Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên Quyển 1 印光 法 師文 鈔 參 編 卷 一


Thư trả lời cư sĩ Vạn Lương



tải về 2.21 Mb.
trang15/29
Chuyển đổi dữ liệu10.03.2018
Kích2.21 Mb.
#36455
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   ...   29

106. Thư trả lời cư sĩ Vạn Lương (thư thứ ba)
Thư nhận được đầy đủ. Pháp danh của ba người được viết trong một tờ giấy khác, từ rày đừng gởi thư đến nữa, mà cũng đừng giới thiệu người khác quy y do không có mục lực để thù tiếp! Gởi đến cũng không trả lời. Bản thảo cuốn Gia Đình Giáo Dục Tùng Thư ngàn muôn phần xin đừng gởi tới. Nếu gởi tới sẽ đem gởi trả lại ngay vì Quang mục lực cực suy. Ngay như để trả lời lá thư này còn phải dùng cả kính lão lẫn kính lúp mới gắng gượng xem thư, trả lời. Vị sư thay Quang giảo chánh, đối chiếu (xét ra vị này chính là lão pháp sư Đức Sâm) do trong năm trước, chánh quyền Cám Châu (Giang Tây) muốn diệt chùa Thọ Lượng của thầy ấy (hủy phá ngôi chùa cực cổ) để mở đường, mở ngôi chợ bán rau nhỏ, nên thầy ấy đã hướng đến những vị tai to mặt lớn trong giới quân đội, chánh trường để cầu cứu. Chánh phủ lại ép buộc phải xây dựng ngay; nếu không, sẽ vẫn phế bỏ, thầy ấy bèn kiệt lực lo liệu hòng [nhà chùa được] khôi phục.

Năm ngoái, sau khi quân đội đã rút đi, chuyên viên [quy hoạch] trong khu ấy bèn lên kế hoạch giải quyết dứt điểm, trình công văn lên Trung Ương, đưa kế hoạch trưng thu toàn bộ tài sản nhà chùa. Trung Ương ra lệnh trưng thu tám phần mười. Chùa miếu nằm trong khu vực bị đóng quân đã trống rỗng như chùi, trọn không có tài sản tích cóp, lại bị trưng thu tám phần mười thì Tăng sẽ chết đói hết sạch. [Sư Đức Sâm] lại cậy những vị tai to mặt lớn các giới trình công văn, nhưng tin tức nhất loạt chẳng thông vì kẻ thừa hành ở Trung Ương chèn ép không trình lên. Tới năm nay lại cậy người có quen biết sâu đậm phân giải với gã viên chức chuyên lo chuyện ấy thì sự việc [trưng thu nhà chùa] mới được ngưng dứt.

Hai ba năm qua, thầy ấy đã vì chuyện ở Giang Tây mà nhọc nhằn tột bậc, nên đã nhuốm bệnh. Cửu Hoa Chí, theo dự định sẽ được in trong mùa Đông năm ngoái, nhưng do chuyện này phải ngưng lại. Chẳng biết năm tới, năm sau nữa có in ra được hay không? Quang đã bảy mươi bảy tuổi, sẽ chết trong sớm tối, bất luận chuyện gì đều chẳng dám mó tay vào. Người trong Hoằng Hóa Xã cũng không rảnh rỗi, lại thiếu khả năng để duyệt xét; sợ ông không thông cảm nên mới nói đại lược nguyên do. Mong hãy sáng suốt soi xét. Mậu Vân Phong pháp danh là Huệ Tuấn, Châu Hiểu Sơ pháp danh là Huệ Lãng, Châu Hồng Sanh pháp danh là Huệ Thâm. Gởi cho ông Tịnh Độ Ngũ Kinh, Kỹ Lộ Chỉ Quy, Sức Chung Tân Lương mỗi thứ một gói (Ngày mồng Bốn tháng Chín năm Dân Quốc 25 - 1936)
107. Thư trả lời cư sĩ Cố Tông Huống
Pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn đặc biệt trong Phật pháp. Những kẻ ham cao chuộng xa thường lầm lạc chuyên chú cầu khai ngộ trong nhà Thiền, nghĩ rằng “duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà”, chẳng coi Tây Phương Cực Lạc thế giới là đúng. Thứ ý chỉ ấy tưởng như sâu xa, huyền áo, nhưng thật ra quá nửa đều biến thành thói hèn kém “kể chuyện ăn, đếm của báu”, chớ nên bắt chước thói ác ấy. Hãy nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối mà niệm sẽ tự có thể quyết định vãng sanh Tây Phương. Những kẻ chỉ trọng lý tánh chẳng chú trọng sự tu chính là phường biến khéo thành vụng, cầu thăng lên đâm ra đọa xuống. Nếu nhiễm phải thói ấy thì liễu sanh tử chắc phải đợi đến năm nảo năm nao! (Ngày Rằm tháng Năm năm Dân Quốc 28 - 1939)
108. Thư trả lời cư sĩ Hạ Thọ Kỳ
Cha ông tuổi đã cao, hãy nên khuyên cụ lập tức toàn thân buông xuống, nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Lúc niệm trong tâm phải niệm cho rõ ràng, miệng niệm cho rõ ràng, tai nghe cho rõ ràng. Dẫu chẳng mở miệng, niệm thầm trong tâm thì vẫn phải từng câu từng chữ nghe cho thật rõ ràng, vì tâm vừa khởi niệm liền có tướng của tiếng! Tai chính mình nghe tiếng trong tâm của chính mình vẫn rành rẽ, rõ ràng. Nếu thường nghe được rõ ràng thì tâm sẽ quy về một chỗ, tinh thần chẳng rong ruổi bên ngoài. Vì thế, mắt cũng chẳng nhìn chi khác, mũi không ngửi gì khác, thân cũng chẳng buông lung, cho nên gọi là “nhiếp trọn sáu căn”. Niệm Phật như thế gọi là “tịnh niệm” (ba câu này, Sư tự khuyên đậm thêm). Do nhiếp tâm nơi Phật hiệu thì tuy chưa thể hoàn toàn không có tạp niệm, nhưng đã giảm nhẹ nhiều lắm! Nếu có thể thường xuyên giữ cho liên tục thì ở mức độ nông cạn là đắc nhất tâm bất loạn, mức độ sâu là đắc Niệm Phật tam-muội. Đây chính là ý nghĩa trọng yếu để lúc thường ngày gắng chuyên tâm dốc chí.

Hằng ngày thường nghĩ sắp vãng sanh, trong tâm chẳng giữ lại chuyện gì. Có chuyện gì cần giao phó liền giao phó sẵn. Con cháu có điều gì cần hỏi thì hãy hỏi sẵn đi. Đợi đến lúc lâm chung, cả nhà niệm Phật, không nên hỏi chuyện gì hết, cũng không có chuyện gì cần phải giao phó, mọi người đồng thanh niệm Phật. Nếu chính người ấy đã nắm chắc [sự vãng sanh], chính mình tự tắm rửa, thay quần áo là tốt nhất. Nếu chính người ấy không thể làm được thì vạn phần chớ nên lau rửa, thay quần áo sẵn cho người ấy, hỏi chuyện, khóc lóc v.v… Hễ có những chuyện phô trương mù quáng kiểu đó, chắc chắn [người sắp mất] bị phá hoại chánh niệm, chẳng được vãng sanh! Bảo người sắp chết ngoảnh mặt về phương Tây, trước mặt thờ một bức tượng Phật tiếp dẫn, nghĩ đi theo Phật vãng sanh, một mực niệm cho đến khi đã tắt hơi được hơn ba tiếng đồng hồ (Đây là thời gian tối thiểu, vẫn phải nên niệm nhiều hơn) rồi mới làm những chuyện tắm rửa, thay quần áo, khóc lóc v.v… thì chẳng đến nỗi làm hỏng đại sự. Khóc lóc cũng chớ nên bỏ, nhưng phải chú trọng nén buồn niệm Phật, chớ nên khóc lóc phô trương bề ngoài. Người già lâm chung nên [làm] như thế mà người trẻ tuổi cũng như thế thì chắc chắn được vãng sanh.

Thêm nữa, con gái từ nhỏ cần phải dạy cho nó tánh tình nhu hòa, chẳng nổi nóng, tập quen lâu ngày sẽ thành thiên tánh, lợi ích ấy chẳng thể nói tận! Chưa lập gia đình mà nổi nóng thì hoặc là bặt kinh hoặc bị băng huyết, có gia đình rồi cũng thế: hoặc bị sẩy thai, hoặc khiến cho tánh chất của đứa trẻ trong bụng trở thành bạo ác. Sanh con ra, trong khi cho con bú, nếu nổi nóng đùng đùng thì khi cho đứa trẻ bú, nó sẽ chết ngay. Chẳng nổi nóng quá mức thì nửa ngày hoặc một ngày sau nó mới chết, không đứa nào chẳng chết! Nổi nóng nhè nhẹ thì tuy nó không chết nhưng cũng sẽ sanh bệnh, không đứa nào không bị bệnh. Nếu nổi nóng liên tiếp một hai ba ngày thì đứa trẻ bị trúng độc ngày càng nhiều hơn, cũng khó thể nào không chết. Điều này danh y, thần y nước ta xưa - nay đều chưa hề nói đến. Hãy đem nghĩa này nói với hết thảy nam - nữ sẽ cứu được mạng trẻ khi chưa sanh ra.

Nữ nhân tánh tình nhu hòa thì gia đạo cũng yên vui, hòa thuận, con cái do họ sanh ra tánh tình cũng đều từ thiện, nhu hòa. Tôi thường nói: “Dạy con là căn bản để thiên hạ thái bình, nhưng dạy con gái lại càng thật quan trọng, do con người sanh ra bẩm thụ tánh khí của mẹ, nhìn theo oai nghi của mẹ nhiều hơn cha rất lớn”. Có hiền nữ thì mới có hiền thê, chồng của hiền thê ắt là hiền nhân, con của hiền mẫu ắt là hiền sĩ. Bà Thái Nhậm dạy con từ trong thai, nên Văn Vương sanh ra liền có thánh đức. Ấy là dạy dỗ từ thuở còn chưa sanh ra. Quang đã tám mươi rồi, buổi sáng không bảo đảm được buổi tối. Tất cả thư từ giao cho thầy Thư Ký của Thường Trụ lo giùm, Quang chẳng hỏi đến. Do ông ở tại phương xa nên thầy ấy mới đặc biệt chú ý, đưa cho Quang đọc để trả lời. Phương pháp tu trì đã có trong các sách Tịnh Độ và Văn Sao, ở đây không ghi cặn kẽ. Mong ông cũng đem những điều đã nói trong thư này bảo với Dã Công, Tông Huống (Ngày Rằm tháng Năm năm Dân Quốc 28 - 1939).

Chớ nên thường gởi thư đến, thường gởi thư đến thì Quang chẳng thể phúc đáp. Tăng nhân hiện thời đa phần theo thói tục, mới bốn mươi năm mươi đã cử hành chúc thọ. Có người đem chuyện ấy nói với Quang, Quang nói: “Tôi thà bị phạt chặt đầu, chẳng muốn nghe đến chuyện chúc thọ!” Có ai muốn chúc thọ cho Quang tức là đã lôi Quang vào phường hạ lưu hèn kém nhất!
109. Thư trả lời cư sĩ Mục Tông Tịnh (thư thứ nhất)
Quang già rồi, lại bị chuyện [tu chỉnh, giảo chánh] Nga Mi, Cửu Hoa Sơn Chí thúc bách chẳng thể chần chừ được. Do các nơi gởi thư từ đến quá phiền phức nên hơn cả năm mà chưa thể làm xong được. Nay thì sau tháng Mười Một đã tận lực cự tuyệt hết thảy thư từ. Từ rày đừng gởi thư đến nữa, gởi đến quyết không trả lời. Nay đặt pháp danh cho ông là Tông Tịnh; nghĩa là lấy pháp môn Tịnh Độ của đức Phật làm gốc, tự hành, dạy người. Lại gởi cho ông Văn Sao, Gia Ngôn Lục, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Phật Học Cứu Kiếp Biên, gộp chung thành một gói, mong hãy đọc kỹ. Từ rày về sau, ngàn vạn lần đừng gởi thư đến, cũng đừng bảo người khác gởi thư đến. Lần này tôi đã phá lệ, quyết chẳng phá lệ lần thứ hai, lần thứ ba đâu nhé! (Ngày mồng Ba tháng Chạp năm Dân Quốc 21 - 1932)
110. Thư trả lời cư sĩ Mục Tông Tịnh (thư thứ hai)

Sao lại thô tâm như thế, gởi thư đến chỉ ghi tỉnh không ghi huyện, làm sao gởi được? Lại chẳng viết tục danh, chỉ dùng pháp danh! Đã dùng [pháp danh] lâu ngày thì còn được, chứ mới dùng thì ai mà biết được! Đây cũng là lỗi thiếu thông hiểu nhân tình thế thái! Một đệ tử ở Quý Châu gởi thư tới, nhờ gởi sang nhà người em trai ông ta ở Nam Kinh, gởi đi bằng thư bảo đảm, người canh cửa không biết đến pháp danh của ông ta, bảo [ở đấy] không có người đó, bèn đem thư gởi trả lại. Không lâu sau, người ấy đích thân đến đất Tô, mới biết ông ta chẳng hiểu chuyện đời!

Pháp danh của lệnh nhạc mẫu179 và lệnh tử được ghi trong tờ giấy khác. Đức hạnh đẹp đẽ của lệnh nhạc mẫu thật đáng khâm phục, vì thế có pháp danh là Đức Ý. Lệnh tử đã có thiện căn từ đời trước, nên đặt pháp danh là Phước Duệ. Duệ (睿) chính là trí huệ; có phước, có huệ thì sẽ có thể tự lợi, lợi người. Niệm Quán Âm thì không chỉ khuyên bảo tịnh hữu niệm mà hãy nên tuyên cáo trong thôn [mình ở] và những thôn lân cận, bất luận già - trẻ - trai - gái đều nên ăn chay, niệm Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát. Mọi người ai nấy ở trong nhà mình, vừa làm việc vừa niệm, thường niệm trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, chắc chắn chẳng bị ôn dịch. Năm trước, các xứ bị dịch tả thật dữ dội; tại vùng phụ cận của trấn Tự Tiền thuộc huyện Trừng Thành, tỉnh Thiểm Tây, cả mấy trăm người chết. Trong thôn của một đệ tử có năm sáu chục nhà, [ông ta] dạy mọi người đều niệm [Quán Âm] nên chỉ có hai kẻ xấu bị chết, những người khác đều bình an.

Cư sĩ Hà Hồng Cát ở huyện Cam Cốc tỉnh Cam Túc đề xướng niệm Phật. Phàm những chỗ niệm Phật, tật dịch chẳng xâm nhập bờ cõi. Ông khuyên tịnh hữu niệm là biện pháp nhỏ; dạy già - trẻ - trai - gái trong cả thôn đều niệm mới là biện pháp lớn. Tốt nhất là ăn chay trường; nếu chẳng thể thì cũng nên bớt ăn mặn. Dẫu chưa thể ăn chay cũng phải niệm. Đang trong lúc hung hiểm này, chỉ có niệm Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát là được cứu vớt, che chở. Những kẻ sợ chết muốn được yên vui sẽ chẳng đến nỗi vẫn chẳng nghĩ làm như vậy là đúng mà coi thường. Tụ tập đạo hữu để niệm thì nên chia thành ba ban: Một ban đi nhiễu, niệm ra tiếng, hai ban tịnh tọa niệm thầm. Như thế sẽ thành ra niệm suốt ngày nhưng chẳng đến nỗi quá mệt. Nếu cùng nhau niệm ra tiếng hết thì một lúc lâu sau do quá mệt chắc sẽ đến nỗi đổ bệnh. Do chẳng khéo lập cách, đâm ra làm cho kẻ vô tri bảo Phật pháp chẳng linh, oan uổng tạo khẩu nghiệp. Chẳng thể không biết [điều này]! (Ngày mồng Bốn tháng Giêng năm Dân Quốc 24 - 1935)



111. Thư trả lời cư sĩ Mục Tông Tịnh (thư thứ ba)
Pháp danh của lệnh lang phạm tổ húy180, xin hãy tùy ý thay đổi. Nay đặt là Trí Duệ, sẽ chẳng đến nỗi phạm nữa. Nếu vẫn phạm thì xin hãy tự đổi, không cần phải yêu cầu Quang đổi. Phong tục làng quê miền Nam miền Bắc khác nhau. Phương Nam cũng có vùng kỵ tên húy rất nghiêm, cũng có vùng [đặt tên cho] con lại dùng chữ chánh yếu trong tên cha, như cha tên Bằng, con tên là Tiểu Bằng. Cha tên Khiêm, con tên Tục Khiêm. Đối với pháp danh có khi chuyên dùng một chữ nên ông - cháu, cha - con đều cùng một chữ. Quang chẳng đặt pháp danh theo dòng phái, dùng chữ tùy ý181. Hễ có nhiều người [quy y] mà không ai thưa bày điều gì thì dùng cùng một chữ. Hễ có ai thưa bày thì mỗi người dùng một chữ để khỏi phạm lỗi trái với thế tục! Tăng Tử có tên tự là Tử Dư, Mạnh Tử cũng có tên tự là Tử Dư. Tử Tư182 theo học với Tăng Tử, Mạnh Tử chính là môn nhân của Tử Tư. Do đây có thể thấy được: Cổ nhân khoan dung mà người hiện thời lại nghiêm ngặt! Đại sự phải nương theo lý, tiểu sự phải thuận theo thói tục, đấy chính là chuẩn mực để giữ thân cư xử trong cõi đời vậy (Ngày Rằm tháng Giêng năm Dân Quốc 24 - 1935)
112. Thư trả lời cư sĩ Mục Tông Tịnh (thư thứ tư)
Pháp danh của Dương mẫu được viết trong một tờ giấy khác, ảnh chụp của Quang chẳng tiện gởi đi. Do chiến sự, bưu điện không chịu nhận bưu kiện. Nay gởi Khuyến Niệm Quán Âm Văn, mong hãy [dùng bài văn ấy] để khuyên rộng rãi. Tôi vốn cho in bài này năm mươi vạn bản, nhưng do chiến tranh nên phải đình lại. Sau này có lẽ sẽ in ra, bưu cục chịu nhận thì sẽ gởi tới, cũng không thể nói chắc chắn, vì thời cuộc vậy! Thầy Đức Sâm bệnh tình đã khá được tám phần, từ rày ông chớ nên lôi thôi, [gởi thư tới lui mà] chẳng nói lên được điều gì. Hơn nữa, chưa từng gặp gỡ, gởi thư đến [thì người nhận] phải trả lời. Đừng nói là người bệnh, ngay cả người mười phần khỏe mạnh hằng ngày cũng chẳng rảnh rỗi để đáp ứng được!

Từ năm Dân Quốc thứ bảy, thứ tám (1918-1919) đến nay, Quang ở chùa Pháp Vũ núi Phổ Đà, trọn chẳng làm chuyện gì khác, nhận được thư bèn trả lời đến nỗi hằng ngày chỉ lo trả lời thư. Những vị pháp sư giảng kinh muôn phần chẳng thể hễ nhận được đến liền trả lời ngay được, do không có sức lực, tinh thần để thù tiếp như vậy đâu! Chiến sự dữ dội, hãy lấy chuyện trì chú Đại Bi và niệm Quán Âm làm điều chánh yếu. Không có chuyện gì quan trọng đừng gởi thư tới. Chiến sự chưa ngưng dứt thì vĩnh viễn đừng gởi thư tới. Bởi lẽ, trì tụng còn không kịp, rảnh rỗi đâu mà phúc đáp! (Ngày Mười Chín tháng Tám năm Dân Quốc 26 - 1937)

Tu Tịnh nghiệp và học Giáo khác nhau, một đằng chú trọng khai giải, một đằng chú trọng thực hành. Dẫu có chỗ chẳng biết, bèn bỏ mặc đó, xem lại đôi ba lượt, phần nhiều sẽ có chỗ trước - sau thấu hiểu ý nghĩa. Dẫu chưa hiểu trọn vẹn, cũng thấu hiểu được phần nào ý nghĩa kinh văn, sẽ có thể hiểu được ý. Nếu hễ có nghi bèn đi hỏi mà [người bị hỏi] là kẻ trọn chẳng có một việc gì thì cũng không sao, chứ đối với người bận rộn suốt ngày hoặc người đang gặp đủ chuyện phiền phức, nỡ nào bắt người ta phải nhọc nhằn thêm? Quang già rồi, chẳng thể đáp ứng những câu hỏi! Ngay như thầy Đức Sâm vì chuyện chùa Thọ Lượng ở Giang Tây và chuyên viên [quy hoạch tỉnh ấy lập kế hoạch] trưng thu tài sản nhà chùa mà bận bịu thành bệnh, cũng chớ nên gây thêm mệt nhọc cho thầy ấy!

113. Thư trả lời cư sĩ Mục Tông Tịnh (thư thứ năm)
Hơn ba mươi pháp danh được viết trong một tờ giấy khác. Chương trình của Lệ Trạch Liên Xã rất hay, mắt Quang giống như lòa từ khi mới sanh, phải dùng cả kính lão lẫn kính lúp mới miễn cưỡng xem được. Vì thế, dùng chữ phần nhiều không đúng pháp. Từ rày trở đi xin đừng gởi thư đến nữa. Gởi tới nhất quyết không trả lời. Có ai muốn quy y, hãy bảo họ quy y với vị Tăng ở nơi ấy, hoặc quy y với pháp sư Đức Sâm. Nếu chẳng thông cảm, tức là muốn cho Quang vĩnh viễn chẳng thấy được ánh mặt trời trong khoảng thời gian tạm bợ “buổi sáng không bảo đảm được buổi tối” này. Chắc quý vị cũng chẳng đến nỗi không thấu hiểu tình người như thế đâu! (ngày Mười Hai tháng Mười Một năm Dân Quốc 28 - 1939)

Mắt Quang [suy yếu như thế] là do túc nghiệp cảm thành, trong Liên Xã chớ nên cầu nguyện cho Quang, mà cũng đừng bắt chước người đời vô tri chúc thọ gây bại hoại cho Phật môn! Suốt đời Quang nghe thấy chuyện Tăng được chúc thọ mà thẹn giùm. Các ông hãy tự mình tu trì, đừng lôi tên Quang vào thói tục vô đạo lý ấy để những người có tri kiến chê cười sát rạt vậy!


114. Thư trả lời cư sĩ Mục Tông Tịnh (thư thứ sáu)
Pháp danh gởi lầm là ở chỗ gần183, chừng mấy bữa nữa sẽ gởi đến. Đã viết tờ khác ghi những tên được thêm vào hôm nay để gởi đi, chắc sẽ không sai nữa. Quang già rồi, mục lực lẫn tinh thần đều không đủ. Từ rày đừng gởi thư tới nữa, cũng đừng giới thiệu người khác đến quy y. Do buổi sáng không bảo đảm được buổi tối, nếu chết thì cũng chỉ vì nhọc nhằn; nếu không chết thì cũng không thể duy trì lâu dài chuyện bị sai khiến này, mà nên lo an hưởng tuổi già, chứ không nên già rồi mà vẫn phải vất vả! Từ năm Dân Quốc thứ bảy (1918) đến nay, Quang hằng ngày bận bịu vì người khác, nay có muốn vì người khác bận bịu thì mục lực đã không thể sử dụng được nữa rồi! Đối với các vị có cùng chí hướng, đều nên đem lời này nói với họ để đôi bên khỏi uổng phí tâm tư mà hoàn toàn chẳng có lợi ích gì! (Ngày Hai Mươi Mốt tháng Chạp năm Dân Quốc 28 - 1939)
115. Thư trả lời cư sĩ Cao Huệ Ấm
Đã nhận được đầy đủ thư của ông và thư của Gia Hâm với Tổ Phương. Người muốn học Phật ắt phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, ăn chay niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì mới là người thật sự học Phật. Nếu luân thường khiếm khuyết, hoặc chỉ cầu phước báo trời - người thì đều chẳng phù hợp với Phật pháp. Quang già rồi, mục lực lẫn tinh thần không đủ. Nay đặt pháp danh cho hai người ấy, viết riêng trong một tờ giấy khác; còn khai thị tường tận thì không thể viết đầy đủ được. Nay gởi cho hai người ấy Tịnh Độ Ngũ Kinh, Tịnh Độ Thập Yếu, Ấn Quang Văn Sao, Gia Ngôn Lục, mỗi người một bộ, xếp thành một gói, tổng cộng là hai gói để làm khai thị. Từ rày về sau đừng gởi thư đến hay giới thiệu người khác quy y vì không có sức để thù tiếp. Nếu thỉnh kinh sách từ Hoằng Hóa Xã cũng chớ thuận tiện gởi thư cho Quang (Ngày mồng Sáu tháng Mười Một năm Dân Quốc 24 - 1935).
116. Thư trả lời cư sĩ Dương Huệ Phương ở Độc Sơn (thư thứ nhất)
Liễu sanh thoát tử là chuyện lớn nhất trong đời người. Pháp môn Niệm Phật là một pháp môn đặc biệt trong Phật pháp. Pháp này trên đến Đẳng Giác Bồ Tát, dưới đến tội nhân nghịch ác đều nên tu tập, đều có thể cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương trong đời này. Công đức, lực dụng của pháp này khác hẳn với hết thảy những pháp Đại Tiểu Thừa đã được nói trong cả một đời đức Phật. Vì sao vậy? Do hết thảy các pháp Đại Tiểu Thừa đều phải cậy vào sức Giới - Định - Huệ của chính mình để liễu sanh thoát tử; đừng nói là phàm phu đầy dẫy triền phược chẳng thể liễu, ngay như bậc thánh nhân đã chứng Sơ, Nhị, Tam Quả vẫn chẳng thể liễu được! Tứ Quả A La Hán mới liễu được! Đây là ước theo phía Tiểu Thừa mà nói.

Nếu nói theo phía Viên Giáo, sở ngộ thuộc địa vị Ngũ Phẩm đã bằng với Phật, nhưng vẫn chưa đoạn được Kiến Hoặc. Sau khi đã viên mãn các tâm thuộc Ngũ Phẩm rồi, đoạn được Kiến Hoặc, liền chứng địa vị Sơ Tín. Bồ Tát thuộc địa vị này, nếu xét trên phương diện đoạn Hoặc thì giống như Sơ Quả trong Tiểu Thừa, nhưng công đức, trí huệ, thần thông, đạo lực vượt trỗi Sơ Quả ngàn vạn ức ức lần. Cho đến khi viên mãn tâm Lục Tín rồi, đoạn sạch Tư Hoặc, mới chứng Thất Tín; Bồ Tát thuộc địa vị này mới liễu sanh tử. Liễu sanh thoát tử nào phải là chuyện dễ! Do vậy, biết rằng cậy vào tự lực để liễu sanh tử khó lắm, khó như lên trời! Bồ Tát thuộc địa vị Lục Tín còn chưa thể liễu, huống là phàm phu đầy dẫy Hoặc nghiệp ư?

Chỉ có pháp môn Tịnh Độ cậy vào đại từ bi nguyện lực của A Di Đà Phật, bất luận già - trẻ, trai - gái, sang - hèn, trí - ngu, tại gia, xuất gia, hễ có ai chịu sanh lòng tin chân thật, phát nguyện thiết tha, chí thành khẩn thiết niệm thánh hiệu Phật thì trong đời này không một ai chẳng được vãng sanh khi lâm chung. Trong cõi đời, người niệm Phật thì đông nhưng ít kẻ vãng sanh là vì:

1) Chẳng tuân lời Phật dạy, miệng nói vãng sanh, tâm luyến trần cảnh.

2) Chẳng dạy quyến thuộc niệm Phật và chẳng nói sẵn lợi ích của việc trợ niệm và những họa hại do phô trương bày vẽ mù quáng: tắm rửa, thay quần áo sẵn, hỏi chuyện, khóc lóc v.v… Đến khi lâm chung, quyến thuộc chẳng những không trợ niệm mà trái lại còn phá hoại chánh niệm. Thất bại lúc sắp thành công, chuyện [ma chay] vẫn tuân theo sự thấy biết của thế tục, khiến cho người chết bị chìm đắm trong biển khổ sanh tử, chẳng đáng buồn ư!

Ông Ngô Đình Kiệt vãng sanh được đắc lực là nhờ cả nhà trợ niệm. Cả nhà có thể trợ niệm là do Huệ Trung đã quen nghe ông nói đến lợi ích do trợ niệm và họa hại do bày vẽ mù quáng mà ra, khiến cho ông Đình Kiệt được an tường qua đời trong tiếng niệm Phật. Mất rồi, mặt vẫn tươi nhuận, tay chân duỗi thẳng, người cả một vùng thảy đều kinh dị. Đủ biết Phật lực chẳng thể nghĩ bàn, pháp lực chẳng thể nghĩ bàn, chúng sanh tâm lực chẳng thể nghĩ bàn. Hết thảy chúng sanh đều sẵn có tâm lực chẳng thể nghĩ bàn, do không có Phật lực, pháp lực gia trì nên chỉ có thể tạo nghiệp, chẳng thể thọ dụng được! Uổng sẵn có Phật tánh mà trọn chẳng được lợi ích! Một mai nghe thiện tri thức chỉ dạy, quy mạng gieo lòng thành, được cảm ứng đạo giao với lời thề từ bi của đức Phật, cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. Nhìn lại sáu đường qua lại như bánh xe “hết lên cao lại xoay xuống thấp”, khôn ngăn thương xót! May được con cháu đều sẵn túc căn, cả nhà quy y cùng tu Tịnh nghiệp. Một ấp Độc Sơn vượt trỗi các ấp, đều khi sống sẽ chứng nhập chỗ sâu thẳm của thánh hiền, lúc thác lên bờ cõi Như Lai, mới chẳng thẹn là con người sánh cùng trời đất xưng thành ba ngôi, đích thân là đệ tử Phật Di Đà, là bạn tốt trong hải hội.


117. Thư trả lời cư sĩ Dương Huệ Phương ở Độc Sơn (thư thứ hai)
Chúng ta từ vô thủy đến nay ai nấy đều có túc nghiệp, đều có túc thiện. Kẻ khéo dụng tâm dẫu ác nghiệp phát hiện vẫn có thể tăng trưởng thiện căn. Kẻ chẳng khéo dụng tâm, dẫu thiện căn phát hiện vẫn tăng trưởng ác nghiệp! Ông bị đau chân, kiết lỵ, đau mắt là do túc nghiệp. Do niệm Phật mà chuyển báo nặng đời sau thành báo nhẹ trong đời này. Con người chuyện gì cũng chỉ nên thuận theo thiên lý nhân tình mà làm thì đời này tuy không được hưởng lợi ích lớn lao, nhưng sẽ ngấm ngầm tiêu trừ nghiệp chướng, tăng trưởng phước huệ mà chẳng hay chẳng biết. Hãy nên càng thêm nỗ lực để làm bằng khoán hòng được vãng sanh!
118. Thư trả lời cư sĩ Dương Huệ Phương ở Độc Sơn (thư thứ ba)
Thư nhận được đầy đủ. Mồng Mười tháng Mười năm trước, Quang tỵ nạn sang Linh Nham Sơn Tự cách Tô Châu hơn hai mươi dặm. Nay đã bảy mươi chín tuổi rồi, sẽ chết trong sớm tối. Mục lực suy đến tột cùng, phải nhờ vào kính lão lẫn kính lúp mới thấy lờ mờ để xem thư gởi tới và viết thư trả lời. Sau này đừng gởi thư đến nữa, cứ coi như Quang đã mất rồi, hoặc mắt chẳng xem được nữa. Có ai phát tâm hãy bảo họ quy y với vị Tăng nơi ấy cho đôi bên khỏi nhọc trí mà đều chẳng ích lợi gì!

Phàm những ai quy y đều phải chuyên chú giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, kiêng giết, ăn chay, tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương ngõ hầu chẳng phụ cái danh quy y Tam Bảo. Nếu không, chính là dùng thân để báng pháp, là tội nhân trong cả Phật giáo lẫn Nho giáo, chẳng phải là đệ tử Phật. Chuyện Hoằng Hóa Xã Quang chẳng hỏi đến. Hiện thời khốn khó gian nan, không có sức để tặng sách, mà đường sá lại tắc nghẽn, bưu phí đắt đỏ, không có biện pháp nào hết! Bưu phí cho mỗi bưu kiện là một cắc năm xu, chuyển một lần xe hơi [bưu điện tính] thêm bốn cắc nữa. Hai ba bốn năm lần chuyển sẽ tốn hơn hai đồng, nhưng binh lính, giặc cướp đầy dẫy, chẳng biết [có chuyển được] đến nơi hay không? Phàm những người thỉnh kinh đều phải gởi tiền đến trước, rồi theo kỳ hạn giao sách. Nhưng giao cho bưu cục, họ chỉ ghi vào sổ thôi, tới nơi hay không họ chẳng chịu trách nhiệm. Nếu thỉnh kinh sách, hãy gởi thẳng đến chùa Báo Quốc ở Tô Châu, Quang chẳng thể chuyển giùm. Giá giấy và công thợ ngày một đắt dần lên. Người học Phật nên cực lực quý trọng kinh sách. Nếu không, khó thể mua hay thỉnh được. Gởi kèm cho ông một tờ Một Bức Thư Trả Lời Khắp để làm khai thị, một tờ Kinh Nghiệm Dược Phương để làm phương tiện (Ngày Rằm tháng Ba)

Hãy nên nói với những người quy y đừng gởi thư tới, mà cũng đừng giới thiệu người khác quy y do không có mục lực để thù tiếp!
119. Thư trả lời cư sĩ Dương Huệ Phương ở Độc Sơn (thư thứ tư)
Hai lá thư nhận được trước sau ba ngày. Quý Châu đường xa, người quy y nên chọn vị nào chân thực tu trì; nếu là hạng lơ lửng ơ hờ và chẳng hiếu chẳng hiền đều chớ nên giới thiệu [quy y với Quang]. Đối với chuyện hương kính, có hay không đều được. Nếu gởi bằng bưu phiếu chỉ nên lấy một cắc làm hạn, năm cắc lần này quả thật là vô dụng! Nếu gởi kinh sách ra ngoại quốc thì một gói phải tốn hai đồng mới gởi được, nhưng đấy cũng là chuyện rất nhỏ. Vì nếu gởi nhiều có thể gởi kèm trong rương đựng hàng hóa, chứ còn thỉnh thoảng gởi một gói thì chỉ có thể gởi riêng lẻ.

Nói đến pháp sư Đức Sâm thì Quang chẳng dám phiền, do thầy ấy thường hay bệnh, lại quá bận việc. Nếu bày ra chuyện này, ắt thầy ấy sẽ nhọc nhằn thành bệnh. Quang nào dám để thầy ấy gánh lấy chuyện khổ này? So ra, thể chất thầy ấy còn yếu hơn Quang nữa. Vì thế, chẳng muốn gây phiền cho thầy ấy. Phàm ai quy y đều phải chú trọng kiêng giết, ăn chay, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, hòng làm gương mẫu cho người chẳng tin tưởng Phật pháp, khiến cho hết thảy những kẻ không tin sẽ tăng trưởng tín tâm thì lợi ích ấy rộng lớn lắm! Mong hãy sáng suốt soi xét, Một Lá Thư Trả Lời Khắp là khai thị châu đáo nhất, hãy nên nói với mọi người thì sẽ chẳng uổng đời này và dịp gặp gỡ này vậy! (Ngày mồng Bảy tháng Tám năm Dân Quốc 28 - 1939).


Каталог: Luan -> aqvstambien
Luan -> Phần mở đầu Tính cấp thiết của đề tài
Luan -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Luan -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
Luan -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
Luan -> MỞ ĐẦu tính cấp thiết của đề tài
Luan -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
Luan -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
Luan -> Tính cấp thiết của đề tài
aqvstambien -> Ấn Quang Pháp Sư

tải về 2.21 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   ...   29




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương