sẽ đẩy bậc đứng đầu xuống hàng chót, đưa bậc chót lên hàng đầu! Dẫu có thể cưỡng nói cho hợp lý, rốt cuộc vẫn oan uổng tạo khẩu nghiệp! Kinh Phật há có thể chỉ chấp vào cách giải thích từ ngữ mà giải thích được hay chăng? Trang thứ mười sáu, dòng thứ mười (hai hàng chú thích chữ nhỏ), “trưởng giả như mẫu” (người lớn tuổi hơn thì coi như mẹ) (chữ Mẫu 母 bị viết sai thành Nữ 女). Lại trong hàng mười tám, chữ “công tào” (攻曹) nên giảng là “nguyên soái” (người suất lãnh) thì ý nghĩa của kinh sẽ tự rõ ràng vì phần kinh văn tiếp đó ghi là “công tào nhược chỉ, tùng giả đô tức” ([nếu] ngăn được người thống lãnh, thì những kẻ đi theo đều ngưng nghỉ). Do vậy, Công (攻) là công năng, Tào (曹) chính là “tào bối” (曹輩: lũ, bọn ngươi); công năng của cả bọn đều quy về một mình người thống lãnh, nên mới nói “nguyên soái” là “công tào”.100

Phật Di Giáo Kinh Chú, trang mười bảy, dòng thứ năm, nên giảng chữ “đạo” (導) trong từ ngữ “thiện đạo” (善導: khéo dẫn dắt) là dẫn dắt đi đường vì câu kinh văn tiếp đó là “đạo nhân thiện đạo” (導人善道), đạo (道) là con đường vậy, [“đạo nhân thiện đạo”] tức là “dẫn đi trên con đường lành”. Nếu người dẫn đường chỉ cho con đường chánh mà kẻ nghe không đi thì chẳng phải là lỗi của người dẫn đường. Kinh gọi đức Phật là “đại đạo sư” (大導師) đều là vì dẫn người khác đi trên con đường chánh mà đặt tên như vậy.

Vu Lan Bồn Kinh Chú, trang bốn, dòng thứ mười sáu (hai dòng chữ nhỏ), “thoạt đầu tôi trộm cho là tên của đạo sĩ”, chữ Thiết (竊: trộm) bị viết sai thành chữ Cùng (窮: cùng tận).

Cao Vương Quán Thế Âm Kinh Chú, phần Tạp Ký trang một, dòng thứ mười ba: “Vân Thê đại sư gánh vác pháp đạo, rất sợ đời sau vô tri nên ra sức biện định kinh này là ngụy tạo, cho nên nói như vậy. Chứ không phải ngài Vân Thê chưa hề đọc những sách như Pháp Uyển Châu Lâm v.v… mà mạo muội nói như thế”. Kinh này không có văn lý gì cả, [lời biện định của ngài Vân Thê] quả là lời luận đích xác. [Kẻ nào tụng trì kinh này] được công đức [thì công đức ấy] đều thuộc về công đức của danh hiệu Phật, Bồ Tát. Niệm những danh hiệu ấy có thể tiêu nghiệp chướng, tăng phước huệ. Bồ Tát thuận theo cái tâm tầm thường của chúng sanh nên truyền dạy kinh này trong mộng. Nếu là bậc chuyên môn nghiên cứu Phật học thì đã có Đại Tạng Kinh, cần gì phải dốc sức nơi kinh này? Xưa nay có rất nhiều kinh do trong mộng cảm được thần truyền dạy, nhưng đều chẳng dám lưu thông vì rất sợ những kẻ xằng bậy bịa đặt, khơi nên đầu mối ngụy tạo, cắt đứt thiện căn của những người chỉ biết đạo nghĩa Nho giáo, chưa hiểu Phật pháp sâu xa (tức là họ sẽ nói “kinh Phật đều là do người đời sau ngụy tạo”). Vì thế Nhân Hiếu Hoàng Hậu nhà Đại Minh101 (hoàng hậu của [hoàng đế] Vĩnh Lạc) mộng cảm được Phật nói kinh, tức Đệ Nhất Hy Hữu Đại Công Đức Kinh. Trong thời Vĩnh Lạc, [kinh này] được nhập tạng, đến năm ba mươi (1765) đời Thanh Cao Tông, vâng theo chiếu chỉ, lấy kinh ấy ra khỏi tạng để ngăn ngừa chuyện bịa đặt. Vì thế, phiên dịch kinh Phật ắt phải tuân phụng chiếu chỉ.

Trong dịch trường (đạo tràng dịch kinh), có vị dịch Phạn văn, có vị Dịch Ngữ, có vị Hồi Xuyết (tiếng của Tây Phương đa phần nói ngược, nên cần phải đảo lại, như Ba La Mật là Bỉ Ngạn Đáo, phải viết lại cho đúng thứ tự là Đáo Bỉ Ngạn - đến bờ bên kia), có vị Chứng Nghĩa, có vị Nhuận Văn102. Tăng - tục tham gia phiên dịch, ít là mấy người, nhiều thì mấy chục người; vị Nhuận Văn đều do vị quan quyền cao chức trọng đương thời đảm nhiệm. Nghiêm túc như thế, chẳng để cẩu thả, qua quýt chút nào, vậy mà Nho sinh vô tri đời sau còn nói kinh Phật đều là do Tăng chúng ăn trộm, chế biến từ học thuyết Lão - Trang mà có, huống là lưu thông những kinh thật sự mờ mịt chẳng rõ lai lịch ư? Muốn [lưu thông] kinh này mà mong những kinh được phiên dịch [từ Phạn bản] do phương Tây truyền đến chẳng bị nghi ngờ, há chẳng khó khăn lắm ư?

Các hạ chú giải kinh này hãy nên trình bày rõ tấm lòng “bảo vệ chúng sanh, bảo vệ pháp đạo đức Phật” của ngài Vân Thê, đừng nên nói ngài Vân Thê phạm sai lầm khi sửa đổi cho đúng những điều sai lầm thì đôi đàng đều được tốt đẹp. Vân Thê, Ngẫu Ích là những vị đại đạo sư thời Mạt Pháp, là bậc gương mẫu thật sự. Mong hãy nhìn vào thời kỳ các ngài trước tác mà thấu hiểu chỗ dụng ý trong lòng các ngài thì pháp gì, chuyện gì cũng đều tự có thể khế cơ lẫn khế lý vậy!

Trong Phật Kinh Tinh Hoa Lục, trang ba mươi sáu, dòng thứ chín, “Vị Tằng Hữu Kinh”. Mười hai bộ kinh là những đặc điểm chung của hết thảy các kinh. Có kinh trọn đủ cả mười hai bộ103, có kinh ít hơn, chỉ gồm một hai, ba, bốn, năm bộ. Mười hai bộ vừa nói đó, gọi theo tiếng Hán là Trường Hàng, Trùng Tụng, Thọ Ký, Cô Khởi Tụng, Vô Vấn Tự Thuyết, Nhân Quả, Thí Dụ, Bổn Sự, Bổn Sanh, Phương Quảng, Vị Tằng Hữu, Luận Nghị. Trong ấy, ba bộ loại Trường Hàng, Trùng Tụng, Cô Khởi Tụng được lập ra dựa theo kinh văn, chín thứ kia đều ước theo nghĩa mà lập danh. Bộ loại Vị Tằng Hữu ghi chép những chuyện đại thần biến chẳng thể nghĩ bàn của Phật, Bồ Tát. Kinh này104 cũng do nghĩa ấy mà đặt tên như vậy, chứ không phải là một trong mười hai bộ kinh.

Trang bốn mươi, dòng thứ sáu, nhân - duyên - pháp - nghiệp của mười giới trong kinh Phạm Võng đều bị [sao chép] điên đảo, sai lầm, lộn xộn, tra lời chú giải của các hạ thì có hay không đều bất nhất! Những phần [được ghi] “sao lục từ sách Phạm Võng Kinh Hợp Chú105 thì [trong phần] Sát giới (dòng thứ mười ba), Phương Tiện Sát (thiếu mất chữ Sát), dòng mười bốn, mười lăm, [theo thứ tự đúng thì phải là] Sát nhân, Sát duyên, Sát pháp, Sát nghiệp, sao lại viết là Sát nghiệp, Sát pháp, Sát nhân, Sát duyên? Nhân là phát ra cái tâm giết ấy. Duyên là những phương tiện giúp cho chuyện giết chóc được thành tựu; chẳng hạn như bày mưu định kế, mài dao, pha thuốc v.v… Pháp là cầm dao, kiếm, thuốc độc đi giết. Nghiệp là đoạn mạng kẻ ấy (tức kẻ bị giết), chuyện giết chóc đã thành. Phàm sự gì đã thành đều nhất loạt gọi là Nghiệp. Thứ tự trước - sau, sâu - cạn, thân - sơ, theo đúng thứ tự chẳng loạn. Sao các hạ tự lập quy cách để dời chuyển như vậy? Hai giới Sát và Dâm thì các hạ đặt theo thứ tự là Nghiệp, Pháp, Nhân, Duyên, còn tám giới kia lại đều đặt theo thứ tự là Nhân, Nghiệp, Pháp Duyên!

Trong giới Vọng Ngữ, dưới phần Duyên của Vọng Ngữ có chú thích rằng “sao chép trọn vẹn từ sách [Phạm Võng Kinh] Hợp Chú”. Sao lại lược bỏ bốn chữ “để hiển thánh đức” [của sách Hợp Chú]? Cần phải biết rằng [kẻ phạm giới vọng ngữ bằng cách đối với] “các thứ oai nghi: tới, lui, cử động, đứng yên, nói năng, im lặng, đủ mọi phương tiện đều là vì muốn làm cho người khác sẽ nói là “ta đã chứng thánh quả”, nên nói là “để hiển thánh đức”. Bỏ đi bốn chữ ấy sẽ chẳng tỏ rõ bổn tâm [của kẻ] vọng ngữ muốn phô trương màu mè, làm dáng vậy. Đoạn kinh văn này vốn không sai lầm, nhưng lời [giảng của sách] Hợp Chú lại hết sức rõ ràng. Há nên trái nghịch kinh, trái phản lời chú giải, tự lập chương trình hay chăng? Nếu một điều thì có thể coi là viết lầm, chứ cả mười điều đều như thế, há có phải là viết lầm ư?

Phàm sao lục kinh luận của Phật, của Tổ, thì đầu tiên là sao lục kinh, rồi đến luận, cuối cùng mới sao lục trước thuật của phương này. Với kinh luận lại cần phải sao lục kinh Đại Thừa trước tiên, kế đó là Tiểu Thừa, chớ nên đảo lộn thứ tự trước sau, như thánh chỉ và cáo thị chẳng thể đảo lộn thứ tự được. Trong một bộ chẳng thể liệt kê như thế, thì trong một môn nhất quyết chẳng thể không y theo cách này để trình bày. Nếu không, sẽ khiến cho kẻ vô tri đều coi thường kinh Phật mà bậc đại thông gia sẽ chê là [người viết chú giải] chẳng biết pháp.

Hơn nữa, trong phần chú giải kinh Phạm Võng [của Tổ Ngẫu Ích] về giới Vọng Ngữ, đối với câu “tiền nhân lãnh giải” thì chữ “tiền nhân” chỉ cho đối tượng [nhận lãnh lời nói dối], tức là vì kẻ ấy [mà người phạm giới Vọng Ngữ] thốt ra lời nói dối, “lãnh giải” là người ấy nghe lời nói dối đã lãnh hội, hiểu rõ. Nếu chẳng lãnh ngộ, hiểu rõ thì nghiệp vẫn chưa thành; lãnh ngộ, hiểu rõ thì nghiệp đã thành! Nay ông sửa thành “sử nhân lãnh giải” (khiến cho người ấy nhận lãnh, hiểu rõ) thì chưa biết người ấy có hiểu hay không? Trong giới thứ mười cũng giống như thế.

Thêm nữa, theo nguyên văn của giới thứ mười: “Nhược Phật tử tự báng Tam Bảo, giáo nhân báng Tam Bảo, báng nhân, báng duyên, báng pháp, báng nghiệp, nhi Bồ Tát kiến ngoại đạo cập dĩ ác nhân nhất ngôn báng Phật âm thanh, như tam bách mâu thích tâm” (Nếu Phật tử tự báng Tam Bảo, dạy người khác báng Tam Bảo, nhân phỉ báng, duyên phỉ báng, pháp phỉ báng, nghiệp phỉ báng, nhưng Bồ Tát nghe âm thanh của một câu báng Phật do ngoại đạo và kẻ ác [thốt ra], [sẽ cảm thấy] giống như ba trăm mũi mâu đâm vào tim), ông bèn rút gọn là “Bồ Tát kiến nhân báng Phật như dữ thích tâm” (Bồ Tát thấy người báng Phật như bị đâm vào tim) (Lời chú giải ghi: “Chữ Dữ106 đọc âm giống như chữ Dữ 與”), hãy sửa cho đúng phần đã lược bỏ đi.

Ngẫu Ích đại sư chứng Pháp Thân đã lâu, thừa nguyện tái lai, học vấn, kiến địa, hành trì, đạo đức như Ngài chẳng những ít thấy trong đời Mạt Pháp mà ngay trong thời Phật pháp hưng thịnh dưới đời Tùy - Đường, cao nhân như rừng, nếu [Ngài sống] ngay trong thời ấy vẫn thuộc loại Đại Sĩ xuất quần bạt tụy chẳng thể nghĩ bàn! Phàm những trước thuật của Ngài đều khế lý lẫn khế cơ; các hạ hãy nên buông xuống cái tâm chỉ chấp vào sự giải thích văn tự, hãy lắng lòng nghiên cứu đến cùng tận để thấu hiểu thì niềm vui pháp hỷ sẽ riêng khế hợp nơi tâm mà chẳng thể nào mở miệng kể cho người khác biết được! Vì sao vậy? Do những gì đạt được đều mất cả rồi, đều quy về chỗ vô sở đắc rồi!

Chùa Pháp Vũ có Minh Nam Tạng (Vĩnh Lạc Nam Tạng) và Thanh Tạng (Càn Long Đại Tạng Kinh), lại có rất nhiều những kinh sách mới in [đã thỉnh] từ những chỗ khắc kinh ở Dương Châu, Ninh Ba, nhưng người phát tâm đọc khá ít, một là vì ít người thật sự phát Bồ Đề tâm, hai là vì người thật sự có học vấn, có thiên tư ít ỏi, đáng tiếc thay!

Cuối phần Đàm Quỷ (nói về chuyện quỷ thần), đối với chuyện Mục Chương A107, lời phán định của các hạ tuy hay, nhưng xét ra chưa phải là thật nghĩa. Nay tôi chẳng tiếc khẩu nghiệp để giải thích đại lược. Mục Chương A suy nghĩ, xử sự không gì chẳng phải là ác, đến lúc lâm chung biết trước lúc mất, từ biệt mọi người rồi ngồi mà mất. Người ấy trong đời trước đã tu trì lớn lao, sức Định Huệ sâu xa, cho nên đời này tuy mê muội tạo nghiệp, luận theo đời này ắt phải đọa thẳng vào địa ngục A Tỳ, chịu khổ đến hết kiếp, nhưng do ác nghiệp đời này chưa chín muồi, thiện căn đời trước tỏ lộ. [Do vậy], vẫn có thể nương vào sức lành đời trước, tận lực tu trì Tịnh nghiệp, nương theo Phật từ lực vãng sanh Tây Phương, chẳng phải thọ ác báo của những ác nghiệp đã tạo trong đời này. Nếu không biết nghĩa này, vẫn noi theo nghiệp y như cũ thì khi thiện nghiệp đời trước đã hết, ác nghiệp đời này sẽ lại phát hiện, nỗi khổ ấy chẳng thể nào diễn tả được!

Trong đời này, do người lành mắc họa, kẻ ác hưởng phước, phàm phu chẳng biết túc nghiệp trong đời trước bèn nói nhân quả sai lầm, báo ứng hay bị lẫn lộn! Người có Tha Tâm Túc Mạng Thông thấy [nhân quả báo ứng] tơ hào chẳng sai, tình lẫn lý đều ổn thỏa. Cái chết tốt lành của Mục Chương A chẳng phải là do may mắn! Dương Kế Thịnh chết oan khuất chẳng phải là bất hạnh! Ai nấy đều có nhân trước và quả sau, ấy là do được đền đáp hay phải trả nợ mà thành khác biệt. Đạo báo ứng có nhiều loại chẳng phải chỉ có một, chẳng thể dùng đời này để phán đoán được!

Vì thế, kinh dạy rõ ba thứ quả báo. Ba thứ quả báo là Hiện Báo, Sanh Báo và Hậu Báo. Hiện Báo là đời này làm thiện, tạo ác, đời này sẽ hưởng phước hay mắc họa. Đây chính là điều phàm phu trong thế gian đều thấy cùng biết được. Sanh Báo là đời này làm thiện, tạo ác, đời sau hưởng phước, mắc họa. Phàm phu trong thế gian tuy chẳng thấy biết được, nhưng đại lực quỷ thần, thiên tiên vẫn có thể thấy biết được! Hậu Báo là đời này làm thiện, tạo ác, đến đời thứ ba, hoặc bốn, năm, sáu, bảy đời sau, hoặc mười, trăm, ngàn, vạn đời, hoặc đến vô lượng vô biên Hằng hà sa số kiếp mới hưởng phước hay mắc họa. Nếu ba, bốn, năm đời và mười trăm ngàn đời, có lẽ thiên tiên còn thấy được, chứ đến năm, sáu, bảy, tám vạn kiếp, đạo nhãn của bậc Thanh Văn vẫn còn thấy được. Nếu đến vô lượng vô biên Hằng hà sa kiếp thì nếu chẳng phải là Ngũ Nhãn viên minh của đức Như Lai sẽ chẳng thể thấy được!

Nương theo các pháp môn khác, cậy vào tự lực để đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, phần nhiều đều chỉ gieo thiện căn phước huệ, chẳng thể cao dự dòng thánh. Vương Thập Bằng, Tô Đông Pha, Hoàng Đình Kiên, Tăng Lỗ Công v.v… đều là những vị cao tăng xuất chúng chót vót trong đời trước, nhưng đời này đã kém hơn đời trước, đời sau lại chẳng biết kết cục sẽ như thế nào? Nghĩ đến đây, đúng là đau lòng, ứa lệ, thở dài sườn sượt! Nếu chẳng phát phẫn chuyên tu một pháp “cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tịnh Độ” thì là xong rồi!

Ấn Quang cuồng vọng vô tri, phụ lòng ông yêu mến nồng hậu, hôm Ba Mươi tháng Sáu nhận được lá thư thứ tư, liền muốn phúc đáp, nhưng do vướng bận bởi chuyện của người khác, cũng như do ban đêm chẳng thể viết lách được nên lần khân mãi đến ngày mồng Hai nhận được lá thư thứ năm, bèn quên mình kém hèn, vung bút viết thư bừa bãi, cũng biết là gai mắt nhã, [toan] cậy vào lá thư này để biểu lộ lòng ngu thành, thích đáng hay không, mong hãy rủ lòng sáng suốt xét soi (Mồng Năm tháng Bảy năm Dân Quốc thứ sáu - 1917)

Ấn Quang mục lực quá suy, Đại Tạng Kinh chữ to còn chẳng thể đọc được, trước thuật của các hạ chữ quá nhỏ, chẳng dám xem nhiều, chỉ tùy tiện mở đọc mà thôi. Vì thế, thuận theo những gì mình thấy được mà nêu lên, tính chung lại thì trong hai mươi phần vẫn chưa xem được một phần. Về việc soạn lời tự để tỏ rõ ý nghĩa [của từng tác phẩm] hãy nên cậy bậc danh nhân. Ấn Quang chôn sống ngoài hải đảo, lại còn thiếu học vấn, vô đạo đức, bút cùn, lời quê, làm sao nêu tỏ những điểm sâu mầu cho được? Do vậy chẳng dám vâng mạng, xin rủ lòng tha thứ. Tướng lưỡi Như Lai có ý nghĩa vô tận, do mục lực không đủ và do gấp rút nên chỉ luận [đại lược] như thế.


Каталог: Luan -> aqvstambien
Luan -> Phần mở đầu Tính cấp thiết của đề tài
Luan -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Luan -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
Luan -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
Luan -> MỞ ĐẦu tính cấp thiết của đề tài
Luan -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
Luan -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
Luan -> Tính cấp thiết của đề tài
aqvstambien -> Ấn Quang Pháp Sư

tải về 2.21 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   29




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương